LOĂNG QUĂNG TRÊN PHỐ
Không muốn nhớ nhưng cứ nhớ. Chỉ vì không thể quên, thế thôi. Mình hôm nay cũng là mình năm ngoái, năm kia, bốn năm mươi năm trước, một già, một trẻ con cũng chỉ một. Ông lão mỗi buổi sáng lững thững bách bộ và thở sâu quanh hồ Hoàn Kiếm. Ngày trước, ở chỗ kia, năm nào còn là nhóc trèo lấy sung non nhá chấm muối. Cái chỗ góc bầy cây lộc vừng, sáng đèn sáng trăng lấp loáng bóng tối, ở bóng câu qua cửa sổ, chốc mà ra ngoài năm mươi năm, ông đã ngồi đây tình tự với ai, với những ai. Chỉ một thoáng nghĩ, cuộc đời giằng co, lẫn lộn chan hòa.
Thật yêu cái ông nhà văn Amando đặt tên tập hồi ký của mình đại để là “Nhớ lại chống lại”. Chẳng khi nào nghĩ lại mà chỉ có xa xưa, những ngày qua đương trở lại trong hôm nay kia mà.
Chợ Hàng Da đã biết bao vật đổi sao dời. Những cầu chợ cũ đã bị đổ từ chiến tranh thế giới thứ hai, từng đoàn máy bay hai thân của Mỹ, của Anh vào ném bom nhiều lần xuống thành phố, nhà Đấu Xảo, ngõ Hàng Đũa, Quần Ngựa, chợ Hàng Da… Thế mà cứ như lão Tây lùn có cửa hàng tạp hóa ở ngay ngoài cầu chợ với cái bàn quay số. Mão Tây già lùn một mẩu, nghiện thuốc phiện so vai, râu ngạnh trê đứng nhìn người vào xem hàng, mua hàng, người vào đánh số. Cái bàn tròn, người đặt tiền vào từng ô. Xem chừng đã đông người chơi, Tây lùn trịnh trọng giơ một ngón tay đẩy cái đầu. Mỏ cò đứng ở ô nào, ô đấy được ăn. Cái siêu động đun nước, thước lụa bom bay tím, có khi một đồng ăn mười đồng. Nhưng một ô trúng thưởng thì chín ô thua. Người mất tiền đứng trơ mắt ếch nhìn Tây lùn gạt những đồng xu, đồng hào xuống cái hộp chằng dây thép vào chân bàn, chiếc khóa cũ từng dóng to bằng khúc dồi lợn.
Nhà bán đồ cũ gọi là nhà “tam tam”. Chẳng biết của người ta gửi bán hay đồ đạc bị đội xép, bị tòa án tịch thu. Khi tôi biết đi phố chơi thì cái nhà “tam tam” này đã chuyển từ Hàng Khay về Hàng Trống. Nhà văn Nguyễn Công Hoan kể: Gọi là nhà tam tam vì mỗi khi mở cửa bán đấu giá, thường có cái xe tay kéo chiếc trống cái, một người đi bên xe gõ trống đánh tiếng mời khách. Không biết phải thế hay bởi phố ấy vốn là phố Hàng Trống, tiếng Tây “tam tam” nghĩa là cái trống.
Người rỗi rãi vào xem đứng vòng trong vòng ngoài lan can đông người hơn người mua. Đến lượt đấu giá cái sập gụ. Ông đứng bán mặc quần áo Tây trắng lốp, thẳng nếp, cà vạt đeo chỉnh tề, tay cầm chiếc vồ gỗ. Ông hô: Đặt giá cái tủ chè một trăm đồng, ai mua? Có người nói 80, có người tôi 90, có người chen vào nói to một trăm một đồng đây. Ông cầm cái vò gỗ thong thả to tiếng nhắc lại ba lần đều đặn tiếng Tây pha tiếng ta “oong, đơ… một, hai, ba… ai đặt hơn giá một trăm một đồng… ai mua hơn?”. Xung quanh im lặng, thế là ông cộp vồ xuống mặt bàn xướng to. Bàn này! Người mua được cái sập gọi đám cu li vào khiêng đồ ra cái xe cút kít đã đỗ đợi bên vỉa hè.
