Câu chuyện thứ nhất Chú chó không biết bầu trời
Chuyện xảy ra vào đúng ngày diễn ra lễ hội bắn pháo hoa lớn nhất khu phố này.
Chúng tôi đã bắt cóc một chú chó.
Tất nhiên, đó không phải là “việc hay ho”.
Nhưng chuyện gì mới thực sự là đúng, ai đang nắm giữ câu trả lời? Chắc tôi có sống trăm tuổi thì cũng không thể biết được.
“Đáp án đúng” của chúng tôi, những kẻ đang ở tận cùng của nỗi cô đơn, chính là việc bắt cóc chú chó vào ngày hôm đó.
~ Một tuần trước khi bắt cóc ~
“Bác Mitsu! Bác đã phân phát quà chiều hôm nay chưa ạ?”
Cậu bé ghé vào xe nhà - thư viện di động vốn là chiếc xe nhà di động được cải tiến lại, tên thường được gọi là “xe nhà - thư viện”, rồi vừa thở hổn hển vừa hỏi như vậy.
“Rất tiếc…, bác đã phân phát hết rồi!”
“Hả? Không còn nữa sao bác?”
“Vẫn còn, nhưng đây là phần bác sẽ phát ở công viên tiếp theo.”
“Vậy bác cho cháu lên xe tới công viên tiếp theo nhé!”
Tôi vốn là chủ của xe nhà - thư viện, và cậu bé gọi tôi là “bác Mitsu” đó đang học lớp năm, tên là Hiromu, sống ở trại trẻ mồ côi gần đây.
Hiromu mới là học sinh tiểu học mà đã nhuộm tóc, rất nghịch ngợm, không thể nói là một cậu bé mọt sách được.
Nhưng cậu bé lại thích đọc manga, dù mối quan hệ giữa các nhân vật hay bối cảnh thời đại có phức tạp tới mấy, cậu bé cũng không bỏ dở giữa chừng, đều đọc hết cho tới phần cuối cùng.
Quả không ngoa khi nói rằng mục đích chính cậu bé tới đây chỉ là để ăn quà chiều mà tôi có và đang phát miễn phí…
“Hiromu, hôm nay cháu đọc nốt cuốn manga đi, rồi mai lại tới.”
“Sao ạ? Chưa nạp đường sao đọc được truyện hả bác? Mà tốt hơn cả là bác cứ cho cháu lên xe đi tới công viên tiếp theo. Chỉ hôm nay thôi cũng được, nhé bác?”
“Chuyện đó thì… bác không thể làm thỏa lòng cháu được rồi. Thế giới của người lớn có nhiều quy tắc lắm.”
“Quy tắc ư? Tại sao lại không cho trẻ con lên xe rồi đi như vậy? Vì sẽ bị mọi người nghi là đang bắt cóc trẻ con? Bác Mitsu, vì mặt bác cũng xấu xấu, gian gian mà.”
“Xấu xấu, gian gian? Bác ư? Lần đầu tiên bác bị người khác nói như vậy đấy.”
“Thôi, thế nào cũng được, miễn là bác cứ cho cháu lên xe, bác nhé!”
“Thế nào cũng được ư? Tính bác dễ bị tổn thương nên cháu nói cẩn thận giúp bác. Hơn nữa, nếu bác chỉ cho quà mỗi mình cháu thì sẽ bị nói là thiên vị, rồi nhỡ gặp tai nạn thì…”
“Thế thiên vị là không tốt sao bác? Thầy cô giáo trong trại mồ côi của cháu toàn đối xử với cháu như thế. Nào là cháu không cần làm bài tập cũng được, nào là chỉ mình cháu được ăn tô bự Donburi*. Mỗi chuyện học của cháu thì cháu có cảm giác là thầy cô “chán” chứ không phải thiên vị. Hơn nữa…”
•
Donburi là một món ăn trong chén cơm của ẩm thực Nhật Bản, có cá, thịt, rau củ và các nguyên liệu khác được nấu cùng với gạo.
“Hơn nữa?”
“Lỡ cháu có gặp tai nạn và chết, cháu làm gì có gia đình để đau buồn về mình nên bác cứ yên tâm đi!”
Tim tôi đập thình thịch.
Hiromu không hề nói mỉa mai, cũng không hề có thái độ bướng bỉnh, nói trôi chảy về điều đáng sợ đó.
“Cháu làm gì có gia đình để đau buồn về mình.” Đó là câu nói thể hiện sự cô đơn tột bậc.
Có rất nhiều trẻ được thương yêu lại thốt ra toàn những câu như: “Con sẽ chết!” hay “Con thà chết đi còn hơn”. Nhưng đôi mắt của Hiromu lại khác. Đó là đôi mắt sẵn sàng cho “cái kết” giống hệt như người già đã sống khá lâu.
Tôi không biết cụ thể thế nào nhưng Hiromu đã sống ở trại trẻ mồ côi từ hồi bé.
Trong mười một năm Hiromu sống ở đó, cậu bé rốt cuộc đã có những gì? Cậu bé đã nghĩ gì trong thời gian được nuôi nấng và lớn lên ở đó?
“Bác hiểu rồi… Chỉ hôm nay thôi đấy.”
Hiromu reo lên: “Tuyệt!” rồi leo lên chiếc “xe nhà - thư viện” đã nổ máy.
Bốn năm trước, tôi năm mươi tuổi, nghỉ hưu sớm. Tôi đã dùng tiền nghỉ hưu sớm đó để mua một chiếc xe nhà đã qua sử dụng. Không phải tôi mua để mở quầy thư viện di động mà vì tôi muốn sống một cuộc sống không liên quan gì tới con người như là gia đình hay vùng miền… Không cần phải ở cố định ở nơi nào đó, chỉ cần tự mình lo đồ ăn, lo tiền điện cho mỗi mình, thỉnh thoảng làm thêm những công việc cần người làm trong ngày, làm ngày nào kiếm tiền ăn cho ngày đó, thế là cũng đủ sống.
Vào một ngày sau hai năm sống cuộc sống như thế tôi đã đỗ xe bên con sông cạn của khu phố này, khi tôi đang đọc tập 13 của bộ manga năm mươi tập, có một cậu bé đã cất tiếng hỏi tôi: “Này bác ơi, bác đọc xong, bác cho cháu mượn cuốn manga đó nhé!”
Đó chính là Hiromu hiện đang ngồi trong chiếc xe này.
Tôi đã rất mê manga từ ngày xưa, cùng lúc tôi mua chiếc xe nhà di động này, tôi cũng đã thu mua phải mấy trăm loại manga, vừa đọc chúng vừa sống trong chiếc xe này.
“Bác cho cháu mượn cũng được, nhưng vì bác không ở đây thường xuyên, với lại bác cũng đọc đi đọc lại nhiều lần rồi, nên nếu được bác tặng cháu luôn đấy.”
Khi tôi nói thế rồi đưa quyển truyện cho Hiromu, cậu bé nói:
“Cũng hơi khó cho cháu!”
“Tại sao vậy?”
“Là vì cháu muốn đọc liên tục.”
Tôi đã tình cờ đỗ xe ở khu phố này, tình cờ đọc tập 13, tình cờ gặp cậu bé mê manga và rồi hiện giờ cũng tình cờ tôi thành chủ của xe nhà - thư viện di động này.
