← Quay lại trang sách

15 - Những nữ chiến sĩ

Vào một buổi chiều cuối Thu năm 1980, tôi gặp lại vị Thượng tọa Phật giáo cao cấp tại một tiệm thực phẩm Việt Nam ở miền Tây Nam Hoa Kỳ. Sự gặp gỡ một người đồng chí trên phần đất xa lạ này đã là một niềm an ủi; hơn thế nữa giữa tôi và ngài có mối thâm giao đặc biệt. Chúng tôi nhắc lại những chuyện xưa, những khuôn mặt cũ của một thời hoạt động sôi nổi trong những năm trước năm 1954. Cả một quãng đời xa xưa lại được khơi dậy trong trí nhớ hôm qua. Tất cả những hình bóng, sự việc ấy như mới ngày hôm qua.

Trong những khuôn mặt của ngày đó tôi nhớ đến chị Cúc, một thiếu phụ can trường, đầy lòng quả cảm, đã hết lòng với cách mạng chống Pháp, chống Nhật cũng như chống Cộng Sản. Tất cả cũng chỉ vì hai chữ tự do và lòng trung trinh với đất nước.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho học trung lưu ở thôn dã, chị Cúc đã được nuôi dưỡng và thấm nhuần sâu xa ảnh hưởng của Nho giáo. Chị góa bụa năm 23 tuổi. Cả một gánh nặng đè trên vai người góa phụ cô đơn phải lo chu toàn một gia đình gồm bà mẹ chồng, ba cô em và bốn đứa con thơ. Chị buôn tần bán tảo sớm hôm để lo cho gia đình. Không những thế, hàng xóm láng giềng túng thiếu cũng được chị tận tình giúp đỡ. Mang tấm lòng của mình để đối với người, ai cũng quý mến chị. Cuộc đời chị bình thản trôi đi cùng năm tháng.

Vào năm 1931, người anh thứ hai của chị Cúc, một đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng qua đời, để lại trong gia đình, nhất là chị Cúc một mối ngậm ngùi khó quên. Cơn phẫn uất giặc ngoại xâm được chị nung nấu từ thuở còn son trẻ, chỉ chờ dịp bộc phát. Chị đã hết lòng giúp đỡ những đồng chí cũ của anh mình. Thời kỳ đó bọn cộng sản trá hình được người dân hỗ trợ và hưởng ứng nhiệt liệt, chị Cúc cũng hăng hái đóng góp với một lòng yêu nước thiết tha va lòng thù ghét giặc Tây.

Trong khoảng thời gian từ 1944-1945 trở đi, lúc mà vận mệnh nước nhà ta lâm vào cảnh đen tối, rên xiết dưới sự kèm kẹp của quân Pháp cũng như quân Nhật, bước chân ngoại xâm đi đến đâu để lại uất hận trong lòng dân Việt đến đó. Miền Bắc năm ấy nạn đói hoành hành, cả triệu người ngã gục, trong khi miền Nam dư thừa lúa gạo nhưng không chuyển vận ra Bắc được vì đường xa khó khăn, thêm vào đó do sự không tập của đồng minh Anh Mỹ. Quân Nhật lại thu mua tích trữ hết lúa gạo đề phòng chiến tranh lan rộng.

Trong khi thế sôi sục của cuộc chiến, lòng căm giận, thù ghét bọn ngoại xâm của dân ta đã bàng bạc khắc nơi, hun đúc lòng ái quốc, khích động lòng nhiệt thành với đất nước, và đã tạo nên một sức mạnh vô hình lôi kéo, liên kết người dân Việt với nhau để đẩy quân ngoại lai ra khỏi quê hương. Các đảng phái cách mạng đã tựa vào lòng dân và sự hỗ trợ tích cực của người dân, bí mật hoạt động. Đó là niềm an ủi vô biên cho những người con nước Việt thuở đó, nặng lòng với quê hương chỉ mong đánh đuổi quân Nhật, giặc Tây.

Ngày 6 tháng 3 năm 1945, Cộng Sản hiện nguyên hình, ngang nhiên ký Hiệp định sơ bộ với Pháp, mặc cho người dân Việt ngỡ ngàng, cay đắng vì đã đặt niềm tin nơi chúng. Chị Cúc cũng lâm vào cảnh huống đó. Những đảng phái cách mạng bí mật chống Cộng Sản được dân chúng lén lút yểm trợ. Người anh cả của chị Cúc đặt cứ điểm giao liên tại nhà chị để liên lạc, tiếp đón các chiến hữu thuộc Duy Dân Đảng.