Rồi đến cái đình đồng… rồi đến bộ tam sư…
Cả thành phố chỉ có nhà cho thuê cưới hai tầng ở cuối phố Phùng Hưng bây giờ. Hôm nào không có khách, cửa sổ mở toang như quảng cáo cho người qua đường trông thấy tủ khám trai và cây nến, lư hương, bộ ngũ sự sáng loáng. Phòng cô dâu chú rể kề bên, giường Hồng Kông gọng đồng, hai câu đối thêu màu đào đặt song song. Đám cưới tiệc mặn, cao lầu Hàng Buồm hay các nhà làm cỗ thuê đặt cả mâm lên xe tay, đưa đến. Và khác bây giờ, thuê nhà cưới, thuê cỗ bát, thuê được cả bố mẹ vợ, bố mẹ chồng và người đóng vai họ hàng đôi bên, không biết móc đâu ra được những cụ ông đẹp lão, áo gấm trần ngồi xếp bằng tròn, râu tóc bạc phơ như ông tiên. Cụ bà quàng khăn vuông tua đen nhai trầu bỏm bẻm. Họ hàng quần áo càng chảnh chọe, đám cưới càng lộng lẫy. Thời ấy, sẵn lắm, đám cưới thuê người hai họ và đám ma thuê người đi khóc mướn “ối cha mẹ thiên hạ ơi”, những chuyện thường ngày.
Bao nhiêu cái cũ còn lòng thòng cả đến những năm về sau. Ông lão áo rách lòi cả hai bả vai, một bên gánh mấy con dao cùng giẻ rách, cái chậu sành, một bên hòn đá mài. “Ai mài dao kéo ở!” Một ông vác cái sào, tay xách chiếc thùng tôn. “Nước, nước ở!” Rao làm hiệu cho sang cho sạch chứ thật thì đây là ông lão đi móc cống. Nhà ai cống dâng ra sau vỉa hè, lâu ngày lấp rác bẩn thì gọi đến ông ấy.
Ở Sài Gòn có cách thông cống khác thường. Hơn mười mấy năm trước, tôi vào Sài Gòn, chỗ nhà văn Nguyễn Quang Sáng ở, cả mấy tầng tắc cống buồng bếp. Người ta mua một con lươn, lươn sông Sài Gòn dài bằng sải tay, to như con rắn hổ lửa. Con lươn được bỏ vào lỗ cống tầng nhà trên cùng. Chỉ một lát, cống đã ào ào chảy. Cái giống lươn đâm đầu xuống rúc khỏe lắm, tắc mấy cũng phải thông, người ta bảo thế, Nguyễn Quang Sáng bảo vậy.
Một ông xách cái rìu đi lững thững, lặng im. Nhưng chỉ trông thấy cái rìu hàng phố đã biết đây là ông bổ củi. Nhà đun củi ta và áp Tết nấu bánh chưng, các tay búa ở ngoại thành vào đi dong các phố làm cái nghề Thạch Sanh.
Những người quảy bồ đi nhặt về đốt những mảnh giấy có chữ Hán. Ai để vương vãi chữ “thánh hiền” thì phải tội, người đem về hóa đi thì được phúc. Tôi chỉ trông thấy từ khi còn nhỏ. Nhưng đã lâu cũng không còn thấy các ông bổ củi, ông móc cống, thông cống, ông mài dao. Chỉ những cậu bé cầm cái sào đầu móc sắt đi kêu cành khô ở hàng cây ven đường bó thành bó thì từ xưa đến nay vẫn thế.
Cái việc nhặt vỏ chai, ống bơ, nhành rau muống, các thứ mà người này vứt ra, xả rác, người khác còn dùng lại được thì mỗi ngày mỗi đông. Nhưng đã thay đổi, chuyên môn và “công nghiệp hóa” hơn. Có người chỉ lấy ni lông, mảnh dép cao su, những thứ ấy bán làm nhựa tái sinh. Có người nhặt giấy – cả giấy vệ sinh bừa bãi như bướm bay ven đê sông Hồng. BáoNgười Hà Nội năm trước đăng một phóng sự về người lang thang đã kể: Có một bà cụ người Tày quê huyện Quảng Yên – Cao Bằng lưu lạc về Hà Nội. Đêm ngủ gầm cầu Long Biên, ngày đi kiếm giấy vụn bán cân, thế mà để dành được tiền mua đồng hồ gửi về cho con trai ở quê. Những đám người này trôi dạt, tụ bạ thành những xóm liều. Xóm liều cũng có nhưng không nhiều bằng các nhóm lữ hành đây đó. Nay ở cửa ga, mai bên hồ Thiền Quang, ngày kia lên cổng cột nhà hát lớn, nhà bách hóa. Chiều chiều, vợ nào chồng ấy với con cái túm tụm, ríu rít. Cũng khói bếp, cũng quát tháo đánh chửi nhau, cũng ngất ngưởng chén rượu rồi chiếu trải ra bên đường, dưới bóng cây. Phơi phóng và che chắn như ta ở nhà ta vậy.
