29 - Người Bạn Năm Xưa
Suốt trong thời kỳ Pháp thuộc, dân mình sống trong cảnh cơ cực, nô lệ dước ách thống trị của thực dân. Nhưng những nhà cách mạng vẫn âm thầm hoặc công khai hoạt động chống Pháp. Từ phong trào Cần Vương đến Văn Thân, rồi Đông Du, Việt Nam Quốc Dân Đảng… Trong khi đó dân chúng vẫn nhẫn nhục làm ăn. Thời đó khi còn trẻ con, chúng tôi vẫn được cắp sách đến trường, bạn bè giao tình thân mến. Chúng tôi cùng một lứa tuổi, lớn lên trong cùng một giai đoạn, thời cuộc biến chuyển nên mất liên lạc.
Sau quốc nạn phân chia năm 1954, tình cờ chúng tôi gặp nhau ở miền Nam, phần đất tự do. Hàng mấy chục năm đã qua đi, người nào tóc cũng đã ngả mầu, cháu nội ngoại đầy đủ cả. Và cả một quãng thời gian đó được chúng tôi thay phiên nhau kể lại cho nhau nghe.
Thắm
Thắm nhắc đến ngày xưa bằng một giọng bùi ngùi:
-Mặc dù đã bao năm qua tôi vẫn còn nhớ đến những ngày cũ… Từ những luống rau sau nhà đến những vườn cây ăn quả. Hẳn các bạn còn nhớ bố tôi là một ông đồ lỡ thời, khi tôi lớn lên, bố tôi không còn dậy học nữa. Người lấy vườn tược làm thú vui. Bố tôi nghiêm nghị nhưng rất thương yêu chúng tôi. Riêng mẹ tôi rất chiều vì có mình tôi là gái. Khi đã lớn, mẹ tôi thường cho tôi theo hàng ngày để phụ buôn bán. Với gánh hàng tấm tôi theo mẹ tôi đi các phiên chợ lân cận. Vào một ngày cuối năm, lúc đó tôi 18 tuổi, tôi lập gia đình. Cuộc đời tôi rẽ ngang từ đấy với người chồng xa lạ.
-Trước ngày cưới tôi được mẹ đưa đi sắm quần áo, chọn những gì tôi thích mà từ trước đến giờ không đươc mua hoặc được quyền chọn theo ý. Sau ngày cưới, về làm dâu một gia đình xa lạ, không hề quen một ai, tôi đã bắt chước chị dâu tôi xuống làm bếp, quét dọn như một người đầy tớ giúp việc. Nhưng nào đã xong, các cụ bảo: “Lấy chồng như gông đeo cổ.” Thật đúng vào trường hợp tôi. Lâu dần tôi nhận ra tuy vợ chồng có thuơng yêu nhau nhưng chàng lại mắc vào nhiều thói hư tật xấu. Thôi thì đủ cả, từ ả đào đến cờ bạc, hút xách.
Khổ hơn nữa, cả bố chồng và chồng cùng một máu mê nên thường tổ chức chơi ở nhà hoặc có khi rủ nhau đi chỗ khác hàng tuần lễ hay 10 ngày mới trở về nhà sau khi đã thỏa mãn thú yêu hoa và nhẵn túi, thân hình rã rượi vì thức đêm. Mỗi lần thế là ngủ cho chán rồi lại tra khảo tôi để lấy tiền chơi bời tiếp, không nghĩ gì đến trách nhiệm làm chồng, làm cha: “Cờ bạc là bác thằng bần” là thế!
Tôi khuyên can hết lời, chồng tôi vẫn chứng nào tật nấy. Tôi đành phận, một sớm hai sương tần tảo nuôi con với gánh hàng tấm mà bố mẹ đã cho làm của hồi môn. Tôi chỉ ầm thầm chịu đựng, lấy câu số phận mà an ủi mình. Một ngày kia, một ngày đen tối đã đến với cuộc đời tôi. Hôm ấy sau khi đi chợ, săn sóc các con, tôi quá mệt mỏi đã ngủ thiếp đi, lúc tỉnh dậy sửa soạn đi bán hàng như mọi ngày thì hỡi ôi gánh hàng của tôi đã không cánh mà bay theo chồng tôi đi mất, không một lời từ giã.
