← Quay lại trang sách

ÐẦU XUÂN BÓI CHÈO

Xuất hành đêm Xuân vào Câu lạc bộ đoàn chèo Hà Nội. Xin khoe ngay: Mua vé ba nghìn đồng cẩn thận nhé. Và ngồi đàng hoàng giữa chiếu, như chiếu chèo làng xưa.

Khách xem chỉ khoảng bốn, năm chục người. Những người có tuổi vừa xem, vừa móm mém gặm nhấm kỷ niệm. Trước mặt tôi, một cụ bà lấy khăn thấm nước mắt lúc xem đến chỗ Dương Lễ tiễn vợ đi nuôi bạn thay chồng – Dương Lễ hát điệu “quân tử – vu dịch” khó nhất và hay nhất của nghệ thuật chèo. Nhưng không phải khán giả chỉ có mấy người cao tuổi. Đông nhất vẫn là các bạn trẻ, đi một mình hay dập dìu tay đôi…

Trích đoạn các vở: Tấm Cám, Kim Nham, Lưu Bình – Dương Lễ và hát ả đào, chầu văn, quan họ. Toàn những diễn viên chèo bậc nhất Hà Nội. Hôm ấy có Quốc Chiêm, Xuân Hanh, Mạnh Thường, La Anh, Thúy Mùi, Xuân Hinh, Bích Hạnh. Trên mà ra vai nào, dưới này đọc tên vanh vách, lại khen chê và bình phẩm dạo này ai gầy, ai béo, có lẽ cậu ấy phải ngoài năm mươi, cái mắt phải gió vẫn lẳng thế…

Tôi không thạo được như nhiều người quanh tôi. Rõ ràng, chèo vẫn có một giới xem thật mộ điệu.

Các thứ trống – cả trống cơm bập bùng và tiếng phách, tiếng nhị thật khơi gợi. Riêng tiếng đế rời rạc, hơi yếu. Tiếng đế phải xô lên và sắc sảo tác động như một nhân vật, một nhân vật tập thể nâng vai diễn. Hát văn nên công phu tìm hiểu từ gốc các bài chầu văn cũ hơn là cải biên sang các làn điệu khác. Nghệ sĩ hát văn, hát ả đào rất hay. Nhưng với hát ả đào, nên chọn những bài và điệu tiêu biểu, như Tỳ bà hành – khổ hát trung tâm của đêm hát xưa kia.

Cái chính là vui và cảm ơn Câu lạc bộ đoàn chèo Hà Nội đã cho tôi một cuộc xuất hành đầu năm tốt lành.

Khuya trên đường về, lại băn khoăn. Nhiều đoàn nghệ thuật truyền thống (tuồng, chèo, rối) đương vấp phải những khó khăn về bước phát triển cũng như về đời sống vật chất. Nghĩ xa nghĩ gần về cái đẹp của thành phố, tôi lo. Đây chỉ là “kiếm thêm”, mỗi tối Câu lạc bộ bán hết vé cũng thu được chẳng bao nhiêu. Đã đành, còn hơn ngồi không. Sao mà nó thảm thế nào ấy. Nghệ thuật dân tộc mà lại đến phải kêu cứu dưới đáy thế ư?

Ở thủ đô Tân Đê-li nước Ấn Độ, ở thủ phủ Cancutta bang Tây Băng-gan tôi đã được thấy buổi tối đẹp trời, một số đường phố chính trong thành phố, xe cộ đều bị cấm đi lại. Các đoàn nghệ thuật dân tộc tới biểu diễn tràn lan như mở hội. Thứ ăn chơi của nước ngoài thật rầm rộ ở các khách sạn. Một điệu van-xơ lả lướt, một đám lambada cuồng nhiệt mặc sức. Nhưng trong những khu vực nhất định không lẫn lộn với những nơi vui chơi của những điệu nhảy, điệu múa, điệu hát Ấn Độ.

