← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Bảy Luận võ nghệ tráng-sĩ luyện tinh thần,-Khảy tỳ bà Tiểu-thơ đờn Phụng-khúc

Khi Tiểu-thơ trở vô tới khuê-phòng, thì trong lòng hãy còn hồi hộp, rồi nghĩ đến sự chim bạch-yến bị tan xương nát thịt dưới một vấu chưn con dều kia, mà không ai cứu tử huờn sanh, thì lại càng đau lòng thê thảm. Sự ấy nó làm một gương dữ tợn mà dọi ngay nơi lòng Tiểu-thơ, đặng mà nhắc Tiểu-thơ nhớ lại sự thằng cường bạo hôm nọ, nếu chẳng có Đông-Sơ cứu mạng thì trong nháy mắt cũng bị hại như con chim bạch-yến ngày nay đó vậy. Nghĩ như vậy chừng nào lại càng tơ tưởng Đông-Sơ chừng nấy.

Bởi vậy nên cái mối duyên nợ nó càng ngày càng ràng buộc tấm lòng thương, còn con sóng ân tình nó cũng càng ngày càng tràn trề nơi biển ái.

Cách ít bữa Tiểu-thơ và thể-nữ dắt nhau ra lương-đình xem trăng hứng mát. Nguyên chỗ lương-đình nầy là một chỗ cảnh tình thanh lịch, gió mát trăng trong, chung quanh có trồng đủ các thứ hoa, nào là mẫu-đơn thược-dược đỏ trắng xen hàng, nào là vạn-thọ tường-vi, xanh vàng ửng sắc, bên thì thấy cụm trúc nó lao rao tiếng quyển ; bên thì mấy nhành đào nó đỏng đảnh đưa duyên, phía trước thì thấy do de mấy bụi tóc tiên, dây thì vấn theo sơn ly, dây thì vấn theo cửa sổ, bông hoa đà đuột, hình như Tây-thi mê giấc, mà trâm chuỗi bỏ lòng thòng, nhành lá phất-phơ, dường như thục-nữ sầu ai, mà tóc tai cài dã dượi.

Còn phía trong lương-đình thì có đủ văn-phòng tứ bửu, liễn cẩn màn thêu, chén bạc dĩa vàng, ghế bàn tinh khiết. Trên vách có treo một mặt Tỳ-bà, vành ốc xoa-cừ, đầu dơi ngậm tụi. Kế đó lại có treo một tấm tượng nhứt họa nhứt thi, vẽ hình Yêu-Ly đương đâm Khánh-Kỵ.

Khi Tiểu thơ và thể-nữ đi thơ thẩn theo mấy vòng hoa, rồi vô lương-đình ngồi dựa cửa sổ, thấy một cái bông tường-vi với phù-dung đương đưa qua phất lợi, dường như nó ngả ngớn giỡn trăng, và run rẩy băng xăng, dường như nó lẳng lơ cười gió, rồi thấy cung trăng lấp ló, trong mấy lùm mây, ẩn ẩn tàng cây, và giọi ngay cửa sổ, tợ hồ nàng Hằng-nga ở nơi nguyệt-điện, thấy Tiểu-thơ ngồi đó, mà lắp ló dòm chơi, đặng sánh sắc so hình, coi ai đẹp xinh cho biết.

Tiểu-thơ thấy trăng thanh gió mát, thì xúc cảnh quan tình, chẳng lẽ làm thinh, bèn ngâm chơi ít vận.

Ngâm thơ như vầy:

Tơ lóc lăng xăng mối sự tình,

Bên trời vặc vặc bóng trăng thinh.

Thuyền-quyên sóng sắc đào trên nhánh,

Quân-tử phơi hình trúc dựa ranh.

Sương đọng cỏ đeo châu trắng trắng,

Gió đưa mành xụ liễu xanh xanh.

Hải-đường ngơ ngẩn còn phong nhụy,

Chưa khứng cho ai bẻ một nhành.

Ngâm rồi day mặt ngó qua Tây viên. Bỗng thấy một người phăng phăng đi tới, lưng mang gươm, tay cầm một ngọn roi, quất bốp bốp trên đôi võ hài và đi và hút gió. Chừng đi gần tới thì Tiểu-thơ mới biết anh mình là Bạch-xuân-Phương, bèn vội vã bước ra chào hỏi. Xuân Phương và Tiểu-thơ trở vô ngồi nơi ghế. Thể nữ lật đật bưng trà cho Công-tử uống. Tiểu-thơ day lại hỏi rằng: “Thưa anh, chẳng biết anh đi đâu về khuya vậy?”

Công-tử nói: “Anh đi tháo luyện võ nghệ bên Tây-viên về, thấy em ở lương-đình, nên ghé lại chơi và hứng mát luôn thể.”

