← Quay lại trang sách

Chương năm

Thằng Hợi, bảo lũ trẻ đi theo nó dừng lại trên một con dốc, con dốc có nhiều tàn cây nhỏ, rậm lá, và những tảng đá xanh nằm ghim cứng dưới đất lú lên khỏi mặt cỏ, những chóp nhọn mòn như cục u. Nhìn những tàng cây, lá che kín, Hợi đưa mắt nhìn một thằng trong bọn đứng bên cạnh:

- Chỗ này ngon hé tụi bây?

- Nó thấy một đứa trong đám mình là hỏng bét hết.

- Khỏi lo, mình núp sau mấy bụi cây này làm sao nó thấy được.

Hợi móc trước bụng những quyển tập học ở trường ra, những quyển tập lem luốt vết mực, những góc cuốn lại như con sâu đo. Mấy quyển tập cong queo khi nó móc ra vướng phải chiếc áo len bên ngoài.

- Trước hết phải thanh toán mấy cái thứ vướng vào người cho rảnh cái đã.

Nó quăng mấy quyển tập vào một bụi cây dưới chân. Bốn đứa theo Hợi đang kè kè cái cặp trên tay thấy như vậy cũng quăng vào một đống. Đứa nào bộ mặt cũng hớn hở, chúng thích thú, vì chút nữa đây thằng Hợi sẽ phục thù thằng Vũ.

Hôm trước, Hợi dẫn ông Ngạt đến mắng vốn, thằng Hợi giả bộ hay ghê. Khóc bù loa, bù lê. Ba nó thấy vậy dẫn đi. Không ngờ qua nhà Vũ gặp cái miệng con nhỏ Trang, con nhỏ huỵch toẹt ra hết: thằng Hợi trốn học, thằng Hợi thẩy đáo lỗ, thằng Hợi ăn cắp mận, ổi tùm lum lên không sót một chuyện gì. Ông Ngạt dẫn Hợi về nhà đánh cho một trận đòn nên thân, cấm không cho đi chơi đâu hết; ông còn dẫn đến nhờ thầy hiệu trưởng lưu ý đặc biệt đến nó. Hôm đó Hợi bị quỳ trước cửa lớp. Giờ ra chơi, Hợi vẫn chưa được thả. Lũ học trò kéo nhau ra khỏi lớp nhìn Hợi chầm bầm. Nhất là mấy đứa con gái, trong đám có con Trang, con Mận, con Thoa. Chúng nhìn Hợi cười rúc rích. Hợi quê quá! Hợi như củ khoai lang sùng, nó bỗng thấy ghét mấy con nhỏ nầy thậm tệ. Con nhỏ Trang hằng ngày Hợi thấy dễ thương, nhưng hôm nay chả muốn dòm mặt một tí nào. Đã vậy con nhỏ còn đi ngang nói khảy với con Mận cốt cho nó nghe:

- ‘‘Thằn lằn cụt đuôi rồi tụi bay.’’

Nghe mà tức, nhưng Hợi làm như không biết gì hết. Con gái chỉ tài chua ngoa, có tài khóc nhè, chớ làm gì được ai. Nên hổng thèm chấp làm gì.

Nguyên nhân cũng tại thằng Vũ. Hợi nhứt định lần này phải cho nó một trận biết tay, nhưng mấy hôm lần không thấy Vũ nên chưa có chuyện gì xảy ra, vả lại từ hôm bị quỳ trước cửa lớp đến nay, Hợi không dám trốn học nữa, nhà trường sẽ gởi giấy về nhà; có gởi giấy về nhà cũng không sợ bằng bị quì rồi bị bọn con gái chua ngoa.

Hôm nay lớp của Hợi được về sớm, mang ý nghĩ phục thù Vũ, Hợi rủ thêm bốn đứa chặn ngay con đường dốc cao nầy.

