← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Sáu Giận Đông-Sơ công-tử cố thù riêng-Thương Bạch-Yến Tiểu-thơ gìn nghĩa nặng

Khi Bạch-xuân-Phương về tới nhà xuống ngựa rồi quất con ngựa một roi, làm cho ngựa thất kinh chạy ra sau vườn, đứng ngóng cổ ngó ra, như tuồng không biết việc chi mà chủ bất bình và thạnh nộ. Vợ Xuân-Phương là Trần-thị thấy chồng về lật đật chạy ra, gặp Xuân-Phương bước vô, mặt tràn sắc giận, thì hỏi: “Lang quân! hôm nay mình ra diễn-trường thí võ, đắc thất thể nào, mà sao xem nét mặt không vui, dường như có đều chi nghịch ý? Xin mình nói cho tôi rõ.”

Xuân-Phương quăng cái roi ngựa trên bàn rồi nói: “Tôi rất giận con ngựa Hồng-lô, hôm nay nó để một kẻ nghịch kia cỡi trên lưng nó trước diễn-trường, làm cho tôi thẹn buồn hết sức.”

Trần-thị nói: “Mình nói sao lạ vậy, ngựa là loại súc vật biết ai là người thù, biết ai là kẻ nghịch, hễ ai nhảy lên lưng nó và nắm đặng cương rồi, thì khiến sao nó phải hay vậy, mà ai cỡi nó xin mình nói cho tôi nghe.”

Xuân-Phương chưa kịp trả lời, thì thấy Tiểu-thơ Bạch-thu-Hà đã bước vô chào anh và hỏi: “Bữa nay anh ra diễn-trường thế nào, chắc anh đã chiếm đặng chức Võ-khoa Tấn-sĩ rồi phải chăng?” Xuân-Phương thở ra và nói: “Hổm nay công việc qua đã sắp đặt hoàn toàn rồi, và qua cũng chắc rằng, khoa tấn-sĩ nầy sẽ vào tay, mười phần không trật một.” Vợ là Trần thị nói: “Phải, tôi cũng chắc như vậy, vả lại mình là một vị công-tử của cửa tướng nhà quan, ai ai lại không biết, mà rồi sao? mình nói phứt cho tôi nghe, kẻo lòng nầy nghi ngại.”

Xuân-Phương nói: “Nhưng chẳng dè có tên Võ-đông-Sơ kia dám cả gan, đến tranh tài đấu lực mà chiếm đoạt khoa trường làm cho thinh giá nhà ta đều hư, và công danh ngày nay trở ra thất bại, thật là một đều rất nên đáng giận.”

Trần-thị nghe nói sững sờ rồi hỏi: “Vậy thì tên Võ-đông-Sơ ấy cũng võ nghệ cao cường lắm sao? nên mới dám cả gan đối địch cùng lang-quân như thế?”

Xuân-Phương nói: “Chẳng những võ nghệ cao cường mà thôi, mà văn trường nó cũng xuất chúng.”

Tiểu-thơ Bạch-thu-Hà nghe anh nói thì càng đem lòng ái mộ Đông-Sơ, rồi day lại kiếm lời phui pha mà khuyên giải rằng: “Thưa anh, trong chốn diễn-trường là một chỗ danh vọng chung của các đứng anh-hùng hào-kiệt, ai ai cũng trông mong đến đó mà tranh tài đấu lực, đặng lập nổi công danh, ấy là lẽ thường của nhơn tình thiên hạ, xin anh chớ mua sầu chuốc hận chi cho mệt trí nhọc lòng, và e miệng đời nói mình là người hẹp hòi độ lượng.”

Xuân-Phương nghe nói, thì rút gươm bên lưng ra mà chỉ nơi cánh tay mà nói: “Chừng nào cây gươm nầy hết thép, mạch máu nầy hết nhảy, thì ta mới hết lòng thù hận đặng.” Nói rồi trở vô tư phòng, thay xiêm đổi áo. Còn Tiểu-thơ nghe rồi thì cái vẻ buồn kia nó đã lần lần tràn ra nét mặt, làm cho cái màu hoa sắc-nước hương-trời, đương ửng ửng trên má hồng nhan, phút chúc trở ra vài phần ủ dột.

