HỌ LẠI LÀNG NGHÈ LÀM GIẤY SẮC
Phía tây bắc thành phố, một làng dọc bờ sông Tô Lịch từ Bưởi xuống Cầu Giấy, Kẻ Cót có nghề làm giấy cổ truyền. Ngày nay nhiều ngành giấy không còn nữa, có những thứ giấy hợp tác xã làm theo kiểu mới. Khi kháng chiến chống Pháp giấy in sách báo và gần đây sản xuất giấy đánh máy…
Xin nêu để các nhà nghiên cứu nghề thủ công lưu ý. Một hiện tượng lạ về nghề giấy, tất cả mọi nguyên liệu và dụng cụ đồ nghề làm giấy đều từ nơi khác đưa đến mà có thứ rất xa. Nguyên liệu chính là vỏ cây dó phải đóng bè đưa từ rừng dó ở Lâm Thao bờ sông Hồng trở lên, dó Lâm, dó Nghĩa Lộ. Làm giấy loại kém bằng vỏ cây bo, cây kính cũng phải tải từ các vùng rừng Bình Tiên, Ba Chẽ… Cây gỗ cho bào ra ngâm nước thả vào “tàu xeo” cho giấy trơn từng tờ ướt bóc ra không dính vào nhau cũng là cây rừng. Ngày nay, các làng người Dao trên Việt Bắc vẫn làm giấy thô sơ bằng các nguyên liệu này. Có thể nghề giấy xuống đây người xuôi mở rộng ra nhưng khởi nguồn từ cách làm giấy của người Dao trên rừng. Các vật liệu làm giấy khác cũng đều của các nơi. Riêng “tàu xeo” ván đóng bằng gỗ ván thôi (quan tài) mua của những nhà cải táng. Người ta bảo gỗ áo quan đã ngâm lâu trong đất vẫn như nguyên là gỗ tốt. Cái rổ đại để đãi bìa, biến “xeo” cổng ngõ đốt lò bôi dần. Trên Các, trong Noi xuống tới, các cô thợ xeo phần nhiều người dưới Nam. Mỗi làng làm một thứ giấy khác nhau. Các làng chỉ có một nghề giấy, nhiều “tàu xeo” nhất như ba làng: Yên Thái, làng Đông, làng Hồ. Làm giấy bản, giấy moi viết và giấy in chữ Hán. Giấy bản, giấy moi làm bằng loại cây dó thích hợp tốt nhất. Những năm về sau có pha lễ bông (bột giấy) của nhà máy giấy của Pháp ở Việt Trì, giấy mềm và đanh mặt nhưng không dai như giấy thuần dó. Người ta cũng làm thêm một loại giấy kém phẩm chất hơn, quét keo da trăn nung với phèn gọi là giấy phèn. Giấy phèn để gói đường, kẹo… không bị ẩm ướt rách giấy.
Các làng dưới Cầu Giấy (Yên Hòa) và Cót (Trung Kính) thì làm giấy hẩm “tàu xeo” nhỏ chỉ có một tờ. Loại giấy xấu chỉ để lau chùi, kê đệm làm bằng cây bo, cây kính và giấy lề nhưng không phải lề bông hay giấy báo thải ở các nhà in trong thành phố mà là giấy vụn, giấy cứng. Đã thành câu ca dao: “Con gái làng Cát buôn dăm buôn xề” (Dăm và xề là giấy vụn, bìa cứng nhặt ở sọt rác).
Ở vùng Bưởi còn một ngành giấy quý hiếm chỉ lưu truyền trong một dòng họ làm giấy ở xã Nghĩa Đô thôn Trung Nha tục gọi là làng Nghè. Theo phả họ Lại in ronêo 1990 (tài liệu lưu hành trong dòng họ) thì loại giấy này để nhà vua viết sắc phong chức tước cho thần linh hay các quan to. Theo phả họ truyền lại – Lại Thế Giáp làm quan triều Lê, kết hôn với quận chúa Diện Châu con chúa Trịnh Tráng. Nhà vua cho họ Lại được đặc quyền sản xuất giấy sắc rừng để cung cấp cho triều đình. Nhà vua bổ nhiệm cụ Lại Phú Vinh làm Đô sứ, phụ Quốc thượng tướng quân. Ngài dựng tên cục Đô Thịnh Hầu để trông coi việc làm giấy sắc này.