Hợi cởi chiếc áo len mặc bên ngoài ra. Buổi trưa, nắng lên nên không khí ấm áp; chả thằng nào co ro như buổi sáng đến trường nữa. Cột hai tay áo thắt nút vào cổ, chiếc áo thòng ra sau lưng như cái áo choàng của mấy tay hiệp sĩ thời xưa. Hợi thấy mình oai vệ quá! Nó cầm cái ống đồng dài nửa thước trên tay như một thanh đoản kiếm, trông oai phong lẫm liệt ác.

Thằng Vũ được tiếng là bắn ná hay, mấy cái hột ô môi của nó để vào đâu trúng đó. Máy lần trước Hợi chịu thua, là vì nó không phòng bị ống đồng nầy, và một mớ đất dẻo đi. Nếu có, chưa chắc thằng nào hơn. Hôm nay Hợi không ngán thằng Vũ một tí nào.

Như muốn biểu diễn cho mấy đứa thấy cái tài thổi ống đồng của mình, Hợi lấy một gói đất sét dẻo, bóc một miếng vo tròn lại cho vừa khít ống đồng. Nhắm một trái thông khô lủng lẳng trên cao ‘‘Soạt’’. Hợi chu mỏ thổi một phát trúng phóc. Trái thông đong đưa qua lại. Một vài con chim đậu trên cành hoảng kinh vỗ cánh bay lên. Lũ trẻ đứng quanh đứa nào cũng phục sát đất. Một lần chúng đã thấy Vũ bắn ná rồi. Nhưng Vũ chưa biểu diễn đẹp như Hợi; nên đứa nào cũng khoái lối thổi đồng của Hợi. Được bọn trẻ phục quá. Hợi lên hương:

- Bữa nào chủ nhật nghỉ tao dẫn tụi mầy lên đồi thổi chim tụi mình nướng ăn.

Nghe thằng Hợi nói như vậy, cả bọn nghĩ ngay đến ông bán chim quay trước cửa trường. Không biết ông ta bẫy chim sẻ ở đâu mà thiệt nhiều. Đem về mổ bụng quăng ruột, thoa phẩm lên rô ti thơm phức. Ông treo lủng la, lủng lẳng ở phía sau yên xe đạp. Chim được để trên lò than nên lúc nào cũng nóng hổi, vừa thổi vừa ăn thơm thơm, béo béo. Mới nghĩ đến đã làm cho nước miếng đọng lại hai bên mép. Đừng nói chi cắn vào một miếng thịt đỏ hỏn đó. Một thằng trong bọn chịu ăn chim nướng quá, nói:

- Nhớ nghe mậy. Hôm nay mình hạ thằng Vũ, chúa nhật ăn mừng thịt chim.

Thằng khác chen vào:

- Hoan nghinh ý kiến của thằng Toản; thằng Hợi hách ba chê!

Cả bọn ngồi xuống bãi cỏ, mặt đứa nào đứa nấy sung sướng như đang ăn thịt chim trước cửa trường. Giọng nói của ông rao rang rảng đủ thấy vui: Mại vô! Mại vô, mấy cô, mấy cậu, hai đồng một con ăn mau lớn, học đâu nhớ đó. Ông rao một dây nghe vui. Cũng như ông già bán chim, một lão chệt bán bột trộn với đường vò lại thành từng viên bằng viên đạn. Hễ ông già bán chim vừa rao xong, là lão chệt bắt đầu hát: ‘‘Cái bi don don, cái bi dòn dòn’’. Ngày nào hai ông già nầy đem đến trường đều bán sạch.

Từ đàng xa Hợi đã thấy một vài đứa trẻ đi học về. Hợi đứng lên:

- Ê tụi bây, thằng Vũ sắp về rồi đó.

Tất cả năm đứa, luôn cả Hợi tìm chỗ chạy thật tiện nhìn xuống con đường nhỏ phía dưới. Chỗ bọn Hợi núp không cao lắm, nhưng dốc thẳng xuống, nhiều cây rậm ngang lưng, và đá xanh nên khó đi. Sơ ý có thể té lăn xuống đường dễ dàng.

Nằm dài sau một bụi cây, Hợi mở gói đất sét vò lại nhiều viên tròn để chút nữa dễ tấn công.