Tôi chỉ còn biết ôm con mà khóc cho duyên phận mình, ngao ngán cho tình đời. Sau những lời an ủi suông của hàng xóm, bạn bè, nhìn vào thực tại phải làm gì để nuôi dậy đàn con còn nhỏ dại với hai bàn tay trắng. Tôi xoay đủ thứ từ may thuê và mướn, đến mua đầu chợ bán cuối chợ. Dần dà bán từ bánh cam, bánh xèo cho tới gánh hàng bún riêu. Vận nước đổi thay, nỗi lòng ê chề, lo sợ, mẹ con tôi theo đoàn người di cư vào Nam. Tôi lại xoay sở từ bó rau, hoa, trái mua ở các miền quê về bán lại các chợ trong thành phố. Và cứ như thế tiến triển dần từ xe nước mía tới bây giờ làm chủ một tiểu xí nghiệp ngành dệt.
Điều an ủi nhất là các con ngoan ngoãn, học hành khá cả. Cứ nhìn chúng nó tôi lại cám ơn Trời, đây là nguồn an ủi lớn cho những ngày còn lại. Với số tuổi hơn 60, tôi mãn nguyện và nhìn lại suốt quãng đời đã qua, mình chưa hề nói dối hay phải vay mượn, quỵ lụy ai. Tôi đã sống tự lập như lời bố tôi đã khuyên trước khi lập gia đình.
Vân
Người có nhan sắc nhất trong đám bạn thời đó đã kể lại câu chuyện đời nàng như sau:
-Không nói thì Thảo và Thắm cũng đã biết qua về gia đình Vân. Vân sống ở nơi thị tứ, sẵn môi trường cho người làm ăn hay kẻ thích ăn chơi. Sau thời gian nghỉ học, tôi ở nhà chia bài cho khách. Ngày này sang ngày khác, các ngón nghề đều thông thạo. Chẳng ai lạ gì khi ngồi quanh chiếu bạc, chỉ nghe những lời tục tỉu thì nhiều, tao nhã thì ít. Hết người này đến người kia ngấp nghé, rồi cuối cùng tôi thành hôn với một công chức cấp bằng kỹ sư mới ở ngoại quốc về, chỉ thấy vẻ đẹp bên ngoài là mê say.
Tôi đóng vai vợ hiền bên ngoài một thời gian. Chẳng bao lâu vợ chồng tôi ở riêng. Là vợ một công chức cao, tôi có đủ thứ, ăn mặc sang trọng, lên xe xuống ngựa, kẻ hầu người hạ. Nhưng sao tôi vẫn chưa thấy thỏa mãn. Những bạn đàng điếm cũ vẫn vây lấy tôi, tôi lén nhà tôi đi chơi với bọn chúng. Thấy tôi có sắc, chúng bám lấy tôi mà ton hót, chiều chuộng. Tôi mê say trong sự du hí đỏ đen, bao nhiêu tiền lương chồng tôi nướng cả. Tôi lại có tài nói dối, chồng tôi cứ thực thà tin tôi…
Vân cúi đầu yên lặng một lúc. Chuyện đã xưa nhưng có lẽ nàng vẫn còn thấy xấu hổ.
-Những lúc thiếu tiền tiêu, tôi chẳng kể gì đến phẩm giá, đến lòng trung thành với chồng. Tôi đã đi vào trong vòng tội lỗi. Các con tôi ăn mặc bê bối, những lúc đi sớm về muộn, thậm chí có lúc tiền chợ người bếp phải lên xin ông chủ. Chồng tôi là người rất tốt, khám phá ra sự thật nhưng vẫn một mực khuyên lơn, tha thứ cho tôi nhiều lần.