Đó rồi trở về khuê phòng ngồi một mình mà thầm suy trộm nghĩ rằng: Từ khi ta tri ngộ Võ-đông-Sơ tại Quan-âm-các đến nay, tuy là chưa tỏ một lời chi gọi là biển hẹn non thề, nhưng mà cái mối dây tình kia nó xăn văn dường như đã vấn vít vào lòng, khiến cho mình nhớ gió trông mây, thương hình tưởng dạng. Nhớ là nhớ cái ơn phò nguy cứu nạn, trong lúc gặp gỡ thình-lình. Thương là thương cái tài võ lược văn thao, đáng phường kim môn ngọc bội. Nhưng mà chưa biết ba sanh duyên nợ, trăm năm có đặng như nàng Thôi-thị với Trương-quân ấy chăng? thật nghĩ rồi lại buồn, buồn là buồn:

Người đâu gặp gỡ làm chi,

Trăm năm biết có duyên gì hay chăng?

Vả lại anh mình nay lại sanh một đều gây thù kết hận với Võ-đông-Sơ, thì biết ngày nào cho liễu nọ đặng kề mai, biết chừng nào cho loan kia gần đặng phụng.

Mảng đương thầm suy trộm nghĩ như vậy, bỗng đâu hiu hiu gió mát, ngó ra thì ác đã tà tà, bèn bước chơn ra dạo kiểng chơi hoa, đặng xem cây cỏ cho tiêu sầu khiển-muộn. Xảy thấy trong đám nhành che lá phủ kia, có một bông hải-đường rất xinh đẹp, mùi hương phưởng phất, phong kín nhụy hồng, dường như ở đó mà núp lũ bướm đoàn ong, cho khỏi bị chúng nó trộm hương nếm phấn, đặng chờ những khách giai-nhơn kiệt sĩ thì mới chịu trổ sắc khoe màu ; và đợi gặp người tiếc ngọc thương hương, mới chịu trao thân gởi phận.

Khi Tiểu-thơ xem rồi thì đứng ngẫm nghĩ một hồi, và nói: “Thật là xinh đẹp thay cho cái bông hải-đường nầy, hèn chi cổ thi có câu rằng:

Đáo để bất vi phong diệp luyến,

Thỉ tri hoa vị thắng quần phương.”

(Nghĩa là cái hoa nào mà không bị ong bướm ve vãn, thì hoa ấy mới thiệt xinh đẹp thơm tho hơn các thứ hoa).

Đó rồi Tiểu-thơ đi sang qua mé tường đông, gần phía Quan-âm-các, thì thấy một con chim bạch-yến, đương đứng sè cánh rỉa lông trên một nhánh dương kia, và kêu hát giọng rất líu lăng thảnh thót, bỗng đâu một con dều trên không thình-lình đáp xuống, bắt chim bạch-yến nơi dưới vấu chưn, rồi hả miệng khè khè, dường như muốn ăn tươi nuốt sống chim bạch-yến kia vậy. Chim bạch-yến thất kinh, kêu la, tiếng rất ai bi thê thảm, tuồng như khóc than năn nỉ với dều rằng:

“Ớ vua loại phi cầm ôi! tôi là một loại rất nhỏ mọn yếu đuối, ở dưới tay chơn ngài, chưa hề dám làm đều chi xúc phạm đến oai ngài, và cũng chẳng hề mích lòng đến ai hết. Nay tôi lâm lụy vào dưới chơn ngài, thế nào tôi cũng chẳng thoát khỏi ngài phanh thây xé thịt, nhưng mà xin ngài lấy lòng nhơn từ đại độ, mà dung thứ tôi một phen, và ban cho tôi một sự thong thả, đặng tôi về nuôi dưỡng con tôi, kẻo nó chiu chiu chích chích trong một ổ kia, và sẽ bị đói lạnh mà chết ; tôi xin hứa với ngài một lời, mỗi bữa tôi sẽ đến mà ca hát những tiếng thanh thao tao nhã, cho ngài nghe mà giải khuây.”

Con dều tàn bạo nầy liền hả miệng dăng cánh ra, kêu tiếng khè-khè, dường như nói với chim bạch-yến rằng: Bụng tao đói, lỗ tai tao chẳng biết nghe, đó rồi lấy mỏ xé thây chim bạch-yến mà nuốt phứt.

Tiểu-thơ thấy sự quái gở dữ tợn ấy, thì nhớ trực lại sự gặp thằng cường bạo hôm nọ nơi miễu Quan-âm, nó còn phưởng phất trong trí khôn, thì dựt mình quày chơn mà trở lại.