Đời người có lẽ cũng chỉ là vậy. Cả chuyện tôi nghỉ hưu sớm, cả chuyện tôi phải rời xa ngôi nhà tôi đã từng ở, có lẽ liên tiếp toàn là những chuyện “tình cờ” chăng?
Câu hỏi “Bác ơi, ngày mai bác ở đâu?” đã trở thành câu cửa miệng của Hiromu thường xuyên ghé qua chiếc xe này.
Lời qua lời lại như là lời hứa mà lại không phải lời hứa đó đối với chúng tôi, những kẻ cùng cô đơn giống nhau, có lẽ nghe cũng dễ chịu.
Trong quãng thời gian như thế, tôi đã có một mong muốn nho nhỏ.
Tôi muốn có người đọc manga của tôi với tâm trạng sảng khoái hơn nữa.
Tôi đã từng nghĩ không muốn liên quan tới một ai nữa, nhưng từ lúc gặp Hiromu, cậu bé cũng đơn côi một mình, tôi đã dần thay đổi.
Rồi từ đó tôi tự sửa lại từng chút một chiếc xe nhà di động, thỉnh thoảng lấy những giá sách thanh lý từ trường tiểu học đã chuyển địa điểm.
Thế là người nọ đồn người kia, cứ thế những đứa con nít mê đọc manga đã tập trung lại chỗ xe nhà - thư viện của tôi.
Khi di chuyển tự do đây đó, những người tốt bụng đã tặng tôi những loại sách khác nữa chứ không chỉ có manga, thậm chí cả bánh kẹo nữa.
Tuy vậy, trong số đó, cũng có những người gọi tôi là “kẻ lập dị”. Những người đó hình như có nói với con của mình là “Không được tới gần người đó” và những đứa trẻ được dặn như thế đã rất thân tình nói lại cho tôi biết.
Cũng đã hai năm trôi qua kể từ ngày đó, Hiromu học lớp ba khi tôi gặp cậu bé lần đầu, thời gian thấm thoắt trôi, giờ cậu bé đã lên lớp năm.
Khi tôi đang hồi tưởng lại những chuyện đó, Hiromu đang ngồi ở ghế phụ nói: “Bác Mitsu, bác dừng lại đã!”
Sau khi quan sát thấy xung quanh an toàn, tôi tạt xe đỗ lại ở đoạn đường hẹp giống như đường ngõ, Hiromu mở cửa sổ xe, nhìn chăm chú vào đâu đó.
“Sao vậy, Hiromu?”
Ngay trước tầm mắt của Hiromu, có một ngôi nhà riêng đã cũ được quây bởi hàng rào cây xanh.
“Ngôi nhà đó sao vậy cháu? Đó là ngôi nhà của người quen của cháu à?”
“Không, không phải bác ạ. Bác nhìn kĩ xem, ở phía góc ngôi nhà cũ đó có một kho chứa đồ thì phải? Trong đó có một chú chó.”
“Sao? Trong kho chứa đồ đó ư?”
Ngôi nhà riêng hai tầng nhìn qua thì thấy chắc là được xây cách đây khoảng năm mươi năm thì phải. Nó được phủ một lớp cây dây leo Nhật Bản, kín tới mức không biết là có người đang sống ở đó hay không, ở phía hiên cửa chất đầy nào là nồi, xô và các đồ lỉnh kỉnh. Ở phía góc ngôi nhà có một kho chứa đồ nhỏ cao tầm đứa con nít, kho chứa đồ không tới mức cũ lắm và cũng không thấy bạc màu. Tuy nhiên lại có một chú chó ở trong kho chứa đồ, chỗ bị che bởi bóng của ngôi nhà, không có ánh nắng chiếu tới.
Tôi quyết định xuống xe, đến gần hơn xem thế nào. Tôi đi tới sát chỗ hàng rào, nhìn kĩ vào bên trong kho chứa đồ đang mở một cánh cửa, thấy có con gì lông màu nâu đang liếc nhìn. Khi tôi thử nhìn theo góc nhìn khác thì thấy đúng là có một con chó thuộc giống chó Shiba Inu của Nhật đang ở trong kho. Nó bị buộc bằng một đoạn dây ngắn không đủ để chạy nhảy trong một khoảng rộng được. Nó chán đi ra ngoài hay sao mà nằm dài ra bất động, có cảm giác cũng chỉ đơn thuần là đang tồn tại mà thôi.
Hiromu đang ở bên cạnh tôi, cậu bé cũng đang nhìn, rồi cậu bé nói:
“Con chó đó… suốt mấy năm đều bị trói ở đúng một chỗ.”
“Sao? Mấy năm liền? Ở chỗ không có ánh nắng chiếu tới như thế?”
“Đúng thế bác ạ. Thỉnh thoảng cháu có đi qua đường này, cháu thấy lúc nào nó cũng ở chỗ đó. Không biết nó có được dẫn đi dạo đầy đủ không bác nhỉ?”
“Cứ bị buộc mãi ở một chỗ như thế này thật là tội nghiệp…”
“Vâng…”
Hiromu nhìn con chó với ánh mắt không dời, và tôi có thể cảm nhận được cậu bé tuy nghịch ngợm nhưng có một trái tim nhân hậu.
Tôi thử nhìn sâu vào bên trong, sau lớp hàng rào một lần nữa, thấy trong đó có một tâm trải dùng để đi vệ sinh, chứng tỏ con chó đúng là được nuôi nhốt hoàn toàn trong đó.
Đúng lúc ấy, Hiromu nói:
“Bác Mitsu này, hay là… cháu tháo dây trói cho con chó đó nhé?”
“Hả?”
“Thì chẳng phải con chó đang muốn trốn ra khỏi đây còn gì bác?”
Tôi nghĩ người chủ nuôi chó ở một nơi như thế đúng thật là không hiểu biết gì hết. Nhưng tự ý tháo dây buộc trên cổ chú chó thì cũng là phạm tội. Vì vật nuôi về mặt pháp luật cũng là “vật sở hữu” nên nếu chúng tôi làm vậy thì hình như sẽ quy vào tội ăn cắp thì phải? Không, không hẳn là ăn trộm, nên sẽ là tội gây thiệt hại tài sản chăng? Dẫu sao vì chúng tôi đã xâm phạm chỗ ở của người khác nên chắc chắn là phạm tội đột nhập trái phép.
“Rồi, bác hiểu tấm lòng của cháu nhưng dù chúng ta có tự ý tháo dây buộc, thả chú chó ra thì khi bị người bên trung tâm y tế công cộng nhìn thấy… nói thế nào nhỉ… có khả năng nó sẽ bị giết chết… Thành ra cuối cùng chú chó đó vẫn có kết cục thật đáng thương.”
“Chú chó đó… cả nuôi hay thả cũng đều như địa ngục cả nhỉ.”
“… Hiromu, cháu cũng là người có tình cảm nhỉ. Bác không biết rằng cháu cũng yêu động vật đấy.”
“Không hẳn là cháu yêu động vật đâu. Cháu kị mèo lắm.”
“Kị mèo?”
“Vâng. Hồi nhỏ, cháu định cứu một con mèo sắp chết đuối ở dưới ao nhưng không thể cứu được… Nên từ đó trở đi chẳng hiểu sao tự dưng cháu không muốn chạm vào mèo nữa.”
“Con mèo bị chết đuối đó đâu phải do lỗi của cháu. Cháu đừng cả nghĩ quá thì hơn đó.”
