← Quay lại trang sách

Thay lời bạt MIKHAIL PRISVIN-K. PAUSTOVSKI

Nếu thiên nhiên có thể cảm thấy sự biết ơn đối với con người vì con người đã thâm nhập vào đời sống của thiên nhiên và ca ngợi nó, thì trước hết sự biết ơn đó phải dành cho Mikhail Prisvin.

.

Konstantin Paustovsky.

Mikhail Mikhailovitr Prisvin là tên dùng trong thành phố, còn ở những nơi Prisvin cảm thấy như nhà mình - trong các túp lều của những người coi rừng, trên những bãi sông sương mù bao phủ, dưới trăng sao và mây gió của bầu trời đồng nội nước Nga, - mọi người đều gọi ông đơn giản là "Mikhalưtr". Và tất nhiên mọi người cảm thấy buồn khi ông biến mất vào trong thành phố, nơi chỉ có những đàn én làm tổ dưới mái sắt là nhắc ông nhớ đến "Giang sơn loài sếu” của mình.

Cuộc đời Prisvin là tấm gương của một người từ bỏ tất cả những gì không phải của mình, do hoàn cảnh áp đặt và bắt đầu sống chỉ “theo mệnh lệnh của trái tim”. Trong lẽ sống đó hàm chứa một minh triết vô cùng vĩ đại. Người sống “theo trái tim”, sống trong sự hòa hợp với thế giới nội tại của mình bao giờ cũng là người sáng tạo, là người làm giàu cho cuộc sống, là nghệ sĩ.

Không rõ Prisvin sẽ làm được những gì trong đời mình nếu ông vẫn là một nhà nông học (vốn là nghề đầu tiên của ông)? Dù sao thì cũng chưa chắc ông đã phát hiện ra được thiên nhiên Nga như một thế giới thơ ca trong sáng và vô cùng tinh tế cho hàng triệu người. Đơn giản là ông không có đủ thời gian để làm chuyện đó. Thiên nhiên đòi hỏi một cái nhìn chăm chú và một hoạt động nội tâm không ngừng nghỉ để tạo ra trong tâm hồn nhà văn một “thế giới thứ hai” của chính cái thiên nhiên đó có khả năng làm cho chúng ta thêm giàu suy tưởng và trở nên cao thượng hơn bởi cái đẹp được người nghệ sĩ phát hiện.

Nếu đọc kĩ tất cả những gì Prisvin đã viết thì ta sẽ có cảm giác rằng ông còn chưa kịp kể lại cho chúng ta dù chỉ một phần trăm của những gì ông đã thấy và hiểu rất rõ.

Đối với các nghệ sĩ bậc thầy như Prisvin, những người có thể viết cả một trường ca về mỗi chiếc lá thu bay từ cây xuống, thì một cuộc đời là còn quá ít. Mà có vô số những lá rơi như vậy. Biết bao nhiêu những phiến lá rụng mang theo những ý nghĩ chưa viết ra của nhà văn, - những ý nghĩ mà Prisvin nói rằng chúng rụng xuống như những chiếc lá, không có bất cứ một nỗ lực nào!

Prisvin xuất thân từ thành phố Nga cổ Eles. Đây còn là vùng quê của Bunin, một người cũng như Prisvin biết làm cho thiên nhiên giầu đầy thêm bằng sắc thái của những suy tưởng và tâm trạng con người.

Giải thích điều đó như thế nào đây? Có lẽ vì thiên nhiên vùng phía Đông Orlovsina, thiên nhiên ở quanh Eles rất Nga, rất giản dị và không trù phú lắm. Và chính trong đặc điểm đó, thậm chí trong vẻ hơi khắc nghiệt của thiên nhiên nơi đây hàm chứa lời giải cho sự sắc sảo tinh tường của Prisvin như một nhà văn. Trong sự giản dị càng nổi rõ hơn những phẩm chất của đất đai, cái nhìn sắc nhạy hơn và ý nghĩ tập trung hơn.

