← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Hai Mươi Bảy Đền nợ nước anh-hùng ra tử trận-Trọn ân tình, liệt-nữ quyết liều thân.

Vừng ô thấm thoát phút lặng đài tây, gươm nguyệt lấp lòa đã treo bóng thỏ, đoạn Võ-đông-Sơ và Thu-Hà đương ngồi trước Hoa viên đàm đạo, bỗng thấy một tên Ngự-lâm-quân, ngoài cửa vội vã bước vô, cúi đầu chào Đông-Sơ và nói: “Bẩm Đô-úy, có thánh chỉ dạy đòi, về việc binh tình cẩn cấp.”

Đông-Sơ nghe nói liền bước lại tiếp lấy thánh chỉ đọc coi, thì thấy nói như vầy:

“Nay nhơn Thanh-triều ỷ thế, nước mạnh binh nhiều, muốn xâm phạt lấn lướt nước ta, vì vậy nên trẫm phải ngự giá thân chinh, quyết đánh cùng quân Tàu một trận, trước là bảo tồn giang-san của tổ quốc, sau là cho quân Mãn-châu biết ta là nước có ái-quốc tinh thần, chẳng phải một dân tộc chịu đè ép dưới cường quyền, để cho chúng nó buộc ràng hà khắc như mấy đời trước. Vậy truyền cho Đông-Sơ Đô-úy, lập tức đến tỉnh Lạng-sơn, đặng quản xuất các đạo võ-lâm-quân, và theo trẫm mà lãnh chức Ngự tiền Hộ giá.”

Đông-Sơ đọc rồi thì nét mặt có sắc buồn dàu, đứng ngó Thu-Hà một cách sững sờ và nói: “Ái khanh ôi! cũng tưởng hai ta đã hết cơn ly biệt, đến lúc trùng phùng, đặng cùng nhau vui cuộc lương duyên, cho toại chí lúc bình sanh sở nguyện, chẳng dè cái thời điên vận đảo, nó cứ theo đeo đuổi buộc ràng, hờn thay cuộc thế đa đoan, khiến cho gặp buổi nước nhà hữu sự, vì vậy nên Triều-đình hạ chỉ, đòi tôi ra hộ giá Thánh-hoàng, làm cho đôi ta phải rẽ phụng lìa loan, thì biết chừng nào mới đặng vầy vui giai-ngẫu.

Thu-Hà nghe nói thì động lòng ly biệt, càng thêm xót dạ ân tình, rồi nghĩ cho nhà nước đương gặp buổi hoạn nạn truân chiên, thì gượng gạo lấy lời hơn thua mà tỏ bày khuyên nhủ, rồi nói:

“Lang quân ôi! hai ta vẫn đương lúc tình nồng nghĩa mặn, mà thình-lình khiến cho én lạc nhạn xa, thì dẫu ai gan sắt dạ đồng, gặp lúc nầy cũng phải đau lòng đứt ruột, nhưng mà, tôi khuyên mình phải lấy chữ ân làm trước, rồi sau sẽ nói đến chuyện tình, ân là ân quốc gia thủy thổ, tình là tình thân ái vợ chồng, nay nước nhà đương gặp lúc hữu sự phân vân, vả mấy vạn đồng bào ta đương đấu cật đâu lưng trong cõi chiến trường, mà xông pha giữa chốn lằn tên mũi đạn. Vậy thì Lang quân là một đứng nam nhi phận sự, lại thọ ơn tước lộc triều đình, thế phải ra mà đỡ vạt ngưng thành, lấy một gan đởm mà bồi đắp cho quê hương trong cơn nước lửa, đặng gọi rằng đền đáp cái ơn ngọn rau tấc đất của Việt-nam cho tròn chút nghĩa vụ của quốc gia thần tử. Tôi cũng ngày đêm khấn vái, mà cầu chúc Lang quân đặng bình an vô dạng trong chốn mũi đạn lằn tên ; ngõ mau mau mà trở bước khải hoàn, chừng ấy đôi ta sẽ hiệp mặt phòng loan, và vui tình nệm gối, thì cũng chẳng muộn.”