Trong đám còn lại, một mình thằng Toản chường mặt ra để đợi Vũ. Toản quay lại nói với Hợi:

- Thấy nó, tao huýt gió cho mầy biết nghe.

Hợi đang vò đạn, nghe nói ngẩng lên:

- Nhưng mầy đừng đứng chàng ràng trước nó, tao thổi trúng thời ráng mà chịu à nhen.

Buổi trưa nắng nhả xuống sợi dài trên đường. Toản đưa tay lên trán nhìn ra xa. Qua một khúc đường quanh, thằng Vũ đang đi tới, Toản huýt sáo báo cho đồng bọn biết. Nghe tiếng huýt sáo Hợi nhìn xuống đường. Đặt ống đồng lên nhánh cây chẽ đôi, vừa tầm. Thằng Vũ đứng dưới đường sẽ lãnh trọn viên đất mà thằng Hợi muốn thổi tới. Trên đường đi học về nhà, Vũ không mảy may biết thằng Hợi đang sắp đặt phía trước chờ Vũ đi tới. Vũ nghĩ đến chú Duy hết phép đi khi sáng. Chú đi buồn ghê! Không biết đến khi nào chú mới về. Vũ nhớ chú nói khi nào chú có thiếm sẽ đưa Vũ về ở chung cho đi học, Vũ sẽ được sung sướng hơn là ở đây với ba, và dì ghẻ.

- Vũ.

Đang nghĩ tới chú Duy, Vũ giật mình nghe tiếng gọi lớn phía trước. Vũ dùng lại nhìn lên khoảng dốc. Một thằng Vũ thường thấy đi chung với thằng Hợi. Một chân đứng gát trên tảng đá, hai tay chống nạnh, mặt hếch lên như khiêu khích. Không thèm nói Vũ bước đi.

Toản thấy Vũ bỏ đi, nó gọi thêm một lần nữa:

- Ê Vũ, thằng Hợi có chuyện muốn nói với mầy.

Vũ quay lại:

- Chuyện gì?

- Nó đang ở phía trên đợi mầy.

- Sao nó hổng ra đây mà ở trên đó?

Toản thấy Vũ vẫn đứng phía dưới ngóng lên, nó nghĩ ngay một cách có thể lừa Vũ lên được, giọng nó không còn hách như lúc đầu nữa.

- Tụi tao muốn nói chuyện đàng hoàng với mầy.

Bọn nầy chắc đang kiếm cách gây sự với mình đây! Nghĩ như thế Vũ nói:

- Để lúc khác, tao mắc về nhà không thể ở lại chơi được.

Hợi nằm trong bụi cây, nghe hai đứa nói qua, nói lại hơi bực mình, nó huýt sáo khe khẽ. Toản nghe hiệu xít qua một bên.

Ở bên dưới, Vũ không hiểu thằng Hợi muốn nói gì với mình. Mấy hôm nay buổi sáng nào Vũ cũng thấy nó đi học đàng hoàng; có lẽ nó muốn làm thân với Vũ. Thôi để xem nó muốn nói với mình những gì. Vũ bước lên.

Ống đồng của Hợi nhắm ngay mặt Vũ thật đúng. Thấy Vũ bình tĩnh đi lên không biết ống đồng thổi đất sét ướt sẽ trúng mặt mình. Hợi bồn chồn một chút! Thằng Vũ đi học đâu có đem theo giàn ná. Vả lại mấy lần đụng độ với Vũ, Hợi thấy Vũ cũng hách ba chê lắm, nhưng không kiếm cách gây sự với ai như bọn Hợi. Vũ học giỏi, bạn bè đứa nào cũng khoái nói chuyện, nhờ chỉ giùm những bài toán. Những ý nghĩ đó làm cho Hợi hạ ống đồng xuống ngang vai của Vũ, trúng ngay vai đỡ đau hơn trên mặt. Vả lại Hợi muốn cho Vũ biết cái ống đồng của Hợi cũng tài dách không thua gì ná thun của Vũ.

-‘‘Suỵt’’.