“Không, là do cháu. Nếu cháu dũng cảm xuống ao sớm hơn thì có thể đã cứu được nó.”
“Nếu thế có khi cháu lại bị chết đuối đấy. Chắc chắn số phận con mèo đó chỉ đến thế thôi.”
Đúng lúc đó, có một người tầm sáu mươi tuổi mà tôi nghĩ là chủ của con chó đang cầm thứ gì đấy trên tay đi từ hiên nhà ra.
Người đàn ông đi từ hiên nhà ra đó đang cầm trên tay hộp xốp đựng đồ ăn, tôi đoán là mì ăn liền. Khi cầm thứ đó đi về phía kho chứa đồ, ông ta nhìn chú chó và bắt nó giơ tay lên.
“Nào, giơ tay lên! Giơ tay! Nếu không làm được là ta không cho ăn đâu!”
Con chó chẳng mảy may giơ tay, cứ thế nằm soài ra. Đã thế người đàn ông buông thêm một câu lạnh tanh: “Mày đúng là đồ chó vô dụng. Đến giơ tay cũng không làm được”, rồi như quẳng đồ ăn xuống. Tôi thấy tâm trạng trùng xuống, quyết định hỏi xem tại sao ông ta lại nuôi con chó trong tình trạng như thế.
“Anh cho tôi hỏi một chút được không?”
Khi tôi cất tiếng hỏi vọng qua hàng rào, người đàn ông mặc áo phông màu ghi bạc màu vừa gườm gườm nhìn chúng tôi vừa nói: “Có chuyện gì?”
“Xin lỗi anh. Hình như con chó này suốt ngày bị trói ở đó thì phải? Vào mùa này ở trong kho chứa đồ rất dễ bị hấp nhiệt và mắt nước!”
Người đàn ông vẫn gườm gườm nhìn chúng tôi, nói với giọng rõ to như dọa nạt:
“Không phải việc của ông!”
Có lẽ đúng là chuyện đó chẳng liên quan gì tới chúng tôi cả. Nhưng đập vào mắt chúng tôi là cảnh tượng con chó bị đối xử tồi tệ, bị buộc vào sợi dây quá ngắn, chẳng khác nào bị giam hãm, bị ném đồ ăn như là đồ thức ăn vứt đi như thế, nếu chúng tôi nói “Đúng là thế!” rồi về thẳng luôn thì đúng là không có tình người chút nào. Vì không muốn cậu bé Hiromu nhân hậu phải buồn lòng nên tôi đã hỏi tiếp:
“Nó có hay được đưa đi dạo không?”
Lúc đó, người chủ của con chó đã buông một câu không thể tin nổi.
“Con chó này dù có chết thì đó cũng là số phận của nó phải thế rồi.”
Tôi muốn rút lại câu ban nãy tôi nói với Hiromu. Tôi hối hận vì mình đã lỡ gói gọn chuyện con mèo đã chết dưới ao vào một từ “số phận”.
Hiromu đã lặng lẽ đứng đằng sau tôi từ nãy tới giờ, vừa nghe câu nói đó của người đàn ông, bỗng hầm hầm nói:
“Số phận là cái gì chứ? Người như ông tự quyết định nó được à? Mang tiếng là ông nuôi chó chứ thực ra chỉ có trói nó bằng sợi dây ngắn. Bác ấy chỉ hỏi là có cho nó đi dạo hay không thôi mà! Lão già đáng ghét!”
Ông chủ của con chó cũng không chịu thua Hiromu, một cậu học sinh tiểu học, đã dồn hết sức đá mạnh vào hàng rào.
“Ta đã cho con chó ở chỗ rộng hơn cái chuồng chó ở đằng đó, hỏi có gì là không được hả? Vừa tránh được mưa vừa được cho ăn. Như thế rồi còn ý kiến gì nữa nào?”
Ông chủ con chó đáp lại thế, nghiến răng tức giận bỏ vào trong nhà. Hiromu nhìn theo lưng ông ta, đỏ mặt tía tai, tức tối nói: “Lão khốn!”
Số phận…
Đó là thứ do ai quyết định đây?
Đó có phải là thứ được quyết định bởi một ai đó không? Hay đó là thứ do mình tự tìm thấy?
Có phải vốn dĩ số phận tự quyết định? Hay đó là thứ được dẫn dắt chăng?
Một ông già trên năm mươi tuổi lại suy nghĩ về số phận như thế chắc có lẽ sẽ bị người ngoài nghĩ là tự hỏi, tự trả lời một cách ngớ ngẩn.
Nhưng cũng chẳng cần phải nói rằng chính bản thân tôi cũng đang bước trên đường đời cô độc. Thà thế còn hơn bị buộc bởi đoạn dây ngắn. Không, liệu có thật là vậy hay không? Liệu có thể nói giờ tôi đang có một cuộc sống vẫn còn hơn con chó kia?
Vậy chứ chắc chắn Hiromu cũng có cảm nhận gì đó. Cậu bé vừa hướng về chú chó đang bị buộc dây, miệng lẩm bẩm: “Xin lỗi vì tao không làm được gì cho mày…” rồi leo lên xe.
Chúng tôi cứ thế nín thinh, thắt dây an toàn để lái xe tới công viên tiếp theo.
Ngay lúc tôi vừa ấn chân ga, bên đường đi bộ phía bên trái có gì đó lao ra, đâm bịch một cái.
Chúng tôi lại tháo dây an toàn, ra ngoài xe ngó thì thấy… có người nằm ngã trước mũi xe.
Hiromu vừa nói: “Ơ? Không thể… Anh vừa đâm phải ư?” vừa nhìn chằm chằm vào người đang ngã xuống đường. Người bị ngã là một nam thanh niên tôi đoán là tầm hai mươi.
“Này, cậu có sao không?”
Tôi vừa đặt tay lên vai cậu ta vừa hỏi.
Rồi, cậu thanh niên đang nằm sấp đó sau khi nhìn lướt qua tôi đã đứng bật dậy, đi luôn như là chạy trốn vậy.
Xem chừng cú va cũng nhẹ. Chắc chỉ là cậu ta đang vội. Tôi nghĩ may hơn cả là đã không bị thương tích gì, và khi tôi vừa thấy nhẹ cả người xong, Hiromu đã lại hét to: “Ối!”
“Sao thế, Hiromu? Cháu làm bác giật cả mình.”
“Bác Mitsu, bác nhìn xem cái gì kia…”
Tôi nhìn theo hướng tay Hiromu chỉ, thấy có mấy tờ mười nghìn yên đang rơi trên mặt đường chỗ cậu thanh niên vừa ngã. Hiromu nhanh chóng đi về phía mấy tờ mười nghìn yên đó, rồi bắt đầu nhặt chúng.
“Ôi, tuyệt quá bác Mitsu ơi! Những tám mươi nghìn yên.”
Tôi nhanh chóng tóm lấy cổ tay của Hiromu khi cậu bé đang định đút tám mươi nghìn yên vừa nhặt được vào túi quần.
“Tại sao vậy bác? Chỉ cẩn từng này là bác có thể mua được nhiều bánh kẹo cho tụi trẻ con tới xe nhà - thư viện, hay mua thức ăn ngon cho con chó ban nãy mà?”
“Nhưng số tiền đó không phải của cháu, Hiromu à.”