Đông-Sơ nghe rồi day lại ôm Thu-Hà, hai mặt nhìn nhau cách thương yêu quyến luyến và nói: Ái-khanh ôi! phận tôi đã đành ra chốn vòng binh mặt trận, thì chi nài cơn lướt đạn xông tên, thương là thương cho Ái-khanh một mình hiu quạnh nơi chốn phòng loan, cực lòng nỗi ngày trông đêm đợi. Vậy đêm nay là đêm tôi còn ngồi một bên Ái-khanh mà tay ấp má kề, giọng tình câu chuyện, song ngày mai là ngày đôi ta sẽ chia cái gánh chung tình nầy ra làm hai, nửa thì tôi ôm ấp đem theo, nửa thì Ái-khanh giữ gìn mà cất lại.”

Nói rồi thì kẻ vì ơn ly sầu biệt hận, nghĩ mà ruột héo gan xào, người thì bận nỗi duyên nợ tóc tơ, ngồi mà sững sờ bất tỉnh.

Kế một luồng gió hiu hiu thổi tới, làm cho cả hai đều mê mệt tâm thần, bỗng thấy một người y giáp rỡ ràng, kim bào ngọc đái, đi với hai tên bộ-hạ ngoài cửa bước vô, Đông-Sơ lật đật chạy ra thấy quả thiệt cha mình là Quận công Võ-Tánh, thì mừng và hỏi:

“Thưa cha, bấy lâu cha đã âm-dương phân cách, sao nay thình-lình mà phụ tử đặng trùng phùng, vậy xin cha có đều chi dạy bảo khuyên răn, thì nói cho con biết, đặng con vưng lời nghiêm huấn.”

Quận-công Võ-Tánh nói: “Bấy lâu cha đã theo miền vân hạc, mà thong dong nơi cõi thọ thanh-nhàn, nay thấy nước nhà gặp lúc lửa giặc đao binh, nên cha phải về đây đặng tỏ cùng con ít lời dặn bảo.

Con ôi! con phải biết con là phận đứng làm trai trong hoàn võ, thì phải hết lòng ái quốc ưu quân, lấy gan đởm mà trau dồi cái gương trung liệt của nhà ta cho chói sáng, đặng treo ra giữa cõi Việt-nam, mà tỏ cái nghĩa vụ của một đứng nam nhi chí khí.

Con ôi, con hãy noi theo dấu cha mà tận trung báo quốc, cho rõ tấm nhiệt thành. Chẳng nên ràng buộc theo đám nhi nữ thường tình, mà làm cho tiêu ma cái chí khí của con nhà trung thần hiếu tử. Con phải lấy giang-san quê vức mà gánh vác ở đầu vai, phải lấy một phẩm giá nhơn tài mà đúc rèn lòng thiết thạch, chẳng nên lui một bước giữa chốn kịch-liệt chiến trường, mà làm nhục cái danh của con nhà anh-hùng hào-kiệt.

Chốn chiến trường ấy là một chỗ danh dự rất vinh hiển của các đứng anh-hùng, thịt tuy nát, xương tuy tan, nhưng mà cái danh giá thơm tho hãy còn sống ngàn năm trong võ trụ.

Vậy cha khuyên con một lời chót nầy, là con phải lấy một lưỡi gươm trung nghĩa mà chống cự với quân Tàu ; và nhiểu một giọt máu anh-hùng mà rửa hờn cho tổ quốc.”

Nói rồi quày quả ra đi. Đông-Sơ lật đật chay theo, vấp chơn té xuống ; dựt mình tỉnh lại, thì là một giấc chiêm bao. Ngó lại thì thấy Thu-Hà còn ngồi một bên, bèn đem sự chiêm bao thuật lại cho Thu-Hà nghe, đó rồi hai ngươi bịn rịn cùng nhau một hồi, kế nghe canh gà dục sáng, và trống đã điểm năm, dường như tiếng gà nó hòa với tiếng trống canh, đặng mà thôi thúc hai đàng từ biệt.

