← Quay lại trang sách

MÙA BÃO CHỐNG CÂY ĐỔ

Ai ở Hà Nội từ năm 1954, ngót 40 năm nay hẳn đã chứng kiến những trận bão vào Hà Nội, mỗi năm khi mùa mưa bão tới. Có năm gió giật cấp 11 – 12, to hơn cơn bão số 1 năm nay nhiều. Lần nào đường cũng úng ngập, cây cũng đổ. Nhiều năm cây đổ dữ dội chẳng kém năm nay. Nhưng cái mới năm nay là mùa bão ở thành phố ta bị thiệt hại mỗi ngày một lớn (chết người, sụp nhà, hỏng điện, vỡ cống, nghẽn đường).

Bảo giông bão là việc trời không cản được. Nhưng thiệt hại thì liên quan tới người, phải tìm cách hạn chế và hạn chế được. Tiếc thay, mỗi khi bão tan, người ta chỉ biết thống kê cái còn, cái mất mà không làm việc tiếp theo là tìm nguyên nhân, quy trách nhiệm, ai trồng cây ấy, tại sao cây đổ (hay không đổ) để có công thì thưởng, có khuyết điểm, có tội thì khiển trách, đổi công tác, cách chức hoặc truy tố. Chưa bao giờ làm được như thế, chỉ bởi một lẽ đơn giản: Mấy chục năm nay, những cơ quan phụ trách về cái cây Hà Nội cứ mỗi năm lại thay đổi một cơ quan, một cái tên khác và những người phụ trách cái cây cũng chạy quanh đèn cù chuyển đổi tổ chức và trách nhiệm, biết cơ quan nào mà quy, thì giờ đâu lần ra ai đã ra lệnh trồng cây ấy gây nên tai hại mà khen, mà quở. Do vậy, lỗi đầu tiên là ở cơ chế và tổ chức.

Sau cơn bão số 1, sở Giao thông công chính đã họp với các cơ quan, các công ty hữu quan về vấn đề cây để bàn bạc và xác định cơ cấu, phương hướng đầu tư, phát triển cây xanh đường phố Hà Nội để lấp vào chỗ cây đổ và để xem trồng cây thế nào được dài tuổi thọ. Thời Pháp thuộc, ở Hà Nội cây cối cũng sum suê như bây giờ nhưng không bị đến nỗi sau một trận bão hầu như phố nào cũng có cây đổ.

Cây xanh ở Hà Nội là một vấn đề của văn hóa và bộ mặt đẹp thành phố cần phải được giữ gìn. Nhất là mới bắt đầu mùa bão, còn phải chống bão suốt mùa và không nên để bão xong chỉ lo cưa, chặt, dọn…

Cơn bão vừa rồi – thật ra, bão đến Hà Nội cũng không còn mạnh nhất như vùng bờ biển Quảng Ninh, Hải Phòng phải chịu, vì Hà Nội vốn ở sâu trong đất liền, nhưng gió lay, gió giật bốn phía, đổ cây, đổ nhà thiệt hại cũng không nhỏ. Theo thống kê của các cơ quan có trách nhiệm, vừa rồi có tới trên 500 cây bị đổ, trong đó cây xà cừ đổ quá nửa. Những cây xà cừ đổ đều là những cây to như cổ thụ. Các cây khác đổ hoặc vì cây còn nhỏ, hoặc vì cây già đã cỗi ruỗng, gió lướt cũng đánh ngã được.

Ở Hà Nội thời trước, bão to cũng chỉ hay đổ cây sấu, vì sấu cành giòn và rễ cái ăn nông. Ngoài ra, cành me, cành phượng cũng thuộc loại gỗ tạp, hay bị gãy chứ cũng ít đổ.

Cây cối đường phố thời Pháp, trách nhiệm hồi ấy do sở ươm cây trên bờ Hồ Tây đầu đường Thụy Khuê – nơi này chuyên việc ươm giống hoa công viên và cây phố. Bây giờ thành phố ta vẫn tiếp tục công việc ấy và nơi ươm cây vẫn ở đấy.

Cây hai bên đường phố, người Pháp đã chủ trương không trồng cây trong nhiều phố chính, phố đông mà vỉa hè hẹp. Cây chỉ được trồng đều đặn các phố hai bên có bờ hè rộng rãi (gọi là đại lộ). Cho nên, ở những phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Tràng Tiền, đường Huế không trồng cây, trừ mấy cây đa, cây đề cổ thụ đứng một mình hàng trăm năm trước khi Tây sang ở Ngõ Gạch, ở Hàng Gai, ở Bông Nhuộm, một số phố khác và trước các đền miếu bây giờ vẫn còn. Ở những phố trồng cây, có một chi tiết cẩn thận nên lưu ý: Quanh gốc bao giờ người ta cũng để chừa một khoảng trống vuông hoặc tròn – ở các thành phố lớn nước ngoài khoảng trống ấy được đặt trang trí một khung sắt có hoa văn chứ không xây trát xi măng kín xung quanh gốc như đóng gông, trói chân, bóp cổ cái cây không thở được như ta đã làm nhiều cây như thế quanh hồ lớn bây giờ.