“Bác đừng nói cứng nhắc quá, nghe chẳng giống bác Mitsu mọi khi gì cả. Bác Mitsu, bác đâu phải là cảnh sát, vậy mà…”
“Trước mắt cứ đem số tiền này tới đồn cảnh sát. Không đem tới đó là không được đâu.”
Hiromu miễn cưỡng nói: “Cháu hiểu rồi!” và đưa cho tôi tám mươi nghìn yên đã nhặt được.
Sau đó, khi chúng tôi đến đồn cảnh sát gần đây nhất, tôi nhìn thấy có một viên cảnh sát đang đứng một mình ở cửa ra vào. Hiromu từ cửa sổ xe, hướng về viên cảnh sát chào:
“Chú cảnh sát ơi!”
Lập tức, viên cảnh sát đứng thẳng người, lịch sự đáp lại:
“Xin chào!”
Hiromu đang trêu đùa bỗng hơi chững lại.
Trong đồn, sau khi điền những thông tin vào giấy tờ cần thiết, tôi thử hỏi xem quanh đây có vụ cướp hay ăn trộm nào không. Biết là không thấy có báo cáo nào về những vụ tương tự nhưng để cẩn tắc vô áy náy, tôi đã miêu tả lại cho viên cảnh sát những đặc điểm của nam thanh niên đã đâm vào xe của mình.
Và rồi, Hiromu nhìn thấy thế, bất chợt nói như sau:
“Bác Mitsu như cảnh sát ấy nhỉ. Tuy nhìn bác hơi xấu một chút…”
Tôi ngạc nhiên về khả năng quan sát của Hiromu. Bởi vì…
“Bác Mitsu vốn là một cảnh sát hình sự.”
Viên cảnh sát đã phản ứng giúp tôi, nói cho Hiromu biết sự thật về tôi.
Hiromu vừa “Dạ?” vừa nhìn tôi, rồi nói với viên cảnh sát:
“Thảo nào chú chào lịch sự thế. Hóa ra không phải là với cháu mà là với bác Mitsu.”
Tôi cảm giác cậu bé như đang nhìn xa xăm đi đâu đó, hay đấy chỉ là tưởng tượng chăng? Nhưng Hiromu quay trở lại trạng thái như mọi khi rất nhanh, cậu bé nói:
“Bác Mitsu ngầu thật đấy! Bác đã từng bắn súng chưa? Thế còn bom? Bác đã từng nhìn thấy bom chưa?”
Cậu bé giơ hai tay lên tạo dáng cầm khẩu súng, giả vờ bắn “pằng” một cái. Tôi không thể trả lời câu hỏi của Hiromu. Tôi có lý do không muốn trả lời.
“Thôi, Hiromu, đi tới công viên tiếp theo nào. Quà chiều hôm nay là món bánh rán đó.”
Tôi không muốn nhớ tới vụ xảy ra cách đây năm năm, tôi chào viên cảnh sát rồi nhanh chóng leo lên xe.
⚝ ✽ ⚝
“Trời ơi, mình nhặt được số tiền lớn thế này, làm thế nào đây?”
Mới một năm từ lúc tôi bắt đầu làm thêm ở cửa hàng tiện lợi. Tôi, với lương cả tháng là một trăm ba mươi nghìn yên, đã nhặt được số tiền lớn là ba triệu yên.
Không phải, chính xác là ba triệu mười nghìn yên, do va vào chiếc xe nhà di động trông là lạ nên tôi đã làm rơi mấy tờ từ trong túi đựng tiền.
Nửa người bên phải tôi hơi đau một chút nhưng vẫn có thể đứng lên luôn được. Chắc cũng là nhờ tôi đã từng học võ Judo thời còn học sinh.
Tôi chỉ muốn trước mắt là cứ đứng lên để chạy đi đã nên đành bỏ lại mấy chục nghìn yên rơi ở đấy.
Rồi khi tới cửa hàng tiện lợi nơi tôi đang làm thêm, tôi nhét đống tiền đó vào sâu tít góc tủ cá nhân ở phòng thay đồ, cố tình trùm lên đó chiếc khăn bông đã bẩn.
“Làm gì với số tiền này đây?”
Tôi tên là Majima Riku. Hai mươi tám tuổi. Tôi đang làm thêm ở cửa hàng tiện ích hơi cách nhà ga một chút, tôi không hẳn là làm việc với một ước mơ hay một mục tiêu gì đó lớn lao.
Lúc tôi hai mươi lăm tuổi, ban nhạc của tôi tan rã, từ khi tôi khẳng định rằng mình không có tài năng về âm nhạc, tôi đã đi làm việc hàng ngày, đơn giản chỉ là làm thôi, chẳng với mục đích cụ thể nào.
Giờ tôi chỉ đắm đuối nhất với người yêu của mình, mối tình đầu của tôi khi đã hai mươi tám tuổi.
“Đúng rồi! Nếu có số tiền này, tôi sẽ giúp cô ấy thực hiện được ước mơ…”
Cô ấy đang làm việc ở cửa hàng chuyên về các dịch vụ làm đẹp cho vật nuôi, chuyên chăm sóc cho một con chó có tên là Torima. Cô ấy có nói với tôi từ lúc chúng tôi gặp nhau rằng cô ấy có ước mơ tới một lúc nào đó sẽ mở một cửa hàng của riêng mình.
Cô ấy hơn tôi vài tuổi nhưng cả giọng nói lẫn khuôn mặt đều rất dễ thương, nhìn trông trẻ hơn so với tuổi thật. Với cả, cô ấy rất hiền với con nít lẫn động vật. Khi tới cửa hàng tiện lợi nơi tôi đang làm để mua đồ, lúc nào cô ấy cũng mỉm cười, chu đáo nói lời cảm ơn tôi. Tôi đã lấy hết can đảm để tỏ tình với cô ấy.
Chắc có lẽ đó là một kỳ tích khi cô ấy nhận lời tỏ tình đó của tôi. Nhưng để duy trì điều kỳ tích đó, tôi muốn giúp cô ấy thỏa lòng mơ ước. Chỉ có điều, làm thế nào để nói với cô ấy chuyện đó đây?
Nếu tôi nói thẳng là đã nhặt được số tiền lớn, có lẽ cô ấy, vốn là người nghiêm túc, sẽ nói với tôi là nộp số tiền đó cho cảnh sát.
Hơn nữa, lại tình cờ bắt gặp đúng chuyện đó quả là…
~ Ba mươi phút trước ~
“Sao? Hai triệu yên vẫn thiếu? Nếu được thì thêm vào một triệu yên nữa ư?”
Khi đang kiểm tra xem tiền lương đã có hay chưa ở cây ATM của ngân hàng, tôi đã nghe thấy một người khác đang dùng máy ATM bên cạnh nói chuyện qua điện thoại.
Người đàn ông đang nói chuyện rõ ràng nghe rất khả nghi, cũng già già tầm hơn sáu mươi tuổi.
(Này, này, có ổn không đây? Thế này là lừa đảo rồi còn gì nữa?)
Tôi đang nghe ngóng đúng như kiểu đang tọc mạch vào chuyện của người khác như thế thì lại thấy ông ta rút tiền thành mấy lượt từ mấy chiếc thẻ ngân hàng rồi cho vào một túi giấy nhỏ có quai xách.
Vì tôi vẫn đủ dư một ít thời gian từ nay cho tới lúc đến giờ làm việc nên tôi đã bám theo ông ta.