Đông-Sơ bèn kêu Triệu-Dõng và nói: “Nay gặp lúc binh đao tranh chiến, Hoàng-thượng người đương trọng dụng nhơn tài, vậy Triệu-quí-hữu hãy theo tôi mà giúp đỡ nước nhà, đặng lập chút công danh với thế. Chẳng nên để cho mai một cái danh giá anh-hùng mà lỗi phận nam nhi trên đường nghĩa vụ.”

Triệu-Dõng nói: “Nếu ân-huynh có lòng dìu dắt, thì em cũng đành theo mà giúp đỡ tay chơn, vậy thì mau mau sắm sửa hành trang, đặng hai ta lên đường cho sớm.”

Nói rồi hai người liền bước vô từ giã Thu-Hà và Triệu-nương, rồi lên ngựa ra đi. Còn Thu-Hà với Triệu nương cũng vội vã đưa theo, một đỗi xa xa, mới quày chơn trở lại.

Khi Võ-đông-Sơ ra tới Lạng-sơn, vào bái yết Hoàng-thượng rồi tiến cử Triệu-Dõng làm chức Thiếu-úy, kế đó Hoàng-thượng hạ lịnh truyền cho các đạo binh, đều kéo tới Nam-quan, và giáp chiến với quân Tàu một trận rất oanh oanh liệt liệt. Còn Hoàng-thượng và có võ bá văn ban đều lên trên một toà núi cao, đặng dồn binh và khán trận.

Trong khi hai bên giáp chiến đánh nhau từ sớm mai tới trưa, súng nổ vang rền, tên bay như mưa bấc, thây nằm nhẫy đất, máu chảy đỏ sông, bỗng thấy đạo binh của ta lần lần yếu thế, còn đạo binh của Mãn-Châu thì áp tới càng ngày càng sa số hằng hà, đông như kiến cỏ.

Hoàng-thượng đứng trên núi, thấy đạo binh ta ít, thế chịu không nổi với binh Mãn-Châu, và lại bị binh nó lần lần bọc quanh rồi phủ vây ba mặt, thì nhíu mày rồi ngó rảo các hàng võ tướng đương đứng xung quanh, và hỏi rằng: “Ai dám lãnh mạng xông ra vòng binh của Mãn-Châu, đặng kêu đạo binh tả dực của ta đến đây mà tiếp cứu.”

Trong các hàng võ tướng văn quan nghe hỏi, đều lấy mắt nhìn nhau, không ai dám ra mà lãnh mạng.

Đông-Sơ thấy vậy liền bước ra khấu đầu phụng mạng tự quyết xin đi, kế Triệu-Dõng cũng bước ra xin theo Đông-Sơ mà trợ lực.

Hoàng thượng thấy hai người tuổi nhỏ, mà can đởm phi thường, thì mừng và dặn rằng: “Cái trách nhậm nầy là một trách nhậm rất cần yếu hiểm nguy, hai ngươi có đi, thì phải cho tận tâm kiệt lực.”

Đông-Sơ và Triệu-Dõng liền khấu đầu bái biệt, rồi lập tức giục ngựa thẳng xông, còn Hoàng-thượng đứng trên cao ngó ra mặt trận, thấy binh ta tuy sút, nhưng mà hàng ngũ chỉnh tề, đứng giữa mặt trận rất kịch liệt hung hăng, mà chịu với quân Tàu hơn hai giờ, không hề thối lui một bước. Quân Tàu tuy đông mà áp tới không nổi, chỉ có đem binh vây phủ ba phía mà thôi.

Hoàng-thượng và các tướng đương đứng ngóng trông tin tức Võ-đông-Sơ, bỗng thấy phía tả binh Mãn-Châu thình-lình rùng rùng vỡ tan, kéo nhau mà chạy, thì biết chắc có binh cứu viện đã tới, kế thấy một người mọp trên yên ngựa sải tới như bay, cả thảy đều châm chỉ ngó coi, chừng lại gần thì mới biết là Đông-Sơ thoát khỏi trùng vây và trở về phục mạng. Khi Võ-đông-Sơ chạv tới trước mặt Hoàng-thượng, thì lật đật xuống ngựa gượng gạo bước vô.

