16 - Vượt Trùng Dương
Ngước mắt nhìn lên nền trời mở rộng, chân mày gần ngay tầm mắt, nhìn ra vùng biển bao la, nước mênh mông một mầu xanh trong, ánh dương quang chiếu xuống mặt biển lấp lánh như rắc vàng. Tay bồng con, vai đeo chiếc bị cói, trong bị chỉ có vài bộ quần áo của hai mẹ con, không lấy gì làm nặng, nhưng con bé hay dẫy dụa vì suốt từ chiều hôm qua đến giờ bé không được dắt đi chơi, nên mẹ bé cứ phải đổi tay này qua tay kia cho đỡ mỏi.
Màng lưới công an cộng sản ngày một tinh vi, bao vây xiết chặt, ngày một cấp bách. Mùi được tin tới địa điểm gặp Thành, cả hai, tay nắm tay nhau, Mùi chỉ kịp nghe Thành dặn vói “cho biết tin sanh con trai hay con gái”. Mùi chưa kịp nói gì, đã nghe có tiếng một người ra lệnh. Không thể trì hoãn thêm một phút, cả bọn đã quay lưng lại. Mùi tần ngần nhìn theo. Được mười bước, Thành ngoái cổ lại nhìn người yêu, trên môi nở nụ cười tươi trên khuôn mặt đầy cương quyết, dầy dạn phong sương với tia nhìn thắm thiết đầy yêu thương.
Khi đã khuất bóng mọi người, trở về nhà, Mùi nhìn xuống bụng đã được hơn tám tháng, chả mấy chốc nữa đến ngày sanh, rồi sẽ đưa tin làm sao cho Thành biết đây! Nàng bâng khuâng trở lại nhà chờ ngày đứa con ra đời.
Bé Liên chào đời trong những tiếng súng gần xa vọng lại, mở mắt ra nhìn không có bố bên cạnh, bù lại có mẹ, có ông bà nội, ngoài đầy tình thương ấp ủ. Mùi cũng đỡ cô đơn; từ ngày có bé Liên, Mùi đem tình thương nỗi nhớ trút vào con, cũng đỡ những lúc nhớ nhung xa cách Thành nhưng oái ăm thay, cứ ít hôm lại có trát đòi Mùi lên công an hỏi về Thành đi, ở đâu, làm gi. Bao giờ nàng cũng chối không biết. Đâu chúng có dễ tin, khai thác bằng cách bắt nọn, dọa dẫm, hứa hẹn; không kết quả, họ đưa những bạn của Thành ngày trước, bây giờ làm lớn, tới thăm hỏi mẹ con Mùi, khuyến dụ nàng liên lạc để Thành trở về hợp tác với chính phủ.
Biết có ở lại cứ bị công an nay hỏi thăm mai thăm hỏi, Mùi tìm đường bế bé Liên vào khu chiếm đóng, đi đường bộ, phải có giấy phép di chuyển, đi đường thủy là an toàn hơn, được một tổ chức đưa đi. Bí mật tới một ngày tề tựu ở một điểm hẹn, rồi thuyền ra khơi bình yên.
Những luồng sáng vàng của mặt trời chiều tan dần trong sóng, hay chìm xuống đáy sâu vào biển cả. Trời và biến nhanh chóng hòa làm một trong bóng đêm. Biển không ngủ vẫn cồn cào trăn trở, làm rung bay tấm áo choàng mượn của trời sao. Bầu trời trong trẻo với muôn ngàn những vì sao xa xăm yên tĩnh. Cái yên tĩnh kia chính là cái chuyển động, chuyển động rất dữ dội mà đôi mắt con người với cuộc đời ngắn ngủi chẳng bao giờ nhận ra. Những con sóng bạc đầu chuyển động dữ dội, trải ra đến tận chân trời. Con thuyền nhỏ chỉ còn như chiếc lá nổi trôi trên đại dương.
Một cơn bão thổi tới, sóng gió nổi lên, nước tràn vào thuyền, cơ hồ đắm đến nơi. Trên ba mươi người trai tráng trong thuyền phần đông là các sinh viên tìm đường du học ngoại quốc, họ đổi nhau tát nước, chỉ có ba người đàn bà và mẹ bé Liên được miễn, nhờ người lái thuyền có kinh nghiệm, bình tĩnh, ông ta hạ buồm, lái gối đầu sóng đi theo chiều gió, thuyền dạt vào hòn đảo, thoát chết, mọi người lên trên đảo; nhìn lại không ai mang theo được gạo, nước, đành nhịn đói, còn bé Liên khát chỉ biết khóc, tìm đâu ra nước bây giờ.