Ông già đó mặc áo sơ mi trắng và quần màu nâu mỏng, nhìn trông không có vẻ gì là có nhiều tiền. Không, có lẽ nói gì thì nói, bảo là “trông nghèo rớt” có khi còn đúng hơn. Không biết ông ta cầm số tiền lớn ba triệu yên đó đi đâu? Tôi đã cực kì tò mò nên bám theo ông ta.
Từ chỗ ngân hàng, đi chừng vài phút là qua con phố buôn bán có đường một chiều, chui vào đường hầm hẹp nối với cửa Nam của nhà ga. Đó là đường hầm giống như cái hầm xuyên qua quả núi nhỏ.
(Lại có đường ngõ như thế này à…)
Sau khi đi hết đường hầm đó tầm hai đến ba phút, ở phía bên trái có một công viên nhỏ với một cái ghế băng dài được đặt chỏng trơ. Ông ta ngồi xuống chiếc ghế băng trong công viên đó, lấy khăn tay từ trong túi quần màu nâu mỏng rồi lau mồ hôi trên mặt và cổ.
Tôi vô tình đi vào trong nhà vệ sinh công cộng ở phía sau chiếc ghế băng. Rồi khi quan sát bên ngoài từ cửa sổ nhỏ của một phòng vệ sinh, tôi nghe thấy tiếng điện thoại di động của ông ta kêu lên.
“A lô, tôi đang ở chỗ anh đã chỉ đây. Đúng, tôi vừa tới xong.”
Ông ta dập máy, chưa đầy một phút sau, một gã đàn ông mặc áo khoác đen đi tới. Đang giữa mùa hè mà gã đó lại mặc áo khoác dài tay và quần bò dày cộp, nách kẹp thứ gì đó như cái ví. Tôi thấy nhìn kiểu gì trông cũng rất đáng ngờ.
Cả hai sau khi chào hỏi nhau những lời đơn giản, ông già vừa đưa túi giấy đựng ba triệu yên ra vừa nói:
“Tôi vô cùng xin lỗi khi con trai tôi đã lại gây ra chuyện. Với chừng này tiền, có thật là sẽ ổn thỏa? Nếu có ba triệu yên, liệu anh sẽ giúp xí xóa chuyện con trai tôi đã gây ra cho công ty được không?”
Gã đàn ông mặc áo khoác đen vừa nhận lấy túi giấy có ba triệu yên bằng một tay vừa nói:
“Chuyện sau này cứ để tôi lo. Vì tôi sẽ chịu trách nhiệm và xử lý vụ bê bối mà con trai ông gây ra.”
Khi ông già nói: “Tôi cảm ơn anh. Tôi… tôi muốn liên lạc với con tôi…”, gã đàn ông mặc áo khoác đen vừa châm điếu thuốc vừa nói như thật:
“Tôi hiểu rồi. Tôi sẽ để cho anh ta liên lạc với ông sau nên ông chớ có cáu giận. Tôi nghĩ là cậu ta cũng đang sống khá bí lắm rồi. Và cũng đã bị truy đuổi ráo riết lắm đó.”
Chắc chắn dù ai đang ở đây, ngay cả đó là một cậu học sinh tiểu học đi nữa cũng cảm thấy “đáng ngờ”. Không biết con trai ông ta thực sự là đã gây ra chuyện gì?
Đúng lúc đó, ông ta rút chiếc ví từ trong túi quần ra và đưa cho gã đàn ông tờ mười nghìn yên.
“Anh đưa cả tờ tiền này cho con trai tôi. Đây là tiền tôi cho nó để tiêu vặt…”
Ông già vừa liên tục cúi đầu vừa nói như vậy. Gã đàn ông nhận lấy tờ mười nghìn yên vừa đưa ra đó, nói:
“Tôi biết rồi.”
Sau đó gã bỏ tọt vào trong túi đựng tiền, hành động trái ngược hẳn với những lời nói lịch sự kia.
Sau đó, ông già quay về bằng con đường vừa đi ban nãy.
Tôi nên làm gì đây? Qua những gì tôi quan sát và nghe thấy, đây chắc chắn là lừa đảo.
Có khi đây là cách lừa lấy tiền, lợi dụng chuyện con trai của ông già đã gây ra chuyện gì đó. Mình có nên báo cho cảnh sát không? Không, nhỡ con trai của ông già kia đã gây ra chuyện gì thật, có khi báo cho cảnh sát lại càng thêm to chuyện cũng nên…
Tôi đang nghĩ tới đó thì gã đàn ông mặc áo khoác đen đã vào nhà vệ sinh công cộng mà tôi cũng đang ở trong đó, bắt đầu nói chuyện điện thoại ở quanh chỗ có bồn rửa tay
“À, a lô. Tao đây. Đúng, ổn cả. Mọi thứ diễn ra suôn sẻ cả. Lão già sống một mình đã đưa cho tao kha khá tiền. Thế còn mày?”
Tôi mở he hé cánh cửa ra, quan sát gã đàn ông, thấy gã vừa vuốt vuốt tóc vừa nói chuyện với tên nào đó mà tôi nghĩ là đồng bọn lừa đảo. Không biết người trong điện thoại đã nói gì nhưng tôi thấy bỗng dưng gã gắt lên:
“Hả? Cái gì cơ? Mày đã làm gì? Chỗ đấy là hai mươi triệu đó! Đừng có đùa chứ! Giờ mày đang ở đâu? Hả! Rồi, biết rồi. Tao đến ngay đây, đứng nguyên đó đấy!”
Giọng điệu khác hẳn so với lúc nói chuyện với ông già, nghe như thể là của một người khác. Có lẽ là tên đồng bọn của hắn đã gây ra chuyện gì đấy chăng? Gã đàn ông cầm cái ví để ở trước gương như thể giật lấy một cái rồi ra khỏi nhà vệ sinh.
Tôi thấy sợ khi ở lại chỗ này, định nhanh nhanh đi tới cửa hàng tiện ích để làm việc nên mở cửa phòng. Vừa lúc đó, ở chỗ bồn rửa tay mà gã đàn ông để cái ví, tôi thấy chềnh ềnh cái túi giấy đựng tiền. Tôi run run ngó vào bên trong, thấy những tờ mười nghìn yên nhiều không đếm xuể. Không thể nhầm được… Đây chính là ba triệu yên mà gã đàn ông đã lừa lấy của ông già.
Tôi có ra khỏi nhà vệ sinh công cộng tìm gã đàn ông mặc áo khoác đen nhưng chẳng thấy tăm hơi hắn đâu. Vì đồng bọn đã gây ra chuyện nên gã đó vội vàng cầm cái ví đi luôn.
Giờ nếu tôi có cầm số tiền này tháo chạy thì tuyệt nhiên chẳng bị ai phát hiện.
Tôi đã khẳng định được điều đó.
Tim tôi đập mạnh, cứ thình thịch, thình thịch, như sắp nhảy ra khỏi lổng ngực. Lỡ gã đàn ông quên túi tiền kia quay lại… Hoặc có khi ông già nhận ra mình đã bị tên lừa đảo đánh lừa, lại tới chỗ này…
Tôi nhìn quanh khu nhà vệ sinh công cộng, thấy không có gắn camera nào cả. Với lại, ai mà biết được rằng khu công viên bé tẹo thế này lại có vụ trao nhận tiền cơ chứ.
Chỉ có lúc này thôi!
Tôi đã nuốt ực chỗ nước miếng ngậm trong miệng, cầm túi tiền chạy thục mạng.