Viên đạn đất bay trúng ngay phóc. Không ngờ bị trúng một viên ngay vai, nhưng nhờ chiếc áo ấm Vũ đang mặc trên người nên đỡ đau được một phần nào. Vũ quýnh quáng chưa kịp tìm chỗ núp. ‘‘Suỵt’’ thêm một phát nữa ngay đùi, Vũ phóng đến một mô đá cạnh đó, cúi mọp sát người xuống, ló đầu lên một chút nhìn Toản:

- Tụi bây chơi hèn lắm.

Toản cười hỉ hả:

- Cho mày xếp càng lại, thằng Hợi cũng chì lắm chứ bộ.

Nhìn thấy đầu Vũ ló lên nhưng Hợi không muốn thổi ngay mặt, muốn cho thằng Vũ biết mình cũng anh hùng, Hợi đứng lên:

- Ê, Vũ có ngon bước ra khỏi chỗ núp coi.

Thấy thằng Hợi trên tay cầm cái ống đồng dài như ống tiêu. Cục đất sét khi nãy mà thằng Hợi thổi vô mặt chắc là đau lắm. Sao hôm nay thằng này tử tế quá vậy cà? Mọi hôm trước nó không chừa một cái gì hết.

Vũ biết ý của thằng Hợi, nhìn qua trái một bụi rậm dễ núp hơn, Vũ ngồi chồm hỗm đợi sơ hở là chạy về phía đó. Vũ hơi tiếc một chút nếu

như ngày nghỉ, Vũ đem ná theo thằng Hợi sẽ hết khoác lác. Thình lình Vũ ôm cặp che ngang người chạy vụt qua. Hợi bước lẹ tới đưa ống đồng lên miệng, nhưng chân của Hợi vấp phải cục đá tròn chúi nhũi về phía trước lăn mấy tuôn xuống dốc.

Mấy đứa trẻ chung với Hợi xanh mặt. Hợi chống một tay ngồi dậy mặt nhăn nhó đau đớn, một chân nó để dài trên cỏ nhấc không muốn lên. Lũ trẻ xúm lại bụi cây lấy cặp bỏ chạy về hết.

Vũ chạy ra thấy lũ trẻ bỏ thằng Hợi đi hết. Vũ thấy tội nghiệp thằng Hợi ghê; bước tới nhìn mặt nó xanh lét, mồ hôi chảy ra hai bên mép tai. Vũ quên là Hợi vừa thổi đất sét vào người. Đặt cái cặp qua một bên, Vũ ngồi xuống:

- Mầy có sao không?

Tay Hợi chống xuống bãi cỏ run run:

- Tao đau quá!

- Đau ở đâu?

- Ở chân này nè!

Đưa tay rờ chưn của Hợi chỗ mắt cá sưng lên. Hợi đổ mồ hôi:

- Ái da!

- Chắc mầy bị trật gân rồi đó.

Hợi cố gắng đứng lên, Vũ phải đỡ một bên, Hợi mới đứng vững được. Hợi thấy ngường ngượng khó chịu làm sao. Mấy thằng bạn của nó bỏ đi đâu mất tiêu không còn một mống nào hết. Còn lại mỗi mình thằng Vũ là thù nghịch với nó, thằng Vũ vừa hưởng của nó mấy viên đạn đất trên vai, trên ngực. Thằng Vũ không ghét nó còn ở lại lo lắng cái chưn trặc của nó. Hợi nhìn bộ mặt thằng Vũ thật tình lo lắng, nó cảm động khôn xiết; Hợi chỉ bụi cây trên dốc:

- Mầy lấy giùm tao quyển tập trên đó.

Vũ đi lên lấy xuống đưa cho Hợi:

- Về đến nhà được không?

Hợi thử bước đi, gương mặt của nó nhăn nhó thở hắt ra. Vũ thấy Hợi như vậy, đưa cặp của mình cho Hợi cầm, xê lưng lại trước mặt Hợi:

- Tao cõng mầy về.

Không còn cách nào hơn. Hợi phải làm theo ý Vũ, khoác hai tay vào cổ để Vũ cõng đi. Thằng Hợi nặng ghê! Vũ phải hết sức khó khăn mới đi xuống được con dốc. Trên trán Vũ mồ hôi đọng thành giọt, Vũ mệt, nhưng vẫn bước chậm sợ chân thằng Hợi bị xốc nhiều đau thêm.