Sự giản dị nói với trái tim nhiều hơn là vẻ hào nhoáng, nhiều màu sắc, lộng lẫy ráng chiều, lung linh trời sao và bức tranh cây cỏ nhiệt đới mượt mà gợi ta nhớ đến những thác nước hùng vĩ, những Niagara của lá và hoa. Viết về Prisvin rất khó. Cần phải ghi lại những lời của ông vào sổ riêng, đọc đi đọc lại, tìm ra những giá trị mới trong mỗi dòng chữ, đi sâu vào những cuốn sách của ông như chúng ta theo những lối nhỏ tỏ mờ đi vào rừng thẳm với tiếng suối rì rào và hương cỏ thơm lành, - thâm nhập vào những ý nghĩ và những trạng thái khác nhau vốn là bản tính của con người đẹp cả về trí não và trái tim này.

Prisvin nghĩ về mình như về một nhà thơ “bị đóng đinh trên thập giá văn xuôi”. Nhưng ông đã nhầm. Văn xuôi của ông chan chứa chất thi ca còn hơn nhiều những bài thơ và trường ca khác.

Những cuốn sách của Prisvin, nói bằng lời của chính ông, là “một niềm hân hoan vô tận của những khám phá không ngừng nghỉ”.

Đã mấy lần tôi nghe cũng câu nói này từ những người vừa đọc xong một cuốn sách nào đó của Prisvin: “Đúng là ma thuật!” Hỏi chuyện thêm, tôi hiểu được điều họ muốn nói là cái sức dụ hoặc khó giải thích nhưng cảm thấy rõ rệt mà chỉ Prisvin mới có.

Bí ẩn của nó là ở đâu? Bí quyết của những cuốn sách ấy là gì? Những chữ “ma thuật”, “phép phù thủy” thường chỉ có trong các câu chyện cổ tích. Nhưng Prisvin không phải là người kể chuyện cổ tích. Ông là người của đất, của “mẹ đất chân chất”, là nhân chứng của tất cả những gì diễn ra quanh mình giữa thế gian.

Bí quyết sức hấp dẫn Prisvin, ma thuật của ông chính là ở sự tinh tường kia của ông.

Đó là cái tinh tường biết tìm ra điều thú vị trong mỗi sự vật nhỏ bé, biết thấy nội dung sâu sắc dưới cái bề ngoài buồn tẻ của những hiện tượng xung quanh.

Mọi vật đều thấm đẫm chất thơ ca như cỏ ngậm sương. Đến một lá liễu hoàn diệp bình thường nhất cũng sống cuộc đời riêng của mình.

“Đêm qua trời quang trăng tỏ, đến gần sáng thì đợt giá lạnh đầu tiên đổ xuống. Cảnh vật trở nên xám xịt nhưng những vũng nước vẫn còn chưa đóng băng. Khi mặt trời hiện lên và sưởi ấm, cây cối cùng hoa cỏ la đà sương móc, những cành vân sam từ trong rừng tối trưng ra vô vàn tấm thêu rực rỡ sắc màu đến nỗi nếu gom tất cả kim cương trên trái đất lại cũng không tạo ra nổi”.

Trong đoạn văn đúng là đẹp như kim cương này tất cả đều giản dị, chính xác và đầy chất thơ sống mãi.

Hãy để ý đến từng từ trong đoạn văn này, và bạn sẽ phải đồng tình với Gorki khi ông nói Prisvin là người có một “tài năng hoàn hảo bằng sự kết hợp sống động những từ đơn giản khiến mọi vật được miêu tả như có thể cảm thấy được về thể chất”.