Tôi cứ chạy, cứ chạy, tưởng chừng hết hơi, chạy tới mức đau thắt cả ngực.
Rồi lúc tôi định băng qua một con đường hẹp giống như cái ngõ, tôi va luôn vào chiếc xe trông là lạ, như là xe nhà di động.
“Này, cậu có sao không?”
Một người đàn ông tầm năm mươi tuổi từ trong xe đi ra, ông ta hỏi tôi khi tôi đang định băng qua đường. Ở đằng sau, có một cậu nhóc tóc hoe, chắc vẫn là học sinh tiểu học đang đứng.
Nửa người bên phải của tôi đập mạnh nhưng tôi không có thời gian cảm nhận được cái đau, cũng như chẳng có thời gian mà nhặt lại mấy tờ mười nghìn yên rơi trên đường. Cứ phải chuồn khỏi chỗ này đã!
~ Hiện tại ~
Sau khi làm thêm xong, khi chào mọi người rồi đi ra khỏi cửa hàng tiện ích, tôi có cảm giác tất cả mọi người đang nhìn tôi.
Tôi cảm tưởng như cả nhân viên bán hàng cùng với tôi, khách mua và cả người đi trên đường, ai cũng đang nhìn tôi.
Rõ ràng tôi nên đưa số tiền này tới cảnh sát chăng…?
Tôi vừa hoang mang vừa vội vã đi trên đường về nhà, và đập vào mắt tôi là tờ giấy dán trên cửa hàng bán vật nuôi trong nhà mà tôi vẫn hay đi qua có ghi dòng chữ: “Bán hạ giá để đóng cửa hàng!”
Khi tôi nhìn vào bên trong kệ trưng bày, tôi thấy còn có đúng một con chó nhỏ màu trắng, được chú thích là “Chó tròn một tuổi”.
Tôi cũng thấy quan tâm nên cứ nhìn con chó đó, thế là một cô nhân viên của cửa hàng đi ra ngoài, nói với tôi:
“Con phốc sóc trắng này đáng yêu đúng không anh? Nó hơi lớn một chút nhưng rất bám người đó.”
Tôi có cảm giác như cô gái đó nói giống chó phốc sóc “giờ là giống chó mọi người muốn nuôi nhất!” Tôi nghĩ kẻ có lương tháng một trăm ba mươi nghìn yên như tôi mà mua được con chó đó là điều hoàn toàn không thể… Nhưng chờ đã! Có lẽ hiện giờ tôi có thể thỏa lòng mong ước mà…
Cô nhân viên lại nói bồi thêm một câu:
“Chú chó này là con cuối cùng rồi.”
Tôi đã thử hỏi một câu bỗng vừa hiện lên trong đầu tôi.
“Nếu vẫn không bán được, chú chó con này sẽ làm thế nào?”
“Nếu không bán được…? Vâng, tôi sẽ đi tìm người nhận nuôi, nếu không tìm thấy, tôi đành để cho tình nguyện viên tiếp nhận, và nếu cũng không được nốt thì…”
“Nếu không được thì sao…?”
“… Vì chú chó này cũng to rồi nên có khi sẽ trải qua số kiếp đáng thương…”
Số kiếp đáng thương…
Lẽ nào đó chính là việc “xử lý” nó?
Con chó không bán được rốt cuộc không phải sẽ nhìn bầu trời từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, cũng không phải chạy nhảy trên bãi đất lớn, mà sẽ bị đặt dấu chấm hết cho cuộc đời ngắn ngủi của mình?
Khi lòng tôi đang trùng xuống như vậy, cô nhân viên lại thốt ra một câu không thể tin nổi:
“Nó là con vật đấy nhưng vì là món hàng nên… đành vậy, biết làm sao được.”
Món hàng? Đành vậy, biết làm sao được?
Giá trị của một con vật thực ra là gì đây?
Tôi chúa ghét kiểu bán hàng như là đánh vào tâm lý thương hại của khách nhưng tôi, giờ lại là người có thể cứu vớt chú phốc sóc con trước mắt tôi dù chỉ là một chút ít. Có lẽ cứu vớt ở đây cũng không hẳn là chuyện hoa mỹ gì, chỉ là tôi có thể cho nó ra khỏi đây mà thôi.
“Chị bán cho tôi chú chó con này giá như thế nào đây? Đang giảm giá đúng không? Tôi sẽ dắt nó về. À, là tôi nuôi nên không phải gói như gói làm quà đâu.”
Cô nhân viên bán hàng vừa “méo miệng” cười trước câu nói hơi châm chọc của tôi vừa nói:
“Vâng, cảm ơn anh.”
Con phốc sóc đã hơi to một chút đó có giá vừa đúng bằng tiền lương một tháng của tôi.
Tôi vừa toát một ít mồ hôi ở tay vừa lấy ra trong túi giấy ba mươi tờ mười nghìn yên.
Tôi đã chẳng nghĩ trước nghĩ sau mà mua, chỗ căn hộ có một phòng đơn nơi tôi đang ở lại cấm nuôi động vật. Tôi đã có một đêm thấp thỏm cầu mong nó không sủa, đến ngày hôm sau, cứ cẩn thận, tôi gửi nó ở khách sạn dành cho vật nuôi rồi mới đi làm. Ở đây thì cũng vẫn là dùng tiền của người khác. Nhưng vì một góc căn hộ cũng là phòng riêng của chủ nhà nên nếu có tiếng con vật kêu, có khi chủ nhà sẽ tự ý lấy khóa mở ngay. Vì đó là người cổ hủ nên có lẽ khái niệm “xâm phạm quyền riêng tư cá nhân” cũng không có tác dụng gì.
Rồi hai tiếng sau khi tôi làm việc, như mọi lần, tôi đang xếp lại đống tạp chí thì một người đàn ông như kiểu đại ca, dân xã hội đen đeo kính râm đi vào trong cửa hàng.
Người đàn ông đó đi thẳng một mạch tới chỗ tôi đang sắp xếp lại cuốn tạp chí, nói nhỏ với tôi:
“Cậu đang có một khoản tiền lớn đúng không? Đây nhìn thấy hết hôm qua rồi!”
Tôi như là con ếch đang bị con rắn nhìn trừng trừng, không thể di chuyển khỏi chỗ đó. Và rồi tôi còn chẳng để ý là cuốn tạp chí đã rơi khỏi tay tôi, sợ hãi trước ánh mắt đang nhìn mình qua chiếc kính đen của gã đàn ông đó.
⚝ ✽ ⚝
“Hiromu, ngoài manga ra cháu không đọc sách nào khác à?”
Tôi hỏi Hiromu khi cậu bé đang phồng miệng ăn chiếc bánh rán.
“Vâng, cháu không, bác ạ.”
“Trả lời ngay tắp lự nhỉ.”
“Là vì hễ đọc mấy dòng chữ bé tẹo đó là cháu lại đau đầu.”
Tôi không hề ghét câu trả lời như thế của Hiromu. Không, tôi còn khoái hơn ấy chứ.
Ngày trước có nhiều đứa con nít tự nhiên, ngây thơ như Hiromu nhưng bây giờ kiểu con nít ngại ngần, e dè lại nhiều hơn, có cả con nít tôi đưa quà chiều cho cũng không giơ tay lấy, đi về luôn.