Nhưng sao tôi không thấy điều đó, không biết hối cải mà lại còn nhẫn tâm bỏ con, bỏ chồng theo thằng điếm có nhiều tiền, khéo nói. Chẳng bao lâu nó tìm cách đá tôi khỏi nhà. Từ cố vô thân, quen thói ăn tiêu, sắc đẹp về chiều, hết kẻ đưa người đón, trở về thì không dám đối mặt với chồng con, quá lo âu tôi đi tìm cái chết. Nhưng cũng như nàng Kiều, số còn nặng nợ, tôi được người ta kéo ra khỏi đường rầy xe lửa.
Chán chường và hối hận tôi trở về nhà cũ lén nhìn các con. Dưới bóng đèn đường tôi lẩn tránh như người ăn trộm, tôi sợ cả những người giúp việc cũ nhìn thấy. Tôi thật sự xấu hổ, ăn năn và hối tiếc nghĩ mình đã bỏ thiên đàng, bỏ hạnh phúc gia đình, đâm đầu vào hỏa ngục trần gian bây giờ có bị trầm luân khổ ải cũng đáng tội. Từ một mệnh phụ tôi đi giúp việc nấu ăn, coi trẻ, lang thang từ nhà này sang nhà khác.
Tôi cũng định tìm chốn âm thanh cảnh vắng mượn câu kinh, tiếng mõ mà sám hối cho hết đoạn đường đời còn lại. Thật đúng với câu hồng nhan bạc mệnh. Tôi sinh ra trong một gia đình, cha mẹ tôi không làm nghề gì ngoài gá bạc. Mẹ tôi ăn tiêu hoang phí. Đây là kết quả học hỏi của gia đình thiếu giáo dục mà tôi là nạn nhân.
Vân kết luận như trên bằng một giọng cay đắng trên gương mặt già nua mà thời gian đã tàn phá hết đi những nét xinh đẹp của ngày xưa.
Thảo
Tôi tính ưa hoạt động, nên thường được cha tôi giao phó làm những việc thay ông. Dù phải thức khuya dậy sớm tôi cũng không nể hà nên được cha tôi ưu ái. Tôi lại thích đọc báo, sách, nhất là báo hàng ngày để theo dõi tin tức quốc tế, quốc nội. Không những thế cứ mỗi khi các bác, các anh lớn trong họ tụ tập để bán về thời sự, tôi cũng ngồi nghe. Có lẽ trong các anh chị em không ai như tôi. Tôi đã nghe, từ những câu chuyện, những bất công của chính quyền đến những tin bắt bớ, giam cầm người này người nọ có liên hệ hay bạn bè với những người trong thân tộc đều làm tôi xao xuyến.
Thế chiến thứ hai bùng nổi, tin quân Nhật gây hấn ở Lư Cầu Kiều cho đến khi chúng kéo vào Lạng Sơn đều làm tôi bực tức và khích động. Có lẽ tinh thần yêu nước cũng nhen nhúm từ thuở nhỏ, từ những câu chuyện nghe được trong gia đình đến những xao động chung quanh. Nhưng dù thời thế biến chuyển, cha mẹ thấy con cái đã lớn phải nghỉ đến việc “cây cả ra hàng”. Mối manh cũng nhiều và rồi cha mẹ tôi nhận trầu Thái, nhà tôi, con một kỹ-nghệ-gia.
Ngờ đâu chàng này là bạn cũ cách đây mấy năm. Chúng tôi rất tâm đầu ý hiệp, cũng thích làm việc xã hội, cũng cảm những bất công, áp chế của thực dân Pháp, của quân phiệt Nhật. Nhà tôi thường hay tổ chức diễn kịch, những vở như Nguyễn Trãi, Lao Bảo, Sơn La (nhà tù của thực dân Pháp) với dụng ý kích thích lòng yêu nước, để người xem thấy cái khổ nhục của dân mình dưới ách thống trị của thực dân. Các thanh niên đến dự với khí thế hăng say.