Nhưng như thế cũng chưa đủ. Ngôn ngữ của Prisvin là ngôn ngữ nhân dân. Ngôn ngữ đó chỉ có thể hình thành trong sự giao tiếp chặt chẽ của người Nga với thiên nhiên, trong lao động, trong sự giản dị và minh triết của tính cách nhân dân. Chỉ mấy từ: “Đêm qua trời quang trăng tỏ” đã mô tả hoàn toàn rõ ràng dòng chảy im lìm và hùng vĩ của đêm trên đất nước đang say ngủ. Và “đợt giá lạnh đầu tiên đổ xuống”, và “cây cối cùng hoa cỏ la đà sương móc” - tất cả đều là dân gian, sinh động, không phải nghe lỏm hoặc rút ra từ sách vở mà là của mình, rất riêng. Vì rằng Prisvin là người của nhân dân chứ không phải là kẻ đứng từ bên ngoài quan sát nhân dân như một thứ tài liệu dùng cho việc viết lách của mình, - mà chuyện này thật đáng tiếc lại vẫn thường xảy ra ở các nhà văn.

Những nhà thực vật học có thuật ngữ “hợp thảo”. Nó thường liên quan đến những cánh đồng cỏ nở hoa. Hợp thảo là sự ngẫu hợp của hàng trăm thứ hoa cỏ vui tươi khác nhau mọc trải dài theo những đầm hồ san sát dọc các triền sông.

Văn xuôi của Prisvin hoàn toàn có thể được gọi là “hợp thảo” của ngôn ngữ Nga. Từ ngữ của Prisvin cũng nở hoa, cũng lấp lánh. Chúng khi thì xạc xào như cỏ, khi thầm thì như suối nguồn, lúc lảnh lót như chim, lúc lanh canh như băng đầu mùa rạn gãy, và cuối cùng, có khi chúng như một dòng song sao chậm chậm chảy trong trí não chúng ta.

Ma thuật trong tác phẩm của Prisvin có được chính là do những kiến thức sâu rộng của ông tạo nên. Trong bất cứ một lĩnh vực nào của nhận thức, con người cũng đều có những nguồn thơ vô tận. Các nhà thơ đáng ra phải biết điều đó từ lâu.

Nếu như các nhà thơ nắm vững thiên văn học thì đề tài về bầu trời sao vốn được các nhà thơ yêu mến sẽ tráng lệ thêm biết bao nhiêu.

Đêm với bầu trời không tên và vì thế không đủ sức biểu cảm là một chuyện; nhưng cũng đêm ấy nếu nhà thơ biết những qui luật chuyển động của vòm sao và khi mặt nước hồ phản chiếu không phải chòm sao nói chung nào đó mà là chòm Lạp Hộ rực rỡ thì lại là một chuyện khác.

Có thể dẫn ra rất nhiều ví dụ về việc một hiểu biết không đáng kể nhất cũng mở ra trước mắt chúng ta những lĩnh vực mới của cái đẹp. Trong chuyện này mỗi người có kinh nghiệm của riêng mình.

Còn bây giờ tôi muốn kể về trường hợp câu văn của Prisvin đã giải thích cho tôi hiểu một hiện tượng mà trước đó tôi vẫn cảm thấy là ngẫu nhiên. Và không chỉ giải thích, mà tôi có thể nói câu văn còn làm cho hiện tượng đó đầy đủ thêm bằng một vẻ hoàn mĩ hợp qui luật.

Đã từ lâu, tôi đã nhận thấy trên các cánh đồng cỏ ngập nước bên sông Oka nhiều chỗ hoa mọc thành từng cụm riêng lẻ, nhưng có nơi giữa cánh đồng cỏ bình thường bỗng xuất hiện một dải dài ngoằn nghèo san sát những bông hoa giống nhau. Điều đó đặc biệt thấy rõ từ trên chiếc máy bay nhỏ bé “U-2” thường bay đến phun thuốc trừ muỗi ở những đồng cỏ và đầm lầy.

Đã nhiều năm, tôi quan sát những dải hoa cao và ngát hương này, rất thích chúng, nhưng không biết giải thích hiện tượng đó như thế nào. Mà thực ra, tôi cũng không nghĩ nhiều đến chuyện đó.