Dẫu sao nghề thợ mộc dơ dáy trên chẳng qua cũng là những lần hồi kiếm cái sống phục dịch lẫn nhau ở những nơi quần tụ đô hội mà bây giờ nói chữ phục vụ, dịch vụ. Nhưng có những chuyện là thuộc về tâm thần, cửa tâm thần – thuộc tâm thần con người, cũng như ý nghĩ, như tư tưởng chứ không phải là ấm đầu, là cám hấp, điên. Những ai ở thành phố này hẳn nhớ, những năm trước có một chuyện xôn xao một dạo. Trong một ngôi nhà cổ bên số chẵn phố Hàng Bồ có hai anh em nhà kia ở với nhau. Đồn rằng, từ những năm đói kém, loạn lạc trước năm 1945, ông anh và bà em đã chỉ ở trong nhà. Con cháu hoặc họ hàng đến lệ, đến buổi đưa gạo, đưa rau và gửi đuốc tới. Trong nhà rút chốt cửa mắt bò thò tay ra lấy các thứ rồi lại sập cửa lại. Bao nhiêu năm sau, cụ anh và cụ em đều đã già. Cụ em ốm rồi mất. Cụ anh chôn em ở mảnh sân lộ thiên gian giữa, bấy giờ mới vỡ lở cái chuyện ở ẩn kỳ lạ ấy, người ta đưa cụ anh đi nơi khác, và cái huyệt bên gốc cây khế đã được lấp lại. Làm sao, ngôi nhà cũ hẹp, tối âm u, hai con người sống âm thầm, chôn vùi nơi đây từ khi còn trẻ đến ngày xuống lỗ. Thành phố lắm cái lạ.
Dẫu thế này, cũng là chuyện đã qua – chuyện cũ. Có những chuyện thật cũ, mà cũng thật mới, đấy là chuyện đêm Hà Nội bắt chuột. Một hôm ngồi trò chuyện về phố phường với hai nghệ sĩ nhiếp ảnh Mai Nam và Trịnh Hải mới biết không phải chỉ mình tôi tò mò biết cái chuyện cũ mà mới ấy ở thành phố ta.
Khoảng nửa đêm trở ra, dọc các đại lộ ở đường lớn, ít và xa chỗ nấp, chuột dễ bị bắt lại hiện ra những người như bóng ma, lưng đeo giỏ, tay xách sào và cái vợt. Sào thọc vào miệng rãnh. Những con chuột cống ục ục chạy ra. Vợt chụp xuống. Mai Nam tả nhanh lắm, người ta chịt cổ, bẻ răng nép lận giỏ sau lưng.
Chỉ qua mấy phố đã được hàng chục con chuột cống to kềnh.
– Rồi tiêu thụ thế nào?
Trịnh Hải và Mai Nam đều cười.
– Chợ Bắc Qua sáng sớm. Và…
– Và gì?
– Các cửa hàng.
– Tôi chưa hiểu.
– Cửa hàng ăn uống nào chẳng cần nước dùng.
– Ừ, mà dẫu sao cái nước xuýt chuột cũng có chất thật, hơn là thịt cho mì chính hay bột vị phở. Tôi kể các anh ấy rằng thằng đội xếp Tây ngày trước tóm bỏ bót những người săn chuột đêm đấy!
Chúng tôi giả vờ làm các nhà chức trách xem giải quyết cái sự thịt chuột bấy giờ như thế nào. Bảo là mất trật tự trị an? Không phải. Trốn thuế à? Bảng thuế không có mục thuế chuột. Mất vệ sinh? Có thể, nhưng mà lại oái oăm thay, ở thành phố ta, chuột chén bả mãi cũng đâm quen và biết cảnh giác chẳng ăn mấy nữa. Những người đi ăn này đêm nào cũng tiêu diệt được vô khối chuột, mà toàn chuột to. Thế thì tốt cho vệ sinh đường phố chứ sao!
Chịu, không biết thế nào là phải. Nhưng cứ quãng nửa đêm, những cuộc săn bắt chuột bắt đầu. Trên đường, những chuyện cũ chuyện mới, lúc nào cũng chằng chịt.