Nhà tôi cũng có nghề làm giấy sắc, tôi vẫn được nghe bà ngoại kể chuyện kinh thành Huế, đặc biệt là đi xem các làng phải cởi váy ra mặc quần trắng thế nào. Nguyên do từ khi nhà Nguyễn dời đô vào Huế thì các nhà sản xuất giấy ở làng Nghè cũng phải đem giấy vào triều đình trong ấy, đến hết đời vua Khải Định. Có nhà thầu tên là Tài Ngọc ra đặt các nhà họ Lại làm giấy sắc rồi tải vào Huế, nhưng Tài Ngọc thường chậm trả tiền, có chuyến quỵt hẳn. Bà tôi vốn người ngay thẳng và sắc sảo được các nhà làm giấy trong họ cử vào Huế đòi tiền lão nhà thầu chằng bửa.
Từ khi tôi còn nhỏ nhà tôi không còn làm giấy sắc. Hôm vừa rồi đọc hồi ký của Trần Huy Liệu kể chuyện vào Huế tước ấn kiếm của hoàng đế Bảo Đại, trong đó có câu nhắc đến giấy sắc của ông Phạm Khắc Hòe đổng lý văn phòng của vua Bảo Đại. Các nhà họ Lại không làm giấy sắc đưa vào Huế nữa nhưng nhiều nhà vẫn làm giấy gọi là giấy lệnh, bán ra thành phố cho các nhà làm giấy cứng, giấy khoán thờ. Giấy vẫn ngang dọc một thước tư và sáu tấc. Ở “tàu xeo” phải hai người đứng cầm kiềm mới xeo được một tờ. Giấy quét hòe vàng sẫm, một mặt trước vẽ kim nhũ nền rồng mộc phun mây, in nét hoa văn và vẽ tay hình long, ly, quy, phượng con.
Ngày ngày, tôi ngồi bên ông bà ngoại, trên hai cánh phản ngả xuống tôi vẽ rồng lượn, tôi cầm bút to chấm kim ngũ tô vẩy, tô mày. Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai giấy in không còn nhập được, tất cả các làng làm giấy dần làm giấy tương tự giấy bản để in sách báo chống thực dân Pháp độc quyền thu mua. Có những người mở xưởng giấy lớn làm đại lý thu mua giấy cho Pháp như giáo sư Nguyễn Quý Hùng trước dạy trường Bưởi (Nguyễn Quý Hùng sau di cư vào Nam hoạt động chống đối bị Ngô Đình Diệm bỏ tù, có viết một tập hồi ký bằng tiếng Pháp). Bấy giờ lại ra đời loại giấy dó. Giấy dó cũng làm như dạng giấy sắc chỉ khác không quét hòe và phải nghè kỹ đến khi nổi vân dó lên. Các nhà xuất bản mua giấy dó để in sách đẹp, trong họ có ông Lại Viện làng giấy nhà tôi là nhà làm giấy dó đẹp nổi tiếng. Thỉnh thoảng tôi vẫn thấy ông Nguyễn Tuân lên nhà ông Lại Viện thủa ấy. Có hôm tôi gặp Hoàng Trọng Miên và Chế Lan Viên vào mua giấy nhà ông Lại Viện. Lần đầu tiên ấy gặp Chế Lan Viên, sau này tôi kể chuyện anh mặc cái áo sơ mi lụa mỡ gà, Chế Lan Viên lấy làm lạ và buồn cười vì cái trí nhớ oái oăm tự nhiên của tôi, thường mơ hồ nhớ lâu mầu sắc, công việc và con số. Mấy năm trước, có những lúc vui chuyện Nguyễn Tuân bảo tôi hôm nào tiện rủ ông lên chơi nhà ông Lại Viện. Bây giờ cả hai ông khuất núi cả rồi. Hồi ấy cũng lưu hành một thứ giấy dó xập không bền và dai như giấy dó của nhà họ Lại, trờ cứng trắng mịn. Giấy này soi lên không nổi vân dó mà có hình một dòng chữ Pháp “Giấy Hoàng gia An Nam”. Giấy này do một người Pháp, bác sĩ Picoman sáng chế. Ông bác sĩ này lập xưởng giấy ở Thái Hà. Vẫn lối thủ công “tàu xeo” nhưng bấm nan đồng và ép bằng máy khí không “cây ép uốn” xếp đá và giấy bồi điện chứ không “can” vào trong “bồn”. Nhiều người không tưởng loại giấy này của ta sản xuất nhưng sự thật là như thế.
Ở Nhật Bản, Nhà nước vẫn bảo hộ duy trì những xưởng giấy in giấy thời cổ. Giấy này để in những sách đẹp, để lưu lại, để bán cho những người chơi sách. Giấy dó bền và đẹp không bao giờ rách bởi vì mặt giấy, vân giấy là sợi vỏ “nghè” ra. Những tờ sắc ở các ngôi đình còn lưu lại từ thời Lê, thời Tây Sơn và trước nữa đã chứng minh cái đẹp và cái bền ấy.