Hoàng-thượng và các quan ngó lại thấy Đông-Sơ mặt mày xanh lét, máu mủ đầy mình chảy ra nhỏ giọt, ai nấy đều kinh, song chưa biết bị thương nặng nhẹ thể nào. Kế Đông-Sơ bước tới và thở hào hển và nói ngập ngừng rằng: “Muôn, muôn tâu Hoàng-thượng, Triệu, Triệu-Dõng chết rồi, đạo binh tả dực, đã đến tiếp cứu và đương xáp trận với quân Tàu, nên thần hạ về đây phục mạng.” Nói rồi ngước mặt ngó Hoàng-thượng và tung hô lên rằng:

“Việt-nam vạn tuế, Thánh hoàng vạn tuế”, la vừa dứt lới, thì liền ríu ríu ngã xuống bên chưn Hoàng-thượng mà chết.

Hoàng-thượng thấy vậy cũng động lòng và rơi lụy, rồi truyền cho quan Tư-sự biểu coi tẩn liệm Đông-Sơ, quàn tại Tùng-đình đặng chờ giặc yên rồi sẽ lo tống táng.

Bữa nọ Thu-Hà đương ngồi trong tư phòng ngóng trông tin tức Võ-đông-Sơ. Bỗng đâu hai mí mắt dựt lia, và trong lòng phập phồng hồi hộp. Thu-Hà chẳng biết cớ chi, bèn bước ra xem hoa cho khuây lãng tâm thần, chẳng dè thinh không cây kim xoa đương dắt trên đầu, thoạt nhiên rớt xuống gãy làm hai đoạn, điềm ấy chưa biết lành dữ thế nào, nhưng trong lòng Thu-Hà đã sanh một mối lo buồn nghi sợ. Kế đó có tên bộ-hạ của Đông-Sơ ngoài cửa bước vô bộ coi hơ hải, thấy Thu-Hà liền chạy lại và bẩm rằng: “Bẩm Quới nương, quan Đô-úy Võ-đông-Sơ và quan Thiếu-úy Triệu-Dõng đã bỏ mạng nơi chốn chiến trường, nên Hoàng-thượng sai tôi về đây bẩm lại.”

Thu-Hà nghe rồi té nhào xuống đất và bất tỉnh. Triệu nương lật đật chạy lại đỡ lên, chừng tỉnh lại thì hai người than khóc một hồi dầm dề hột lụy, đó rồi chị em dắt nhau thẳng ra Nam-quan, đặng tìm thi-hài Đông-Sơ và Triệu-Dõng.

Khi Bạch-thu-Hà với Triệu-nương đi gần tới địa phận Nam-quan, thì mặt trời đã hầu chen lặn. Xảy thấy một tòa nhà nhỏ, ẩn ẩn trong đám thanh tùng, tư bề thì núi non hiu quạnh, cây cỏ lờ mờ, bên rừng lại nghe tiếng vượn ru con, nỉ non dưới cội, kìa thì mây sầu mịt mịt, vần vũ trên không ; nọ lại gió thảm rao rao phất phơ ngọn cỏ, đoạn thì vài con bạch nhạn, đương kêu rêu thơ thẩn góc phương trời, lớp thì dế gáy re re, hòa với tiếng ve ngâm, giọng nghe buồn bã. Nào là thằn lằn chắt lưỡi, chim ục cầm canh, nào là dưới bụi trên nhành sành kêu tích tích.

Ôi cái tình thê thảm ấy, cái cảnh quạnh hiu nầy, dường như tạo-hóa đã bố trí sắp đặt ra đây, mà vây người vào trường ly hận ; và nhốt người vào trận mê hồn, làm cho Thu-Hà ngó đến thì ruột đứt gan xào, nghe vào thì càng đầm đầm giọt lụy. Đó rồi lần lần đi tới, thì thấy một đội quân đương đứng nhựt canh trước ngõ, và bốn phía xung quanh, dùi trống nhịp sanh, đánh nghe khoan nhặt.

