Hồi Thứ Hai Mươi Tám Dọn Tùng-đình phối hiệp cuộc nhơn duyên-Lập miễu võ để thờ người trung liệt.
Khi Bạch-thu-Hà liều mình tự tử rồi, thì tên đội-trưởng ở tại Tùng-đình thấy vậy liền báo tin cho quan Tư-sự hay, tức thì quan Tư-sự bổn thân đến nơi, khám nghiệm thi hài xong rồi, liền viết một biểu chương đặng cáo báo sự ấy cho Hoàng-thượng rõ, và biểu đội trưởng coi lo tẩn liệm Thu-Hà rồi để riêng linh cữu nơi một nhà kia cách xa Tùng-đình chừng trăm thước, và quàn đó mà chờ lịnh.
Đây nhắc lại khi đạo binh tả dực của ta đã đến cứu viện, và các đạo binh kia cũng đều kéo tới tiếp ứng, rồi hỗn chiến một trận với binh Mãn-châu rất dữ dằn, làm cho binh nó đánh không lại, đều kéo nhau chạy tan, chẳng dám xâm lấn bờ cõi như khi trước nữa.
Lúc giặc yên rồi, Hoàng-thượng bèn hạ lịnh kéo binh về Lạng-sơn, rồi mở tiệc khao binh thưởng tướng. Kế có quan Tư-sự bước vô ra mắt Hoàng-thượng, và dưng một biểu chương tâu về việc Bạch-thu-Hà tự tử, linh cữu còn quàn một bên Tùng-đình, và xin Hoàng-thượng liệu lượng lẽ nào, đặng định ngày an táng.
Hoàng-thưọng xem biều chương rồi thì dậm chơn chắt lưỡi và nói:
“Trước khi đánh giặc Võ-đông-Sơ có gởi cho trẫm một biểu chương, tỏ bày sự tích của Thu-Hà và xin trẫm ngự bút tứ hôn, kế gặp lúc can qua chinh chiến, vì vậy nên trẫm chưa kịp định nhơn duyên cho hai đàng, chẳng dè ngày nay Thu-Hà lại vì chồng mà tự tử, thật đáng khen cho nàng là một gái tiết hạnh trung trinh trong đời ít có.” Nói rồi day lại hỏi quan Lễ bộ Thượng-thơ rằng: “Theo ý khanh thì việc ấy phải liệu định lẽ nào?”
Lễ-bộ Thượng-thơ tâu rằng:
“Theo ý thần hạ thì Võ-đông-Sơ với Bạch-thu-Hà tuy là gá nghĩa nhơn duyên, kết tình chồng vợ, nhưng mắc bị lưu lạc giang hồ nên chưa tính đặng việc hôn phối cho rõ ràng minh bạch, nay Thu-Hà đã giữ một lòng trinh liệt mà thác theo Đông-Sơ đặng cho trọn chữ ân tình, thì cũng là một ngươi đờn-bà đáng phong đáng ngợi.
Vậy thì xin Hoàng-thượng ngự bút tứ hôn theo lời Đông-Sơ đã xin khi trước. Ngõ cho hai người đặng danh tiết rõ ràng, và cho khỏi miệng đời ngày sau dị nghị.”
Hoàng-thượng nghe rồi gật đầu, tức thì truyền cho Lễ-bộ lập một tờ kiết nhận hôn thơ, rồi Hoàng-thượng ngự bút chứng phê, và sắc phong cho Võ-đông-Sơ là Võ-hiền-hầu, phong cho Bạch-thu-Hà là Tiết-liệt nhứt phẩm phu-nhơn, còn Triệu-Dõng cũng đặng sắc phong là Khinh xa trung-úy. Đó rồi biểu Lễ-bộ Thượng-thơ lo sắp đặt các việc tang chế cho hoàn toàn và định ngày tống táng.
Bữa nọ quan Lễ-bộ Thượng-thơ truyền cho quân nhơn dọn dẹp Tùng-đình sạch-sẽ, và chưng bông thắt tụi, đèn đuốc rỡ ràng, liễn cẩn màn thêu, treo coi rực rỡ, đó rồi truyền đem linh cữu Bạch-thu-Hà về để một bên linh cữu của Võ-đông-Sơ và bảo lấy hai cây gấm đỏ và hai vóc lụa điều phủ trên quan tài, xem như một đám cưới kia, chàng rể với nàng dâu, kẻ áo đỏ người quần điều, hai gã song song ra giữa từ đưòng mà phối hiệp lương duyên đó vậy. Lại thấy giữa Tùng-đình màn treo trướng xủ, đèn thắp sáng trưng, thắt tụi kết bông, xem tợ một chỗ động phòng hoa chúc.
Kế đó quan Lễ-bộ Thượng-thơ ra đứng trước hai linh cữu và đọc tờ Hôn-thơ của Hoàng-thượng ngự bút tứ hôn như vầy:
NGHE RẰNG:
Có ly loạn mới rõ tôi hiền chúa thánh, gặp gian nguy mới biết vợ nghĩa chồng tình.
Trai như Đông-Sơ, đáng một trai khí phách anh-hùng ; gái như Thu-Hà, vẫn một gái trung trinh liệt-nữ.
Đã lắm lúc giang-hồ lưu lạc, cũng giữ một niềm son sắt chẳng nguôi lòng.
Lại nhiều phen tai nạn dập dồn, cũng gìn một nghĩa keo sơn không đổi dạ.
Lời thệ ước xưa đã nặng, phú thân danh chứng có đất trời.
Nghĩa tóc tơ nghĩa cũ còn ghi, đem vàng đá liều cùng mạng vận.