Thế rồi, trong khi miệng vẫn dính đầy hạt đường, Hiromu lại nói tiếp:
“Bác Mitsu này…”
“Sao nào? Cháu đừng có nói xấu bác như là bác đầu hói, bác béo bự đấy nhé. Bác nghĩ là cháu có biết, tính bác hay dễ bị tổn thương lắm.”
“Không phải thế, bác Mitsu… tên thật của bác là…?”
“Sao? Hiromu à, từ lúc bác với cháu quen nhau giờ đã là hai năm, lẽ nào cháu vẫn không hề biết tên của bác từ trước tới nay sao?”
“À, cháu cũng không mấy quan tâm cho lắm…”
“Quan tâm? Thế nghe còn tổn thương hơn là từ béo bệu. Mà thôi cũng được, tên của bác là Igawa Koutarou.”
“Sao ạ? Koutarou ư? Cháu chẳng thấy có kèm tên Mitsu gì cả là sao?”
“Đã có người đọc chữ Hán Kou trong Koutarou là Mitsu, thế là từ đó trở đi mọi người gọi luôn là Mitsu.”
“Thế à bác? Người đó đúng là dở hơi bác nhỉ.”
“Cháu đừng nói như thế, bác rất thích chí với cái tên này. Tuy là nghe nó đậm mùi thời Chiêu Hòa* nhưng nghe ấm áp chứ chẳng có cảm giác xấu xa gì.”
•
Thời kỳ Chiêu Hòa là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản tương ứng với thời gian tại vị của Thiên hoàng Chiêu Hòa, từ ngày 25 tháng 12 năm 1926 đến ngày 7 tháng 1 năm 1989.
Hiromu vừa trả lời “À, vâng” như thể chẳng mấy quan tâm, vừa ngoạm hết chỗ bánh rán.
Lũ trẻ con khác cũng ăn hết bánh xong, đang định đọc những cuốn sách mà chúng thích thì Ami, một thành viên trong nhóm tình nguyện viên bước vào trong xe.
Ami đeo chiếc tạp dề có họa tiết hình hoa, cười tươi cất tiếng chào lũ trẻ, đó là một thợ làm đẹp cho chó. Khoảng một tháng trước, hình như qua một người quen, cô ấy biết tới xe nhà - thư viện di động này, thế là cứ thỉnh thoảng cô ấy mang bánh kẹo tới đây.
“Ái chà, chỗ quà chiều hôm nay đã hết bay rồi cơ à?”
“Ami à, có một anh chàng láu cá ở đây ban nãy cũng nói y hệt thế đấy!”
Anh chàng láu cá Hiromu nghe thấy nhưng vẫn vờ như không nghe thấy, chăm chú đọc truyện manga.
“Chị có mang bánh quy đến. Nhưng nếu tất cả các em đã ăn rồi thì…”
“Em ăn!”
Hiromu giả vờ không nghe thấy đã trả lời nhanh nhất.
Xem chừng là Ami và Hiromu lần đầu tiên gặp nhau nhưng từ “e dè” khi mới gặp người chưa quen biết là không tồn tại trong từ điển của Hiromu thì phải.
Ami nhoẻn miệng cười, bắt đầu phát bánh cho lũ trẻ.
Ami năm nay ba mươi tuổi nhưng trông trẻ hơn so với tuổi của mình. Cô ấy có giọng nói vang, khuôn mặt tròn, nhìn thế nào cũng thấy đó là một “người chị hiền dịu”. Dạo gần đây, Ami khoe với tôi với vẻ mặt rạng rỡ và hạnh phúc là cô ấy đã có người yêu. Ami là một cô gái cuốn hút tới mức khi tôi nghe nói là cậu ấy làm việc bán thời gian ở một cửa hàng tiện lợi, tôi cũng phải phát ghen tị với anh chàng mà tôi chưa từng gặp lần nào đó.
“Chị ơi chị! Chú chó chân ngắn tũn ở đằng kia là chú chó của chị à?” Hiromu hỏi Ami.
“À, chú chó đó thuộc giống chó Dachshund, đang được gửi ở cửa hàng chuyên làm đẹp cho chó mà chị đang làm. Nhưng…”
Cô ấy ngừng đưa bánh quy cho lũ trẻ.
“Vì có chuyện nên giờ chị trông giữ nó.”
“Có chuyện ư?” Hiromu hỏi lại và Ami tiếp tục nói với vẻ buồn rầu.
“Chủ của nó không tới đón nó về…”
“Nghĩa là thế nào? Nghĩa là nó đã bị chủ vứt bỏ?”
“Chị không biết có phải là bị vứt bỏ hay không…”
“Không, chắc chắn là người đó đã vứt bỏ nó.”
Hiromu đã nói cắt ngang lời của Ami như thế và thôi không ăn bánh nữa.
“Người lớn thật ích kỷ.”
Phải chăng con chó mà Ami dẫn theo khiến cậu bé liên tưởng tới chính bản thân mình? Phải chăng Hiromu sống trong trại mồ côi từ nhỏ, đã mặc định trong đầu rằng “người lớn” luôn mang ý nghĩa là “một cá thể ích kỷ”?
Ami đáp lại khá hùng hồn, như thể muốn khẳng định với Hiromu khi cậu bé vẫn đang quay lưng lại.
“Người chủ của nó chắc chắn sẽ tới đón nó.”
“Sao chị biết được chứ?” Hiromu nói với Ami bằng giọng có phần giận dữ.
“Là vì chú chó này đáng yêu vô cùng. Chị nghĩ là chủ nó rất yêu thương nó. Thế nên, chị đoán là chắc chắn có chuyện gì đó nên người ta mới không thể tới đón nó được.”
Hiromu trả lời “Thế ạ”, rồi lại tiếp tục đọc manga, rất khó để biết được liệu cậu bé có bị thuyết phục bởi lời nói của Ami hay không.
Tôi tôn trọng Ami, cô ấy là một người đáng tin. Ngay cả lúc cô ấy tới xe nhà - thư viện di động này với tư cách là một thành viên của đội tình nguyện, tôi vẫn cảm nhận được sự chân thành và nhẹ nhàng rất đáng quý của cô ấy, vì vậy tôi đã cất lời nhờ cô ấy giúp đỡ. Cô ấy đã đọc sách cho lũ trẻ nghe, cùng chúng vẽ các bức tranh.
Ami từng kể cho tôi nghe rằng cô ấy sống với mẹ từ nhỏ, tối nào cũng một mình đợi mẹ đi làm về, nên toàn có những ký ức buồn. Trong số những đứa trẻ tới đây, có không ít đứa cũng đang giữ những ký ức buồn giống như Ami hồi nhỏ. Vì thế Ami nói cô ấy muốn gần gũi với lũ trẻ hơn, giúp đỡ chúng được chút nào hay chút ấy. Chắc hẳn với các con vật không biết nói, cô ấy cũng làm giống như vậy.
Có lẽ một người như Ami sẽ trở thành người bạn tâm tình thân thiết của Hiromu… Và có lẽ Ami sẽ lấp được lỗ hổng trong trái tim của chú sói hoang Hiromu này…
Tôi bất chợt có cảm giác như thế khi tiễn Ami cùng con chó về sau khi lũ trẻ đã ăn hết bánh quy.
Trước đây, khi tôi có dịp nói chuyện với thầy cô ở trại mồ côi nơi Hiromu đang sống, tôi được biết cậu bé đã ở đây từ lúc ba tuổi. Tôi không rõ lý do cụ thể là gì nhưng chẳng cần tưởng tượng cũng hiểu ngay từ lúc bé xíu cậu bé đã cảm thấy bơ vơ và cô đơn như thế nào.