Thu-Hà và Triệu-nương liền bước lại kêu một tên quân và hỏi thăm tin tức Đông-Sơ, xảy thấv tên đội trưởng phía trong cúi đầu chào Thu-Hà và hỏi: “Chẳng biết Quới nương ở đâu, đến đây có việc chi mà đêm hôm xông pha vào miền chiến địa như vậy?”

Thu-Hà nói: “Tôi là vợ của quan Đô-úy Võ-đông-Sơ còn người nầy là em của Triệu-Dõng.”

Tên đội trưởng nghe nói thời đáp rằng: “Quan Đô-úy Võ-đông-Sơ đã chiến trường tử trận, Hoàng-thượng dạy đem linh cữu ngài về đây, đặng chờ ngày tống táng. Còn quan Thiếu-úy Triệu-Dõng thì chẳng biết thất lạc thi hài nơi nào, nay chưa tìm đặng.” Nói rồi lấy tay chỉ vô nhà nhỏ và thưa rằng: “Linh cữu của quan Đô-úy đương quàn tại Tùng-đình kia, xin Quới-nương theo tôi vào trong thì thấy.”

Thu-Hà nghe nói lật đật bước vô, thì phía trước có chưng một Hương-án nghiêm trang, nhưng mà đèn chong leo lét. Nhang đốt lờ mờ, chính giữa để một linh cữu với ít chậu bông hường, xem đã nhụy úa hoa tàn, dàu dàu nhánh lá, bên màn có treo một tấm minh-sanh (kêu là tấm triệu) và có viết một hàng chữ phần như vầy: “Ngự-tiền hộ-giá Ngự-lâm-quân Đô-úy, Võ-đông-Sơ chi cữu.”

Thu-Hà thấy rõ là Võ-đông-Sơ đã chết, thì chạy lại ôm linh-cữu mà khóc một cách ai bi thê thảm rằng:

“Trời ôi! Trời sao nỡ đem lòng nghiệt ác, mà cứ ghét ghen chi mãi phận người, đã mấy phen làm cho kẻ góc biển, người đầu non, kẻ sầu đông người thảm bắc, làm cho mai gầy liễu ốm, phấn lợt hương tàn, làm cho duyên nọ lỡ làng, đờn kia chinh phím, ngày nay còn nông nỗi gì mà khiến cho gái nọ mất chồng, trai nầy bỏ vợ?

Ớ quân Mãn-tặc kia ôi! bây cậy chi những lằn tên mũi đạn, mà làm cho đôi ta rẽ vợ phân chồng ; ớ quân thù nghịch kia ôi! bây ỷ thế nước mạnh binh nhiều, mà làm cho đôi ta ngày nay phải keo tan hồ rã.

Lang quân ôi! bấy lâu hai ta đã quan hà cách trở, biết bao là non nước lạc loài, nay mới cùng nhau vừa tạng mặt kề vai, cũng ngỡ là vợ chồng đặng vui tình nệm gối, chẳng dè ngày nay thiếp ra đến đây, thì màn sầu dã dượi, trướng thảm hắt hiu, chỉ thấy cái linh cữu nầy là chỗ Lang-quân đã nằm đó mà thiêm thiếp một giấc u hồn, thật là cách nhau trong gang tấc chẳng xa, nhưng mà dẫu kiếm ngàn năm cũng không trông thấy mặt.

Lang-quân ôi! Nước non đó, quê hương ta đó, nỡ bỏ đi, mà xuống chốn tuyền đài ; tình nghĩa đây, ân ái ta đây, đành nhắm mắt, mà theo miền dị lộ?

Tình-quân ôi! em nhớ thuở Lương-đình hội ngộ, đã cùng nhau căn dặn đến đều, nay sao mà, nằm đó im lìm, chẳng cùng thiếp lời chi từ biệt?

Ớ các linh cữu kia ôi, mi là loài độc ác, cậy ba thước ván, mà đậy người trong nơi kín đáo, làm cho đó đây hai ngã phân lìa ; mi là giống vô tình, ỷ mấy tấc cây, mà dấu người trong chỗ hẹp hòi, làm cho chồng vợ ngàn thu cách biệt.