Xét những lúc non cao vực thẳm, cũng nguyện cùng nhau sanh tử chữ đồng ;
Nghĩ cho khi én lạc nhạn xa, cũng quyết một dạ thỉ chung như nhứt.
Rủi cho Đông-Sơ, gặp lúc nước nhà hữu sự, nên khiến ra duyên phận lỡ làng ;
Thương thay Thu-Hà, vì cơn mạng vận đảo điên, xui đến nỗi sắt cầm lỗi nhịp.
Trai địch khái, chiến trường vẫn mạng, phận kim cung đã rõ mặt đứng trung thần ;
Gái thuyền-quyên vị nghĩa quyên sanh, lòng khẳng khái cũng nên danh trang liệt-nữ.
Xét cho tột âm dương đồng nhứt lý, sống nhơn duyên thì thác cũng nhơn duyên.
Nghĩ mà coi nam nữ hệ thân tình, trưóc chồng vợ há sau không chồng vợ.
Vậy nên, nay lập hôn thơ một bức, đặng định cho duyên phận hai đàng,
Trước đặng câu danh tiết rỡ ràng, sau khỏi tiếng thị phi dị nghị,
Vậy thì phong cho hai gả phu vinh thế quí, gối du tiên một giấc phỉ tình chung.
Phán cho hai hồn sanh thuận tử an, miền vân hạc ngàn năm vầy trướng phụng.
Đọc rồi thì thấy trước linh cữu, màn bay phất phất, đèn chớp lòa lòa, dường như hai hồn nay đặng phối hiệp lương duyên thì trong trướng mừng rỡ bước ra, mà cảm ơn Hoàng-thượng. Đó rồi hai bên các quan tài ai nấy thấy vậy cũng đẹp lòng và đổi buồn làm vui, truyện trò hớn hở.
Bữa nọ trong lúc canh gà dục sáng, gương ác rựng hồng, hột sương mai còn mờ mịt trên không ; chim thức bạn đã líu lăng bên nhánh, bỗng thấy trước Tùng-đình nháng ra một ánh hào-quang chớp sáng, và phun lên một lằn khói mịt mù, kế nghe ba tiếng súng đại bác thần công, phát ra đùng đùng như trời gầm sấm nổ, lại nghe ba hồi đại cổ, một chập mã la, hai tiếng hòa nhau, giọng nghe rền rĩ, dường như nó kêu người mà báo tin cho biết rằng: giờ ấy là giờ động quan, ngày nay là ngày tống táng đó vậy.
Kế thấy một đội nhạc binh đi trước, trống kèn inh ỏi, sáo quyển rập rình, kế đó một đạo võ lâm quân kéo theo, mỗi người đều cầm cờ tang, sắp đi hai hàng, xem rất tề tề chỉnh chỉnh.
Kế thấy bên hữu thì linh cữu Võ-đông-Sơ, bên tả thì linh cữu Bạch-thu-Hà, tàn che bốn phía, trướng xủ xung quanh, một cặp song song, khiêng đi tề chỉnh.
Kế nữa thì Hoàng-thượng ngự giá tống hành, với văn võ bá quan đều áo mão nghiêm trang, đi có lớp lang thứ tự ; lại có một đạo binh mã kỵ, rút gươm giàn hầu theo sau mà hộ giá Hoàng-thượng, còn hai bên đường nào là trẻ già lớn bé, dắt đến xem coi, nào là xe ngựa nhộn nhàng, đón đưa chật nứt, thật là một đám tang có thể thống nghiêm trang, xem rất vinh vang trọng thể.
Khi đi tới núi kia, thì thấy một tòa miễu võ, mới cất dựa gò cao, đồ sộ nguy nga, tàng cây mát mẻ, trước cửa có treo một tấm biển sơn son thếp vàng và chạm bốn chữ: “Công-thần võ miếu”.
Phía sau thì thấv xây một vòng sơn ly thạch trụ, có chạm hình sư tử kỳ lân, chính giữa lại xây một cái huyệt đều cẩn đá xanh, tư bề rộng rãi, và phía trước dựng một tấm mộ bia cao lớn. Có khắc một hàng chữ như vầy:
“Trung liệt song-phần, Võ-đông-Sơ Bạch-thu-Hà chi mộ.”
Đó rồi khiêng hai linh cữu đem vô để giữa miễu đường, tế lễ xong rồi, đem ra chôn chung một huyệt: còn trong miễu thì lập ra ba bàn hương-án, một bàn thì thờ Đông-Sơ, một bàn thì thờ Thu-Hà, và một bàn nữa thì để thờ Triệu-Dõng và cất một nhà hậu sở để cho Triệu-nương và thể-nữ Xuân-Đào ở đó sớm tối phụng thờ, mỗi tháng vua có cấp bổng phát lương, đặng giữ việc lửa hương tế tự.
Còn hai bên thạch trụ trước miễu có chạm hai câu liễn chữ vàng như vầy:
Phận đứng anh-hùng, một thác ơn đền non nước Việt,
Tấm gương liệt-nữ ngàn thu danh rạng đất trời Nam.
Từ đây về sau thiên-hạ nhơn dân trong xứ ấy ai ai đi ngang qua miễu nầy thấy tên Võ-đông-Sơ và Bạch-thu-Hà trên tấm mộ bi, thì đều đem lòng kính vì sùng bái, và nhớ lại trong lúc Tùng-đình thì ngùi ngùi cảm khái và nhắc nhở hai người luôn luôn, nên sau người ta có đặt một câu tục diêu mà hát như vầy:
Thảm thay giọt máu chung tình,
Thương người trung liệt Tùng-đình ngày xưa.
CHUNG