Và rồi ở trong tập sách Bốn mùa của Prisvin, cuối cùng tôi đã tìm thấy câu giải thích cho hiện tượng này chỉ qua vẻn vẹn một dòng chữ trong đoạn vắn ngắn xíu dưới đầu đề Những dòng sông hoa: “Ở nơi trước kia là luồng nước xuân vùn vụt chảy bây giờ là những dòng sông hoa”.

Tôi đọc câu đó và hiểu ngay rằng những dải hoa đó mọc lên đúng ở nơi mùa xuân có dòng nước lũ chảy qua để lại sau mình một lớp phù sa màu mỡ. Nó giống như một tấm bản đồ lũ xuân được vẽ bằng hoa.

Gần Moskva có con sông Dubna chảy qua. Hàng ngàn năm nay, con người sinh sống ở đó, nó đã được biết đến, được ghi trên bản đồ. Con sông êm đềm chảy qua những khu rừng nhỏ ngoại thành Moskva mọc rất nhiều cây hoa bia, qua những đồi gò và đồng nội thẫm xanh, qua những thị trấn và làng mạc cổ xưa - Dmit’rov, Verbilok, Tandom... Hàng ngàn người đã đi trên dòng sông này, trong số đó có các nhà văn, các họa sĩ và các nhà thơ. Nhưng không ai nhận ra điều gì đặc biệt đáng mô tả trên sông Dubna. Không có ai đi trên đôi bờ của nó như đi trên một miền đất chưa được khám phá.

Nhưng Prisvin đã làm việc đó. Và con sông Dubna khiêm nhường bỗng ánh bừng lên dưới ngòi bút của ông giữa những sương mù và những hoàng hôn lịm tắt như một phát hiện địa lí, một khám phá, như một trong những dòng sông thi vị nhất của đất nước - với cuộc sống đặc biệt của riêng mình, với cỏ cây riêng, với cảnh quan duy nhất chỉ sông Dubna mới có, với lịch sử, với những tập tục của cư dân hai bên bờ.

Ở nước ta có những bác học - nhà thơ như Timiriazev, Kliutrevski, Kaigorodov, Phersman, Obutrev, Menzbir, Arsenev, như nhà thực vật học mất sớm Kojevnikov, tác giả của cuốn sách về mùa xuân và mùa thu trong đời sống các loại cây được viết rất chuẩn mực về khoa học đồng thời lại rất hấp dẫn.

Và nước ta cũng đã và đang có những nhà văn biết đưa khoa học vào các truyện vừa, tiểu thuyết của mình như một phẩm chất cần thiết bậc nhất của văn xuôi, - đó là Melnikov - Petrerski, Aksakov, Gorki, Pinegin và nhiều người khác.

Nhưng giữa các nhà văn đó, Prisvin chiếm một vị trí đặc biệt. Những kiến thức sâu rộng của ông trong các lĩnh vực dân tộc học, sinh vật khí hậu học, thực vật học, động vật học, nông học, khí tượng học, lịch sử, văn hóa dân gian, điểu loại học, địa lí học, địa phương học và các ngành khoa học khác thâm nhập một cách hữu cơ vào đời sống sang tạo văn chương của ông. Những kiến thức đó không nằm ì như vật chết. Chúng sống trong ông, liên tục được bồi đắp bằng kinh nghiệm của ông, bằng óc quan sát của ông, bằng đặc tính may mắn nắm bắt những hiện tượng khoa học trong chính biểu hiện thơ của chúng, qua những thí dụ nhỏ hoặc lớn nhưng đều bất ngờ như nhau.

Khi Prisvin viết về con người, ông hình như nheo mắt lại trong cái nhìn sắc sảo của mình. Ông không chú ý đến cái ngoại lai. Ông quan tâm đến điều mơ ước sống trong tim mỗi người, dù cho người đó là thợ rừng, thợ giầy, thợ săn hay nhà bác học lừng danh.