Thu-Hà khóc một hồi, rồi dựa vào linh cữu, ngồi tưởng mơ màng, bỗng thấy một người xô cửa bước vô. Thu-Hà thất kinh lật đật thối lui vào trong, rồi hỏi: “Ngươi là ai, đến đây việc chi, sao dám vào chỗ đờn bà con gái?”

Người kia nói: “Ta là Võ-đông-Sơ đây, khanh quên sao?”

Thu-Hà nghe nói liền bưóc tới thấy quả Võ-đông-Sơ thì mừng rỡ vô cùng và hỏi: “Lang-quân, giặc đã yên chưa mà Lang quân về đặng?”

Đông-Sơ nói: “Quân giặc chưa yên, song ngày nay là ngày kiết nhựt, nên tôi về đây đặng làm lễ nghinh hôn mà rước Ái-khanh đi động phòng hoa-chúc.”

Thu-Hà nghe nói thì mừng biết chừng nào, liền theo Đông-Sơ ra đi ước đặng một đỗi, kế thấy một cảnh Hoa-viên, bông trái tốt tươi, có cây xinh đẹp, phía trong lại có một toà nhà rộng rãi, đèn đuốc sáng loà, xảy nghe nhạc trỗi vang dậy, tiêu thiều rập nhịp, Đông-Sơ day lại nói với Thu-Hà rằng: “Đây đã tới động phòng, xin Ái-khanh hãy bước vào buồng, đặng hai ta vầy duyên can lệ”, đó rồi hai người dắt nhau vô phòng, đèn khêu tim đỏ, hoa ửng nhụy hồng, lửa đượm hương nồng, ân tình rất nên khắng khít ; kẻ kề môi, người dựa má, khi câu chuyện, lúc giọng tình, thật là toại thay người đẹp duyên xinh, càng mê vẻ ngọc càng nhìn sắc hoa.

Kế đó Đông-Sơ đứng dậy nói với Thu-Hà rằng: “Đêm nầy trời trong trăng tỏ, vậy hai ta ra sau Hoa-viên dạo xem phong cảnh và hứng gió chơi trăng cho giải khuây”, nói rồi dắt Thu-Hà đi quanh qua lộn lại trong vườn một hồi, khi ra khỏi Hoa-viên, thì thấy một cái biển rộng lớn minh mông, gió lặng sóng êm như tờ giấy trải.

Bỗng thấy một cái mống đỏ, hiện ra trên không, rồi lần lần hạ xuống, hóa ra một cái cầu dài bắc ngang trên mặt biển, trên cầu có một tẩm bảng đề ba chữ “Ly hận kiều” lại có một bọn nam thanh nữ tú qua lại trên cầu, nhơ nhởn dập dìu, đương xem trăng hứng mát. Bỗng chúc thấy hai con rắn biển rất to, nổi trên mặt nước, mỗi con dài ước hơn hai chục trượng, mình đen như mực, mồng đỏ tợ son, một con đực và một con cái. Hai con dỡn với nhau dưới cầu, làm cho sóng nổi ba đào, nước văng trắng dã, rồi quấn đuôi vào nhịp cầu, và xỏ xà nẹo cùng nhau mà nhún tới đưa lui, trồi lên hụp xuống một hồi, làm cho nhịp giữa gãy ngang, cầu kia đứt làm hai đoạn, rồi lần lần dang ra. Xảy nghe những người đương đứng trên cầu kêu la inh ỏi, kẻ kêu vợ người khóc chồng, kẻ lìa em người cách bạn, hai bên đầu cầu kêu khóc om sòm, nghe rất ai bi thảm thiết, còn hai đoạn cầu dang lần ra xa, rồi đoạn thì trôi về hướng nam, đoạn lại trôi qua phía bắc, làm cho những người ở trên cầu ấy phải phân vợ rẽ chồng, biết bao là thảm sầu khổ não!