- Vũ à …

Hợi định nói gì với Vũ, nhưng nghĩ sao nó nín thinh. Về đến nhà Hợi. Ông Ngạt đang ngồi ở ngoài sân cưa mấy khúc cây đóng vào mấy chân tủ. Ba của Hợi làm thợ mộc, nên cái tủ ông đang đóng thật đẹp, không thua gì những bàn ghế, tủ đặt bán ở các hiệu ngoài chợ. Ông Ngạt bỏ chiếc đục trên tay xuống, kéo cặp kính trệ ở sống mũi lên, hấp tấp bước tới hỏi Vũ:

- Nó sao vậy cháu?

Để Hợi ngồi xuống bộ ván trong nhà, cầm cặp Hợi đưa, Vũ nói:

- Đi học về cháu thấy Hợi bị té trặc chưn cháu đưa về giùm.

Nghe Vũ không nói gì về chuyện choảng nhau trên đường dốc, Hợi ngầm nhìn Vũ bằng đôi mắt biết ơn. Ông Ngạt lăng xăng lấy dầu bóp chân cho Hợi. Má của Hợi đang làm cơm dưới bếp nghe vậy chạy lên, bà cám ơn Vũ rối rít. Vũ ái ngại nói với ông bà Ngạt:

- Dạ thưa bác cháu phải về.

Ông Ngạt nhìn Vũ không còn với đôi mắt hằn học như hôm trước dẫn thằng Hợi đến nhà mắng vốn má của Vũ nữa. Ông cười niềm nở:

- Khi nào rảnh, cháu đến chơi.

- Dạ...

Vũ vui vẻ trở về, nghe trong lòng nhẹ tênh như bông gòn. Thằng Hợi kể ra cũng còn tốt, nếu không bây giờ cái mặt của Vũ sưng tù vù chắc khó coi lắm. Trong nhà lại đổ thừa Vũ ham chơi đi đánh lộn.

Năm nay Vũ phải cố gắng học thật nhiều, thật giỏi, để năm sau nếu ba, chú Duy có đưa Vũ đi học nội trú xa. Vào trường mới Vũ khỏi sợ thua kém bạn bè. Hôm chú Duy đã phác họa cho Vũ thấy ngôi trường trung học mới, trong năm sau. Vũ phải đặt chân tới. Ngôi trường ở một thành phố lớn. Nó to gấp mười ngôi trường Vũ đang học, do mấy sư huynh điều khiển. Muốn vào học phải thi, Vũ thấy hơi lo, nếu không học nội trú được chắc chú Duy buồn lắm! Thật ra thời Vũ không hao đo học xa một tí ti nào hết! Chỗ nào học cũng vậy thôi: Giỏi hay dở cũng do mình.

Buổi chiều, ba đi làm. Còn Trang, và chị Thu đón má từ Huế vô. Chị Thu con của người dì, bà con bên má. Chị học trường của mấy Ma sơ giỏi ghê. Tháng trước, lớp chị thi về môn làm bánh, chị đứng hạnh nhứt. Chấm xong, chị đem về nhà cho Vũ, Trang ăn no cành bụng. Nhà chị cách đây mấy con đường, chị vẫn thường đến chơi luôn. Con nhỏ Trang hay ăn hàng, thích trò chơi buôn bán nên cứ đeo theo chị để hỏi vài kiểu bánh lạ mà chị biết.

Một sáng chúa nhật, chị đến dẫn hai đứa đi chơi. Chị nói học hoài cũng phải có thời giờ đi chơi đây đó, con người thoải mái chữ nghĩa mới chui vô đầu được. Chứ cứ ngồi mà cắm cúi hoài mệt mỏi chứ không ích gì hết. Buổi sáng trời còn lạnh căm căm, sương giăng kín đường đi, dưới những bước chân của ba chị em, loang loáng nước như gương trong. Thế mà ba chị em đi bên nhau cười vang cả đường phố Dalat tinh mơ.