Bài toán là ở chỗ làm sao đưa được điều mơ ước thầm kín của con người ra ngoài ánh sáng. Việc đó rất khó. Không có gì con người giấu kín như là ước mơ. Có lẽ vì mơ ước không chịu nổi chỉ một sự chế giễu nhỏ nhặt nhất, cả đến một câu nói đùa, và tất nhiên không chịu nổi sự đụng chạm của những bàn tay hờ hững.

Chỉ có thể thổ lộ mơ ước với người đồng chí hướng mới không phải trả giá. Prisvin là người đồng chí hướng với những kẻ mơ mộng vô danh của chúng ta. Bạn hãy nhớ lại truyện ngắn Đôi giày ông viết về những người thợ giày - “Con Quay” ở Rừng Maria dự định đóng một đôi giày đẹp và nhẹ nhất thế gian cho người phụ nữ của xã hội Cộng sản. Prisvin qua đời để lại nhiều ghi chép và nhật kí. Trong những ghi chép đó chứa đựng những suy tưởng của Prisvin về nghệ thuật viết văn. Trong lĩnh vực này, ông cũng tinh tường sâu sắc như trong quan hệ của ông đối với thiên nhiên.

Theo tôi, có một truyện ngắn của Prisvin viết về cái giản dị của văn xuôi đáng được coi là kiểu mẫu chuẩn xác của tư duy. Nó có tên là Người viết, trong đó có đoạn đối thoại về văn chương giữa nhà văn với một chú bé chăn bò.

Đây là cuộc đối thoại. Chú bé chăn bò nói với Prisvin:

“- Giá như bác viết sự thật, mà bác thì có lẽ bịa ra cả.

- Không phải tất cả đâu, - tôi đáp, - nhưng cũng có một ít.

- Giá mà cháu, cháu sẽ viết hẳn ra!

- Viết tất cả sự thật?

- Tất cả. Chẳng hạn nếu viết về đêm, cháu sẽ viết đêm trôi qua trên đầm lầy như thế nào.

- Cháu viết như thế nào?

- Viết thế này nhé! Đêm. Một bụi cây to ơi là to bên cạnh hồ nước. Cháu ngồi dưới bụi cây, còn lũ vịt con thì cứ vít, vít, vít…. Cậu bé ngừng lời. Tôi nghĩ chắc cậu đang tìm từ hoặc chờ đợi một hình ảnh nào đó. Nhưng cậu đã rút ra một khúc gỗ làm sáo và bắt đầu khoét lỗ.

- Này, tiếp theo thế nào? - tôi hỏi. - Cháu muốn tả đêm như thật kia mà.

- Thì cháu đã tả xong rồi, - cậu bé trả lời, - tất cả đúng như thật. Một bụi cây to ơi là to! Cháu ngồi dưới bụi cây, còn lũ vịt con thì cứ suốt đêm vít, vít, vít….

- Nhưng mà ngắn quá.

- Bác bảo sao, “ngắn” à! - chú bé chăn bò ngạc nhiên. - Suốt cả đêm chúng nó kêu: vít, vít, vít …

Suy nghĩ về cái truyện ngắn này, tôi nói: - Rất tốt!

- Chẳng lẽ lại tồi ạ, - cậu bé đáp”.

Trong sự nghiệp nhà văn của mình, Prisvin là người chiến thắng. Bất giác tôi nghĩ đến những lời của ông: “… Nếu đến cả những đầm hoang chỉ một mình chứng kiến chiến thắng của bạn thì chúng sẽ bung nở một vẻ đẹp khác thường, - và mùa xuân sẽ mãi mãi còn với bạn, một mùa xuân, một vinh quang giành cho chiến thắng”.

Vâng, mùa xuân của văn xuôi Prisvin sẽ còn mãi trong cuộc sống của những con người chúng ta và trong nền văn học xô viết của chúng ta.

(Trích Bông hồng vàng)

Đoàn Tử Huyến dịch