Đông-Sơ cùng Thu-Hà thấy vậy thì lấy làm một đều quái dị, đứng ngó sững sờ, rồi cũng đau lòng thương xót và muốn quày gót trở về, kế thấy trên mặt biển mọc lên một trụ đá to lớn, trên trụ lại có ba chữ: “Tình-nghiệt-hải” nghĩa là cái biển tình rất ác nghiệt dữ dằn

Kế đó lại thấy một thằng quỉ cao lớn, mặt xanh như chàm, mình mẩy vằn vện như cọp, ở trong trụ đá nhảy ra, và lấy tay thò xuống biển vảy nước trào lên, làm cho sóng nổi đùng đùng, khói bay mịt mịt, rồi hai chơn bước trên ngọn sóng, phăng phăng đi vô, đi tới đâu thì sóng gió ùn ùn tới đó, bỏ vòi cao lên như núi vậy.

Khi vô tới mé, thì nhảy lại chụp Đông-Sơ. Đông-Sơ trớ qua rồi rút gươm chém thằng quỉ ấy một cái, thì thấy thằng quỉ hả miệng phun ra một vòi máu làm cho Đông-Sơ mình mẩy và mặt mày đều vấy máu đỏ lòm.

Đông-Sơ nổi xung nhảy tới đâm thằng quỉ ấy một gươm ngang lưng lủng vào tới ruột, tức thì trong lỗ đâm đó ló ra một cái đuôi dài hơn năm sải, rồi quấn ngang mình Đông-Sơ và kéo nhào xuống biển.

Thu-Hà thấy vậy hoảng kinh nhảy theo chụp Đông-Sơ níu lại, chẳng dè chụp nhằm cây gươm để thờ Đông-Sơ bên bàn hương-án, thì dựt mình tỉnh lại, té ra một giấc chiêm bao. Ngó lại thấy cây gươm còn nắm chặt khừ trong tay, thì đứng đó ngơ ngửng sững sờ một hồi, rồi tự nghĩ rằng:

“Thế thì đêm nay là đêm chót trong đời mình đây, nên khiến cho chiêm bao mà thấy một điềm rất nên kinh dị, và cây gươm nầy là gươm để cho mình toan bề tự xử, đó chăng?”

Nghĩ rồi bước ra hương-án của Đông-Sơ lấy nhang đốt lên mà khóc rằng:

“Lang-quân ôi! Hai ta mảng bị cái kiếp nhơn duyên trắc trở, mà sống chẳng đặng cùng nhau đồng tịch đồng sàng, vậy thì ngày nay là ngày thiếp đến đây, xin mượn cây gươm nầy, mà xả mạng quyên sanh, đặng thác theo Lang-quân cho đồng quan đồng huyệt.

Lang-quân ôi! Lang-quân đã biết lấy một lòng ái quốc, liều thân danh mà trả nợ nước nhà ; vậy thì thiếp đây cũng nguyện đổ một giọt máu chung tình, xuống địa-phủ mà đền ơn tri-ngộ.”

Nói rồi liền lấy gươm đâm họng và ngả bên linh-cữu của Đông-Sơ mà thác.

Triệu-nương đương ở phía sau bước ra thấy Thu-Hà nằm bên linh cữu và máu chảy dầm dề, thì thất kinh lật đật lại ôm Thu-Hà mà khóc một hồi, ngó lại thì thấy Thu-Hà đã thác.

Chỗ nầy là chỗ chung cuộc của Võ-đông-Sơ với Bạch-thu-Hà rồi, tới đây tôi muốn gác bút nghỉ ngơi và nói lớn một tiếng rằng: “Truyện nầy đã hoàn tất, nhưng e cho liệt quới khán quan xem đến đây thấy giọt máu chung tình lai láng ; cái hồn trung liệt quạnh hiu, thế thì cũng có lẽ phiền dạ ức lòng mà trách rằng: tác giả là người rất đoản hậu vô tình, lấy ngọn bút sát nhơn mà giết chết một vị anh-hùng với một trang liệt-nữ, rồi để đó tồi tàn, mà chẳng cho tống táng.

Vì vậy nên tác giả xin nói tiếp thêm một đoạn sau đây cho được toàn thỉ toàn chung, kẻo ức lòng kẻ đọc.