Ngôi nhà tranh nghèo nàn của chị đã là một bức bình phong che đậy dưới mắt công an. Người thiếu phụ mảnh mai đó chẳng quản gian lao, nguy hiểm, đưa những chiến sĩ cánh mạng Duy Dân (sau khi chị giúp cải trang thành những nông dân lam lũ, chèo thuyền, gánh lúa theo chị) từng chặng đường, tiếp tế cho các tổ chức bí mật ở những nơi lân cận.

Với tài tháo vát, lòng can đảm, chị thường tình nguyện đi trước thám thính, dẫn đường để các chiến sĩ tới nơi chỉ định an toàn. Với bao sức sống, lòng nhiệt thành, chị đã dâng hiến cho cách mạng hết cả. Tính tình kín đáo, thêm với sức khỏe dẻo dai, chị đã đem những truyền đơn, những chỉ thị được ngụy trang, dấu kín trong vành khăn đội đầu, trong thúng lúa, gánh gạo. Bước chân chị đã đi khắp vùng Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, để chu toàn công tác mà anh em giao phó. Chị đã lấy niềm vui hoàn tất sứ mạng là phần thưởng cho chính mình.

Năm 1947, thời kỳ Việt Minh truy lùng các đảng phái quốc gia gắt gao. Anh Dung một nhân vật quan trọng của Duy Dân đang bị bắt giam ở đồn Trì Chính Anh em giao cho chị nhiệm vụ đưa tin mãi tận vùng Bồng Tiên, Thái Bình, liên lạc với ông Miếu, một lãnh tụ cao cấp của Duy Dân Đảng và đồng thời cũng là bạn học của anh Dung để tìm cách đánh úp, giải cứu anh Dung. Dọc đường, công an du kích khám xét, canh gác cẩn mật, nhưng chị vẫn thoát được.

Chưa kịp giải cứu, ngay đêm đó Việt Minh đã thủ tiêu anh Dung một cách cực kỳ dã man sau khi đã tra tấn anh bằng những hình cụ độc ác.

Có lần chuyển tài liệu về vùng Nam Định, chị bị công an chận đường, chị ứng biến rất nhanh nhẹn, bình tĩnh, nên vượt mọi khó khăn. Đôi lúc chị còn giúp anh em bằng cách nhận những số tiền lớn (dĩ nhiên là tiền giả) để mua tơ lụa hay các loại hàng hóa khác, bán đi để trộn chung với tiền đang lưu hành. Vào thời kỳ đó khó mà có thể đi quyên góp được, những tiền đó dùng để nuôi các chiến sĩ.

Không một gian nan, nguy hiểm nào mà chị từ chối. Ngay cả những khi phải lội qua sông để chuyển tài liệu, đi đường bộ hay đường thủy đều bị khám gắt gao, chị Cúc đã phải lội qua sông Đáy, miệng ngậm ống đu đủ, chị bơi dưới đám lục bình, cứ như thế mà thoát được sang bên bờ Nghĩa Hưng. Công tác giao phó hệ trọng và nguy hiểm nhưng hết lòng với cách mạng nên chị xem thường những hiểm nguy. Người góa phụ can trường đã nuôi nấng, tiếp tế cho những chiến sĩ cách mạng với tất cả tấm lòng đơn sơ, niềm tin mãnh liệt vào cách mạng, vào chủ nghĩa quốc gia.

Năm 1954 với đoàn người lũ lượt vào Nam, chị và gia đình ra đi với hai bàn tay trắng nhưng mang theo cả một bầu nhiệt tâm. Chị cương quyết vào Nam vì không thể sống chung với Cộng Sản. Đến vùng đất mới, chị lên vùng cao nguyên, sau lại về miền Tây (vùng Chợ Mới), cuối cùng chọn vùng Quang Trung làm nơi sinh sống. Đến năm 1975, một lần nữa chị lại lìa bỏ quê hương ra đi sang tận phần đất tự do bên này địa cầu. Ngày nay với số tuổi 80 cận kề, đôi mắt kém sáng nhìn ra trời tuyết phủ trắng xóa của miền Bắc Mỹ mà ngậm ngùi cho những ngày qua. Có vị nào trong Duy Dân Đảng nay phiêu bạt xứ người còn nhớ đến người thiếu phụ mảnh mai đã hết lòng trung kiên với cách mạng ngày nào không?

Tôi viết những dòng này với tấm lòng thành kính và xin được tôn vinh người nữ chiến sĩ kể trên. Chị là một tấm gương sáng, một hình ảnh mẫu mực tuyệt đẹp của người đã quên mình vì nước, đặt tình yêu tổ quốc lên trên hết mọi sự. Chị đã tận hiến cho đất nước tất cả tài vật, sinh lực, mà không đòi hỏi một danh lợi phù phiếm nào. Quê hương chúng ta mãi mãi tồn tại với những người con yêu như chị Cúc, cho dù dưới đã tâm tàn độc của bọn Cộng Sản vẫn không sao biển cải được con dân Việt, đất nước Việt.