Dưới bóng trăng mờ, một người đàn ông cứ lom khom cúi nhìn xuống đất, một lúc lâu, ông Quân đã tìm được nước đưa tới cho Mùi, bằng chiếc lá mít đầy nước, gấp theo hình phễu, để cho bé Liên uống, từ đây bé không khóc và ngủ cho tới sáng. Mùi không hiểu ông Quân lấy nước ở đâu. Hỏi chỉ trả lòi “miễn là có nước cho cháu uống cho khỏi khát.” Rồi Mùi cũng khám phá ra nước đã lấy ở vùng lớn bằng chiếc dĩa, hũm xâu xuống nhờ trận mưa lúc ban chiều còn đọng lại, biết làm sao hơn nhờ chút nước đó nhưng con nàng khỏi khát. Sáng hôm sau mọi người được biết thuyền đã trấp vào núi Nẹ gần Thanh Hóa. Chiều hôm sau vào cửa biển Đồ Sơn tới Hải Phòng.
Gia đình trùng phùng sau hơn hai năm biệt ly xa cách. Thanh không còn phải lo về vợ con bị liên lụy vì mình. Nghỉ ngơi ít ngày, sẵn óc buôn bán, Mùi đi làm quen dò la tìm hiểu về đường thương mại. Thành và Mùi đã ổn định được đời sống. Mùi tự đảm nhiệm hết việc nhà. Thành trở về với quốc gia dân tộc, người nào việc đó thời gian qua mau.
Biến cố 20-7-1954, Hiệp định Genève ra đời chia đôi đất nước. Đoàn người di cư vào Nam, các nơi đổ dồn về hải cảng Hải Phòng ngày một đông. Chẳng đặng đừng Mùi quyết định bán tất cả những gì sau bẩy năm kiến tạo, cũng như lần vượt biển trước, lần này có khác là Mùi đã đem theo được số vốn, đồ dùng xếp chặt trong hai vali, bé Liên có nhiệm vụ nắm tay em đi theo mẹ xuống tàu vượt biên vào Nam.
Được tiếp đón ở trại Cầu Kho với giang sơn rộng một chiếc chiếu giải. Hai tuần lễ sau, Thành mới tìm gặp được vợ con. Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên, Thành với một số anh em với ý chí lật ngược ván cờ, ở lại đến phút cuối, không tìm được đáp số, đành phải âm thầm thu thập hơn 3000 tráng sĩ tránh nạn vào Nam. Có thực mới vực được đạo, đôi Thành Mùi quyết tâm nỗ lực xây dựng lại cơ đồ, đất hứa chỉ dành cho những ai có ý chí; gặp may mắn, họ đã thành công.
Vận nước ngày một suy tàn, quốc biến 30-4-1975 xẩy ra bất ngờ, hoang mang lo âu, 21 năm xây dựng cơ đồ, một lần nữa lại biến thành công dã tràng xe cát. Đã có kinh nghiệm sống chung và hiểu rõ loài quỷ đỏ, không cần tuyên truyền khuyến khích mọi người đổ ra đi tìm lẽ sống trong cái chết. Cũng như hai lần trước, ông bà Thành lại ra bờ biển làn thứ ba; khác hai lần trước, các con họ đều đã lớn, đã tự túc.
Rồi gặp nhiều người cùng cảnh ngộ ở Guam, rồi Orote Point, không còn cảnh hồi hộp nhìn biển man mác mông mênh biết đâu là bờ, mà lại được lên máy bay đi tuốt tới Mỹ, một nơi văn minh bậc nhất thế giới. Cuộc đời mới bắt đầu từ ngày mỗi ba lần xếp hàng đi lấy phần ăn, gọi điện thoại tìm bà con thân thuộc, có người bảo trợ ra khỏi trại mới là thực sự vào đời đi làm đi học để hòa đồng với ngôn ngữ, tập tục, luật lệ, văn hóa mới, nhất nhất đều khác với văn hóa lề thói khi còn ở nhà, riết rồi lâu ngày cũng quen.
Còn trong lòng có ai quên được nơi chôn nhau cắt rốn, tuy phải chạy từ bỏ nơi sinh tới vùng tạm chiếm, vào đến trong Nam đâu cũng là đất nước của mình, người đồng chủng, không có cảnh ăn đậu ở nhờ đất nước người như cái cảnh chạy nạn lần này. Chưa quá ba lần, ông bà Thành lại hăm hở gây lại sự nghiệp lần nữa với ý chí chờ dịp trở về phục hồi đất nước.
Suốt năm mươi năm từ những ngày còn trẻ đến nay hai mái đầu đã bạc, Thành và Mùi sóng vai bên nhau trên suốt con đường đời gian nguy có nhau, thành đạt có nhau. Thuận vợ thuận chồng, cùng hun đúc lý tưởng và xây dựng gia đình. Nay chỉ còn một ước mơ duy nhất là nước nhà thanh bình, không còn Cộng Sản để có thể trở về quê hương an hưởng tuổi già.