Vũ lạnh ghê đi, nhưng vui quá Vũ quên khuất đi mất. Nhìn Vũ chị hỏi:

- Vũ không có áo ấm mặc sao?

Trang buồn rượi :

- Má chỉ đan áo cho mỗi mình em thôi.

Chị Thu nắm lấy tay Vũ thật chặt:

- Trời lạnh thế ni, Vũ chịu sao cho thấu!

Tiếng chị lờ lợ chưa mất hẳn giọng Huế; chị sinh ra, và lớn lên ở xứ Huế nghèo nàn. Xứ Huế cổ kính, xứ Huế mưa về dậm dề, mưa liên miên ngày đêm từ tháng sáu, tháng bảy trở đi.

Giọng chị nghe dễ thương, nghe ngọt ngào, thơm tho như kẹo cau, như mè sửng. Chị cởi chiếc áo len màu tím nhạt trên người khoác lên vai Vũ chị cười để hàm răng đều như trái bắp luộc.

- Vũ mặc đi, chị không lạnh mô.

Chiếc áo ấm dài hơn chiếc áo Vũ mặc cả gang tay, nó bọc lấy Vũ gọn lỏn, ấm áp, nhưng Vũ nghĩ nó không ấm bằng đôi mắt hiền của chị, không ấm bằng bàn tay của Vũ trong năm ngón tay thon dài trắng muốt của chị.

Suốt ngày chúa nhật hôm đó, chị dẫn hai đứa loanh quanh công trường Hoà Bình, vườn Bích Câu, bờ hồ Xuân Hương. Những chỗ này không lạ gì với hai đứa; nhưng có chị đi chung chao ôi là vui. Ba chị em chụp chung cả lô ảnh trong vườn Bích Câu, chụp nhiều nhất là con nhỏ Trang, đủ kiểu: Trang buồn rầu, Trang nhí nhảnh, Trang cười tươi, Trang nhảy nhót, Trang ngây thơ. Con gái mà có bộ mặt dễ thương một chút là chụp ảnh tùm lum, tùm la đem khoe thiên hạ. Con trai dù có đĩnh ngộ mấy đi nữa cũng chả thèm ngồi ra dáng ra vẻ, không muốn cười cũng phải cười kiểu cho được. Thật là phiền toái.

Buổi trưa, ba chị em ngồi trên bờ hồ Xuân Hương gậm bánh mì, nhìn sương bạc lóng lánh vờn vờn dưới hồ, nhìn hoa pensée thèn thẹn khi nắng lên. Con nhỏ Trang táy máy, ít khi nào ngồi yên một chỗ, đứng lên bỏ đi loanh quanh.

Ném một mẫu bánh còn lại ra xa, phủi tay chị Thu hỏi:

- Vũ có ghét má ở nhà không ?

Đôi mắt Vũ thả xuống lòng hồ:

- Sao chị lại hỏi Vũ như vậy?

- Chỉ thấy Vũ ít khi vui!

Vũ cười buồn cầm tà áo dài xoắn xuýt:

- Không bao giờ Vũ ghét má, tại má không ưa Vũ thôi.

- Chị không hiểu dì ra răng nữa! Dì phải thương, phải lo cho Vũ. Người kế mẫu không có quyền ghét bỏ con chồng. Tình cờ hôm trước con nhỏ Trang có đưa chị xem bài luận Vũ làm. Vũ viết buồn quá! Chị cảm động muốn trào nước mắt, chắc Vũ cũng phải đổ nước mắt trong những giòng chữ đó. Bàn tay Vũ phải run run vì xúc cảm tràn ra năm đầu ngón tay xuống ngòi viết. Bây giờ ai có ghét ghơi gì, mặc kệ, Vũ cứ lo chăm học đừng nghĩ đến. Rồi một ngày nào đó ba phải nhìn Vũ, dì cũng nghĩ lại mà thương, mà hối hận việc đã tệ bạc với con chồng.