Tiểu-thơ thấy anh vui-vẻ thì kiếm chuyện đàm đạo và hỏi rằng: “Thưa anh, em có nghe người ta thường nói: Hễ lúc thái-bình thì yển võ tu văn, còn cơn bác loạn mới yển văn mà tu võ. Chớ như nay triều Nguyễn đức Gia-Long đã trung hưng phục nghiệp, nhứt thống san hà ; Nam, Bắc và Trung-kỳ, lê dân đều an cư lạc nghiệp, vậy lúc nầy là lúc yển võ tu văn, mà sao anh còn tập rèn võ nghệ làm chi cho mệt nhọc? Vả lại trong bốn năm nữa mới có một kỳ võ-khoa, thì từ đây tới đó còn xa, anh cần chi tập luyện mỗi ngày, tôi e nhọc nhằn vô ích.”

Công-tử nghe nói thì mỉm cười rồi đáp rằng: “Số là em chưa rõ, để qua nói cho em nghe. Sự tập luyện võ nghệ nầy chẳng những là làm cho huyết mạch đặng sung túc châu lưu cả và tứ chi, và các đường cân cốt đặng nở nang mạnh mẽ, mà lại làm cho tráng kiện tinh thần, cho mở mang trí thức hơn nữa ; và làm cho những sự biếng nhác giật giờ, trở ra siêng năng chẩm hẩm, tinh thần liệt nhược, trở ra phấn chấn hùng hào, làm cho các bịnh hoạn ít đến mà cảm xúc xâm nhiễm vào mình, và đặng trở ra khương ninh trường thọ.

Vậy qua nói tắt một lời sự tháo luyện võ nghệ ấy nó làm cho con người đặng tráng kiện cân cốt tinh thần ; cũng như vật thực kia làm cho bổ dưỡng tráng kiện thân thể vậy, chớ chẳng phải như bọn liệt nhược tinh thần, quần áo xúng-xính, móng tay đà đuột, chẳng biết cử động tứ chi, chẳng biết tháo luyện thân thể, để cho gân teo thịt bủng, bộ tướng giống cò ma, vóc yếu mình gầy, hình thù như mèo ướt, dẫu ai phun nước miếng trên mặt cũng chẳng dám hờn, ai đánh trên lưng cũng chẳng dám giận. Bởi vậy nên qua mới tập luyện cho mạnh mẽ tinh thần, dẫu chẳng ra mà tá quốc an bang, công thành đoạt trại, thì ở nhà cũng có sức mà chống cự với đứa côn đồ, và trừ đặng quân thù kẻ nghịch, sao mà em gọi rằng vô ích?”

Tiểu-thơ nói: “Ấy là tánh anh phòng lo như vậy đó thôi ; chớ tôi tưởng nhà mình là nhà đại gia binh bộ, tước trọng quờn cao, bộ hạ gia đinh, nó tiền hô hậu ủng, nào ai dám kết oán gây thù mà anh phải nhọc lòng nghi ngại?”

Công-tử trợn mắt ngó Tiểu-thơ và nói: “Thế em quên rồi sao? Kẻ nghịch thù với nhà ta là Võ-đông-Sơ đó chớ ai, em lẽ nào không nhớ? Qua nói thật qua với Võ-đông-Sơ cũng như Yêu-Ly với Khánh-Kỵ trong tấm tường treo nơi vách nầy vậy. Yêu-Ly giết Khánh-Kỵ rồi thì mới an lòng ; còn qua giết Đông-Sơ rồi thì mới đành dạ.” Nói rồi từ giã Tiểu-thơ, bước ra khép cửa lại, mà trở về tư thất.

Lúc nầy Võ-đông-Sơ đương đứng ngoài hoa-viên, có ý chờ cho Thu-Hà ra đặng tỏ ít lời tâm sự, xảy nghe Xuân-Phương buông lời thù hận, thì cái lửa giận nó đã lừng lẫy phừng gan, liền rút gươm ra, muốn xốc vô lương-đình mà giết quách Bạch-xuân-Phương cho rảnh, nhưng tự nghĩ rằng: nếu mình cùng Xuân-Phương vì một chút cừu riêng mà gây ra việc sống chết phi lý như vậy, thì sao cho khỏi mích dạ Thu-Hà, thì việc mình muốn gá nghĩa lương duyên cùng nàng, e cũng khó bề xe tơ kết tóc. Nghĩ vậy liền dừng chơn đứng lại, và nhẫn khí hàm thinh, rồi trở ra đứng dựa bụi phù-đung đặng chờ dịp gặp Tiểu-thơ mà tỏ lời hơn thiệt.

Còn Tiểu-thơ nghe anh nói như vậy, thì lại càng dàu dàu sắc mặt, bối rối tơ tình, không biết phương thế chi mà khuyên giải anh mình cho nguôi lòng oán hận.

Thể-nữ thấy Tiểu-thơ ngồi buồn, thì kiếm đều khuyên giải mà nói: “Thưa cô, trong lúc canh khuya đêm tịnh, gió mát trăng trong nầy, sao cô không đờn một ít bài chi mà giải khuây, nỡ để ngồi không cho canh tàn đêm lụn, thế thì cũng uổng.”

Tiểu-thơ nghe nói thì day lại mà biểu rằng: “Vậy thì con hãy lấy cây tỳ-bà lại đây.”