Đến tai gia đình Thái, các cụ thân sinh ra nhà tôi e ngại sợ bắt bớ nên ngăn cấm. Nhà tôi cũng vâng dạ cho qua nhưng chúng tôi vẫn bàn với nhau vạch một chương trình, phải an cư lạc nghiệp mới có thể khai triển ý chí. Chúng tôi dạo đó đã có cửa hàng riêng, lấy cớ đi mua hàng, nhà tôi đi các nơi, thu thập tin tức, theo dõi thời cuộc. Khi phong trào truyền bá quốc ngữ lan tới, anh đã tích cực tham gia và cũng từ đây chí hướng hiến thân cho tổ quốc bắt đầu khơi nguồn. Lúc đó tôi rất bận rộn với cửa hàng, thêm cháu nhỏ. Nhà tôi đi bất kế ngày đêm, nhưng về tới nhà tôi vẫn nghe được anh kể lại từng chi tiết một.
Tôi rất thỏa mãn vì đã gợi được chí hướng ở anh. Những khi gặp sự bất như ý, tôi chỉ biết nàng đỡ tinh thần để anh phấn khởi mà dấn thân. Đến đầu năm 1945, vào thời kỳ quyết liệt, anh phải ở lại chiến khu. Tối hôm từ giã ra đi anh có hỏi tôi: “Em có bằng lòng để anh đi, một đi không hẹn ngày về, em ở nhà thay anh báo hiếu cha mẹ, nuôi dạy con một mình?” Tôi cương quyết nhận lời để anh yên lòng ra đi. Tôi tự nghĩ anh đi chẳng thành công cùng thành nhân. Cho đến khi khí thế cách mạng lên cao điểm tôi không còn liên lạc hay nhận được tin gì về anh. Tôi cố gắng giữ lời hứa khi chia tay.
Cả ba cặp vợ chồng này đều ảnh hưởng về giáo dục gia đình, về môi trường và hoàn cảnh. Bà Thắm thừa hưởng được nền giáo dục theo Nho giáo, dù gặp phong ba bão táp suốt thời niên thiếu bà vẫn giữ được tinh thần tự trọng và tự lập như cụ đồ đã dậy trước khi về nhà chồng. Còn người chồng đã theo cha đi quá đà, bỏ bê vợ con, lỗi đạo vợ chồng, cha mẹ.
Cặp thứ hai sinh trưởng trong một gia đình sống về nghề cờ bạc hút sách đã tiêm nhiễm thói hư tật xấu, có nhan sắc nên lấy được chồng giai cấp trưởng giả, đã không biết tự chế an phận, đến khi hối không còn dám ngửng mặt trở lại với chồng con. Chồng bà Vân tuy có học nhưng quá tin, thiếu cảnh giác từ đầu để cho gia đình tan vỡ cũng phải chịu một phần trách nhiệm. Cặp thứ ba đáng kể, họ sống hạnh phúc ngoại lệ trong tinh thần nâng đỡ đồng tâm, đồng chí hướng.
Giai đoạn 1954 trở về trước, dân mình sống cơ cực, nô lệ dưới ách thực dân Pháp, quân phiệt Nhật, vẫn có rất nhiều thanh niên nam nữ giữ trọn hiếu trung. Sau 1975 phải bỏ nước ra đi tránh họa cộng sản, tuy sống ở nước ngoài có thừa vật chất, phong lưu, nhưng ai ai cũng mong ngày về. Nếu có nhiều người như bà Thắm, biết tự túc nuôi dậy con cái thành công, nhiều đôi như Thảo-Thái biết hun đúc cho mình để hiến thân cho tổ quốc hay cố giữ lấy ký cương ngay cho chính gia đình mình, thì có lẽ ngày về quê hương không còn xa.