Từ hôm đó, chị Thu thường đến nhà chơi, đôi khi chị còn đem bài vở đến học chung với hai đứa. Trong ba người, chị là người nghĩ thật nhiều trò chơi cho những ngày nghỉ học. Như trưa hôm nay chị đến đưa Trang đi đón má ở Huế về. Trang sửa soạn xong, chị Thu hỏi:

- Sao Vũ không sửa soạn đi với chị, và con nhỏ Trang cho vui.

- Vũ thích ở nhà.

- Ở nhà một mình, buồn chịu chi nổi?

- Sợ má không bằng lòng.

Chị Thu chải sơ lại mái tóc cho Trang, nghe Vũ nói vậy chị ngẩng lên:

- Làm răng mà không bằng lòng? Vũ cũng như Trang, đứa mô cũng là con, dù không phải mạ đẻ đi nữa cũng một cha, một giòng máu. Mạ đi hơn một tuần, hôm nay mạ về thời Vũ mừng, Vũ đi đón chứ chi mà bằng lòng với không!

Vũ muốn nói chị Thu không hiểu tánh ý của má, mặc dù chị Thu hiểu má có ganh ghét Vũ, nhưng chị không biết mỗi lần thấy mặt Vũ má không ưa, má mất vui, má sẽ cau có khó chịu luôn cả những người chung quanh. Nhưng Vũ vẫn đứng im ở cửa nhìn con nhỏ Trang, mặt hơi buồn buồn.

Một lúc xong xuôi hết, chị Thu nắm lấy tay Trang bước đi, ngang ngưỡng cửa chị cười với Vũ thật gượng:

- Vũ ở nhà chị đi nha.

Tà áo xanh của chị, và chiếc áo đầm trắng của con nhỏ Trang thoáng mất ngoài cổng nhà. Còn lại Vũ đứng ngang cửa buồn buồn. Chút đón má xong, chắc hai người còn đi loanh quanh ngoài phố, hoặc ghé một chỗ vui nào đó đến chiều tối mới về. Hôm nay má về, không biết trong nhà có còn vui như mấy hôm không? Gặp Vũ, ba có còn hỏi, có còn cười hay bỗng dưng nhìn Vũ lạ hoắc. Ba có hằng ngày giở sổ điểm, bài vở ở trường Vũ đem về không? Dù ba có tạo trên gương mặt những gì đi nữa, nhưng Vũ biết ba thương Vũ lắm. Như thế cũng đủ lắm rồi.

Chị Thu nói mà đúng? Ở nhà một mình buồn ghê. Vũ loanh quanh lẩn quẩn trong nhà không biết làm gì cho hết chiều. Tuần này ở trường không có bài đem về nhà làm. Giờ này Vũ ngồi ôn lại bài cũ thì chán ơi là chán! Phải bài mới còn hăng hái! Hai con mắt còn mở sáng như đèn pha, những bài xào đi, xào lại chỉ có nước ngả đầu ngáp dài trên bàn học, không thì gà gật như con kỳ nhông ngủ quên trên cành thông.

Hôm trước đi chơi, chị Thu có mua cho Vũ hai quyển sách nhỏ, chị bảo khi nào buồn lấy ra đọc, hôm đem về, Vũ quăng vào hốc tủ và quên khuất đi mất. Hôm nay mới nhớ lại một quyển ‘‘Vô gia đình’’ và một quyển ‘‘Căn lều của chú Tom’’, quyển truyện trước Vũ đã nghe chú Duy kể rồi. Vũ thích chú nhỏ trong câu chuyện, chú nhỏ lang thang với một lão già làm ‘’xiếc’’ hết thành phố này, đến thị trấn khác với một con chó, và hai con khỉ. Cuộc đời chú nhỏ buồn ghê, buổi chiều nằm đọc truyện, Vũ ngủ quên lúc nào không hay. Trong giấc ngủ Vũ thấy mình phiêu lưu hết tỉnh này đến tỉnh khác. Không phải mỗi mình Vũ mà có cả chị Thu, con nhỏ Trang, luôn cả con Mận hiền như cục đất nữa. Con Mận trong giấc mơ nó cười với Vũ sao mà dễ thương chi lạ.