Thể-nữ lật đật lấy rồi trao cho Tiểu-thơ. Tiểu-thơ bèn vặn trục lên giây, rồi đờn một bài tương tư gọi là Phong-quang hảo điệu.

Cái giọng đờn ấy tiếng to tiếng nhỏ, lúc nhặt lúc khoan, cái giọng tích tịch tồn tang, dường như ai khóc ai than nghe rất tiêu tao thê thảm.

Ấy là:

Khúc đờn Tư mã hoàng cầu,

Nghe ra như oán như sầu với ai!

Lúc nầy Võ-đông-Sơ đương đứng ngoài hoa viên muốn bước tới lương-đình, đặng cạn tỏ với Tiểu-thơ ít lời tâm sự. Song cửa lương-đình đều đóng chặt, vì vậy nên phải đứng đợi ngoài hoa-viên. Bỗng nhiên nghe cái tiếng đờn thâm trầm tao nhã ấy nó vẳng vẳng lọt vào tai, làm cho Đông-Sơ mê mẩn tâm thần, dường như hồn tiêu phách lạc. Nghe rồi thì biết khúc đờn ấy là đờn bài Phong quang hảo.

Nguyên Đông-Sơ tuy là văn nho võ sĩ, song cũng đứng bực tài tử phong lưu, nên khi nghe Tiểu-thơ đờn tới mấy câu tao nhã tuyệt diệu ấy, thì xúc động tâm tình, rồi đứng dưới bụi phù-dung, ca bài Phong quang hảo đó như vầy:

Ôi nhơn duyên, ôi nhơn duyên!

Nhìn mái lương-đình cảnh tợ tiên.

Chạnh tình riêng.

Tương tư mấy khúc cung đờn dập,

Hơi cao thấp,

Khiến kẻ bên hoa bấn ruột phiền,

Hỡi Thuyền-quyên!

Tiểu-thơ nghe tiếng ca ngâm vẳng vẳng ngoài hoa-viên, thì thôi đờn mà nói với thể-nữ rằng: “Con hãy nghe coi ai ca ngâm ở đâu vậy?” Thể-nữ lật đật lại vạch cửa sổ ngó thấp thó ra hoa-viên, song chẳng thấy ai hết, thì nói: “Thưa cô, không có ai hết. Tưởng tiếng ca ấy ở ngoài đường, chớ chẳng phải trong hoa-viên.”

Tiểu-thơ cũng hồ nghi, nhưng không biết ai, song nghe câu ca thì dường có ý vị thâm trầm, chắc là những bọn trộm phấn buôn hương nào đây, nó thấy mình trong lúc canh khuya đêm vắng, nên nó thả giọng bướm lời ong, mà trêu hoa ghẹo nguyệt đó chăng? Nghĩ vậy bèn biểu thể-nữ đóng mấy cửa sổ lại rồi lấy đờn mà đờn nữa.

Đông-Sơ nghe đờn thì ca thêm một bài nữa như vầy:

Ôi trăng thinh, ôi trăng thinh!

Soi thấu cho ta mấy đoạn tình,

Giữa trời thanh.

Bên tường mỏi mắt năm canh nguyệt,

Lòng tư thiết,

Biết có ai thương tới phận mình.

Nỡ làm thinh!?

Cái tiếng ca ngâm thanh thao êm ái nầy nó thỉnh thoảng lọt vào tai Tiểu-thơ, rồi lần lần thấm vào gan ruột, làm cho Tiểu-thơ cảm động tình thương, liền buông đờn mà ngồi sững, rồi day lại kêu thể-nữ và nói rằng: “Lạ thay cái tiếng ca ngâm nầy ta nghe thỉnh thoảng gần đây, thật là văn tứ thâm trầm, tình từ tao nhã, sao mi gọi là ngoài đường cũng lạ, mà ai vậy?”

Thể-nữ nói: “Vậy thì xin cô bước lại cửa sổ dòm coi, ai dám cả gan vào hoa-viên trong lúc canh khuya đêm vắng.”

Tiểu-thơ liền bước lại cửa sổ vạch màn, ló mắt dòm ra. Lúc nầy Đông-Sơ đương đứng dưới bóng tối bụi phù-dung ngó vô. Bỗng thấy Tiểu-thơ ló mặt dòm ra, trên thì bóng trăng giọi xuống, làm cho Đông-Sơ thấy rõ ràng Tiểu-thơ, mặt mày như tiên-nữ hạ bồng-lai, cách điệu như Hằng-nga ly nguyệt-điện, làm cho Đông-Sơ mắt ngó châm châm và đứng trơ trơ như tượng gỗ.

Còn Tiểu-thơ thì rảo mắt kiếm coi, khi ngó tới bụi phù-dung, bỗng thấy một người đứng trơ, y cân hoa mĩ, tướng mạo trang nghiêm, khiến cho Tiểu-thơ dựa cửa mà sững sờ, ngó không nháy mắt. Lúc nầy cũng như Điêu-Thuyền với Lữ-Bố, kẻ liếc mắt, người đưa tình, mường tượng Phụng-nghi-đình một thứ vậy.