Ở Ai Cập cũng vậy, các khách sạn sang trọng, trong đó có khách sạn Niu Hin-tơn của Mỹ và các du thuyền tuyệt đẹp đưa khách từ cảng A-lếch-xan-đria vào thăm Kim Tự Tháp, có thể tưởng như cả châu Âu đến chơi bời ở dọc bờ sông Nin. Nhưng trong các phố trung tâm và quanh các đền đài thủ đô Lơ Ke, tưng bừng tiếng trống, tiếng hát của trẻ em, của thanh niên Ả Rập. Vẫn là hiện đại mà vẫn là cái riêng ở mỗi hoạt động nghệ thuật của dân tộc.

Cách đây ba năm, một đêm ở Tây Béc-lin nước Cộng hòa Liên bang Đức, các bạn đạo diễn Đình Quang, Dương Ngọc Đức, Nguyễn Đình Nghi và tôi đã được dự một buổi biểu diễn đặc biệt mà cũng thật bình thường. Kịch của tác giả lớn Chi-lơ – sân khấu nhỏ của một nhà hát xây trong lòng đất và chỉ bán 30 vé mỗi tối. Kịch Chi-lơ cổ điển, tạm ví khác nào những tích trở của tuồng và chèo của ta đã được lưu truyền đến bây giờ. Nhưng qua mỗi thời đại, người xem đổi khác. Tôn trọng tinh hoa dân tộc, Nhà nước đã can thiệp ngay vào sự thưởng thức. Sự can thiệp đẹp đẽ và cần thiết biết bao. Kịch Chi-lơ vẫn diễn cho ai thích xem và những người xem chọn lọc. Nhưng đoàn kịch không phải lo doanh thu. Những nghệ sĩ toàn tâm toàn ý phát huy tài năng, bảo tồn nghệ thuật dân tộc, không phải lo sốt vó để kiếm sống.

Đêm diễn kịch Chi-lơ trong nhà hát dưới hầm kết thúc bằng một cuộc ăn nhẹ và uống bia hơi – chúng ta đều biết người Đức thường tự hào bia Đức nhất thế giới. Các diễn viên trên sân khấu vẫn nguyên son phấn và xống áo biểu diễn uống với khán giả, cùng mọi người kê lại bàn ghế và hối hả bưng bê như những tay nhà bàn chính hiệu. Rồi cùng ngồi vào chè chén và trò chuyện với khách xem. Vui hết sức.

Nghĩ người mà ta xấu hổ. Không phải ngượng vì mình nghèo túng không có tiền mua bia. Mà xấu hổ vì cái cạn nghĩ và cái vô trách nhiệm của mình. Thử tưởng một khách nước ngoài buổi tối dạo quanh Hồ Gươm, khách có trình độ văn hóa, khát khao hiểu biết Việt Nam. Từ một đêm Hồ Gươm ấy, khách thấy gì? Khách thong thả bước trong đêm Hà Nội dịu dàng, bóng nước in hình thành phố mà khách yêu thích. Nhưng bên đường phố chỉ thấy các nhà hàng chiếu vi-đê-ô phim Hồng Kông, Đài Loan không đáng khách để mắt. Và những sàn nhảy. Không phải người ta ở châu Âu, châu Mỹ và ngoài châu Đại Dương đến đây để vui nhảy. Nếu có đôi chút tò mò, ngó vào một sàn nhảy nào đó chắc người ta phải nhăn mũi, bước ra ngay. Nhếch nhác quá, mấy cái đèn bọc giấy bóng đỏ. Hôi quá, các đôi nhảy quần áo xốc xếch và những đôi dép không quai trên sàn bụi. Đám nhảy của người lang thang đồng cỏ, sa mạc, rừng rú đâu đâu…

Trong khi đó, cái Câu lạc bộ chèo truyền thống, khiêm tốn và tha thủi ở một phố hẻo lánh. Mà ấy là sáng kiến làm ăn của các nghệ sĩ chứ cũng chẳng phải ai khuyến khích, chăm sóc. Có khó gì đâu, chẳng qua chỉ là chưa biết lo đến cái tổng thể nghệ thuật đất nước đương mỏi mòn.