Những cây trồng trong phố đều có chuẩn bị nhất định: cây có bóng mát, cây không có hoa quả rụng làm bẩn đường, cây có rễ cái không dễ bị bão đổ, nhưng lại không phải rễ cái có thể ăn hỏng các công trình ngầm. Những cây được trồng nhiều là sấu, xoan tây, sữa, nhội, sao, phượng (cây nhập nội). Cây bàng tán mát to thế, nhưng chỉ được trồng một hàng trên đường đê Yên Phụ. Ít trồng cây bàng vì đến mùa hoa lá, bọ xít, bọ hung, cánh cam, cánh quít về nhiều, ỉa bẩn và mùa quả rụng làm phố mất sạch. Cây đề, cây si cũng không được trồng vì rễ si ăn sâu có thể làm thủng cống nước.

Hiện nay, đường phố Hà Nội – kề những cây trồng từ thời Pháp, cũng còn một số cây khác, nhưng không do người ta chủ động trồng mà chỉ bởi tự nhiên, như một số cây đa, đề, si được chim tha hạt vào mọc thành cây. Các phố Hàng Bạc, Hàng Buồm có những cây dướn quả rụng lầy lội cũng do chim tha hạt. Và gần đây vài ba cây bàng, cây bằng lăng mọc lên là do chủ nhà tự ý trồng trước cửa lấy bóng mát.

Như vậy, mặc dầu có ươm giống xà cừ nhưng cây xà cừ đã không được trồng làm cây lấy bóng mát, dù cây không làm bẩn đường sá và rất khỏe, mọc nhanh, chỉ hai năm đã có tán lá bóng mát.

Tại sao vậy?

Cây xà cừ trên đường phố hiện nay – mà tên khoa học của nó là Khaya Senegalensis A Juss, họ xoan (đọc tên cũng biết là cây châu Phi) trước kia sở ươm cây chỉ trồng thử vài cây ở đầu đường Cổ Ngư, mà không trồng đại trà như ta trồng hiện nay. Cây xà cừ này vốn là một giống cây châu Phi, cây nhập nội – cũng như cây phượng quê ở đảo Tân Ca-lê-đô-ni. Mỗi giống cây mọc lên ở đâu đều có những thích ứng riêng để sinh tồn hợp với khí hậu, thời tiết nơi đó. Cây châu Phi mọc trên đất lẫn cát sa mạc. Châu Phi không có bão như các vùng nhiệt đới cho nên cây xà cừ, cây chà là, cây cọ tuy lực lưỡng mà không có rễ cái. Ta thử để ý một cây nhãn, một cây bằng lăng, bao giờ ở giữa bộ rễ chùm, rễ phụ cũng có một rễ cái cắm sâu hẳn vào lòng đất. Cây sấu kém rễ cái thì rễ chùm to rộng bằng tán cây, bám đất rất chắc. Do vậy, gió to khó lay và thực rất thích ứng, đối phó được với tự nhiên của vùng cây sinh sống. Cho nên cây xà cừ châu Phi ở Hà Nội, tuy mọc rất nhanh, nhưng chỉ gió to giựt cũng đã chổng vó lên cả bộ rễ chùm nông choèn – bẩm sinh ở quê hương nó, rễ chỉ có thế, cây càng to càng dễ kềnh, vì nặng đầu nhẹ đít, khi cây mọc ở xứ nhiệt đới mà lại ẩm ướt.

Mỗi trận bão cây đổ, thiệt hại của công thì nhiều song lại béo bở những người hôi củi – vừa rồi, cơn bão số 1, người trong phố kéo nhau đi cưa cây từ nửa đêm, lại nữa, cây xà cừ hộ pháp, đường kính rộng cả thước, người ta lấy gỗ về bán cho các nhà làm đồ mộc, làm thớt ở Sặt, ở Bùng. Dọc đường 5 hay bày bán giường, bàn ghế choáng lộn đều gỗ xà cừ tươi cả. Và những cái thớt được quẩy vào bán ở phố, đẹp mã lắm, nhưng chỉ chặt mạnh nhát dao, cái thớt rởm đã toác đôi.

Ở Hà Nội thời trước, cây đường phố tuyệt nhiên không trồng xà cừ. Vì người ta đã biết được cái lợi, cái hại trước sau của giống cây này. Còn ta bây giờ trồng bạt mạng, cốt lấy bóng mát nhanh và lấy cái để báo cáo thành tích. Riêng mấy ông công nhân già trước kia làm ở sở ươm cây thì biết cả, nhưng chỉ vừa xót xa vừa cười thầm. Vất vả bao nhiêu, một cây xà cừ đổ kéo theo những tốn kém mất mát vô kể, nhất là thành phố lại đương trong nhịp độ phát triển. Và những người nước ngoài hiểu biết chắc chắn sẽ ngạc nhiên về sự lãng phí của ta, hết cả cây hay sao mà lại đi trồng những cây nhập nội hễ gió to là đổ. Trên thế giới chẳng thiếu những cây được trồng cành đẹp đúng chỗ, khách chơi đã đặt tên thành phố cây xà cừ ở An-giê-ri, ở Tuy-ni và ở Bắc Kinh, thì thành phố cây hòe với những rặng lê liễu, bồ liễu. Hà Nội có thể là thành phố cây sao, cây nhội, cây ban, cây bằng lăng và những rặng liễu ven hồ, những loài cây đã quen thổ ngơi và quen mắt.

Những cây xà cừ gây hại nhiều phen rồi, không phải chỉ lần này, không nên vô trách nhiệm mà trồng nữa.

(1994)