Phải chăng cậu bé luôn tránh quá thân thiết với mọi người cũng là vì không muốn bị hỏi về “gia đình”?
Có lẽ nào cậu bé cũng như tôi, nếu trở thành một người phiêu bạt không nhà không cửa, không biết tới từ phương nào, thì sẽ cảm thấy tin tưởng mọi người hơn chút ít?
Cũng có khi Hiromu ít nhiều đã coi “xe nhà - thư viện di động” này là nơi mình thuộc về.
Cậu bé không hẳn là muốn đọc sách, cũng không hẳn là muốn nói chuyện vui vẻ với các bạn khác mà chỉ tiện thì ghé qua ăn quà chiều, đọc lướt mấy trang manga rồi về. Hẳn là cậu bé cũng đã cảm nhận được nơi thuộc về này có thể giải phóng tâm hồn của mình dù chỉ là trong thoáng chốc.
Mặt trời bắt đầu lặn, loa của công viên thông báo đã năm giờ chiều.
“Cháu chào bác Mitsu!”
“Chào cháu, lúc khác lại tới nhé!”
“À, đúng rồi. Bác Mitsu làm gì sau khi đóng cửa thư viện di động?”
Hiếm khi nào Hiromu lại hỏi về chuyện riêng tư của tôi như vậy.
“Bác ư? Sau đó bác đi làm việc.”
“Làm việc ạ?”
“Đúng. Bác mở quầy thư viện này giống như chỉ là một sở thích nên để có cái ăn, bác phải kiếm tiền chứ. Vì thế bác đang làm bảo vệ cho một tòa nhà. Cũng không hẳn là hàng ngày.”
“Thế ạ?”
Dứt lời, Hiromu đút hai tay vào túi quần, chẳng nói thêm câu nào và đi về luôn.
Cậu bé đã đi mất, như cơn gió thoảng qua, không hề ôn lại những chuyện của ngày hôm nay, cũng chẳng đả động gì tới chuyện nhặt được tiền.
Những người chẳng sợ bị mọi người ghét thì cũng chẳng phải lấy lòng ai hết, và Hiromu cũng vậy, cậu bé chẳng cần phải tỏ ra lấy lòng một ai hết.
Trong quá khứ, tôi là người sống luôn trọng quy tắc trước tiên, nên khá là quý đức tính đó của Hiromu, một cậu bé mới mười một tuổi.
Có lẽ lỗ hổng trong trái tim với tên gọi “đơn độc” mà cậu bé vẫn tiếp tục đào cho sâu thêm, còn sâu hơn chúng tôi nghĩ rất nhiều.
~ Ngày hôm sau ~
“Hiromu, con về cũng phải nói câu chào “Con đã về ạ” chứ. Không những thế, lại còn về lúc đã quá giờ mở cửa.”
“Lắm chuyện.”
Từ hồi tôi còn bé, thầy giám đốc trại đã hay lắm lời, lắm chuyện như thế.
Nào là rửa tay đi, chào đi, gấp quần áo đi, làm bài tập đi, có khi còn nhắc nhở nhiều hơn cả bố mẹ thật sự ấy chứ.
Nói tới tôi mới để ý, tôi có cảm giác tóc thầy đã bạc nhiều hơn so với trước đây, không biết thầy bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? Hình như thầy bốn mươi tuổi lúc tôi mới tới đây, giờ cũng phải tầm hơn năm mươi rồi.
Tôi cũng không đếm cụ thể từng năm một nhưng tôi có cảm giác thầy già đi hẳn.
“Đúng là khùng…”
Tôi định lẩm bẩm một mình từ đó thôi nhưng hình như thầy đã nghe thấy và lườm lườm liếc nhìn tôi.
“Vâng, vâng, con sẽ chú ý tới cách dùng từ.”
“Con hiểu thì tốt, Hiromu.”
“Thầy ơi, con có việc muốn nhờ thầy giúp.”
“Gì đây? Hiromu mà lại nhờ thầy giúp cơ đấy? Đúng là chuyện lạ!”
“Con… Con có thể nuôi một con chó được không?”
“Con chó?”
“Đúng ạ, con chó sẽ trông trại mồ côi này luôn.”
Biết là không ích gì nhưng tôi cứ thử hỏi xem có thể nuôi con chó suốt ngày bị nhốt kia ở đây có được không.
“Là động vật thì chịu…”
“Con cũng là động vật mà?”
“Nhưng con là con người!”
“Thế chó với người có gì khác nhau?”
“Vì trại mồ côi là nơi sống tập thể, sẽ có bạn bị dị ứng với động vật nên không được.”
“Con thì lại dị ứng với thầy.”
“… Hiromu, thầy biết con là một cậu bé có trái tim nhân hậu. Thế nên thầy nghĩ chắc con đang có chuyện gì đó thôi. Tuy nhiên thầy không thể đồng ý cho con nuôi chó được.”
“Thôi, con không cần.”
Tôi đã đoán trước là sẽ chẳng ích gì nhưng khi nghe thầy nói vậy, kể cũng hơi thất vọng. Khi ta đang hy vọng, dù chỉ là chút ít thôi, nhưng lúc nhận ra không được như mình mong đợi thì sẽ rất sốc, vì vậy tôi chẳng bao giờ kỳ vọng quá nhiều vào một việc gì. Thế nhưng, tôi vẫn muốn cố gắng làm gì đó cho con chó ấy.
“Ôi chao! Mình phải mau chóng rời khỏi chỗ này, sống tự do một mình thôi!”
Tôi nói vừa đủ để thầy nghe thấy và đứng ở trong bếp uống nước ừng ực.
“Ái chà! Thế càng tốt chứ sao. Tự lập đâu phải việc xấu. Nhưng phải tới trường học hành tử tế mới mong được như thế nhé.”
Từ trong phòng khách, thầy cũng nói rõ to, cố tình để tôi nghe thấy.
“Hừ, điên!”
“Này! Cẩn thận ăn nói!”
“Thà con không sinh ra thì tốt hơn.”
“Lại nói thế rồi…”
“Thật thế mà thầy. Nếu vứt bỏ con đi thì thà đừng để con sinh ra có phải tốt hơn không, vậy mà…”
“Hiromu, con hãy nhìn về phía trước mà nghĩ. Con sống mà luôn hướng về phía trước có phải là tốt hơn không. Nếu ta đừng nghĩ là “Sinh ra rồi thì buộc phải sống!” mà cứ nghĩ là “Chính vì được sinh ra nên mình sẽ sống!”, hàng ngày ta sẽ thấy vui hơn đấy.”
“Nghe cứ buồn cười thế nào ấy. Kiểu nghĩ lạc quan như thế chắc tới lúc già như thầy mới có thể nghĩ được.”
“Có lẽ đúng là lạc quan thật, và đúng là già thật, nhưng thầy vẫn vui vẻ hàng ngày đây. Thầy cũng gặp phải những chuyện khiến thầy cảm thấy khó chịu nhưng thầy sẽ nghĩ đến những việc khác, nào là sẽ ăn gì vào bữa sáng ngày mai, nào là ngày mai sẽ dậy sớm để đi bộ, và cứ thế, hàng ngày hướng về phía trước mà sống nên luôn thấy vui vẻ hơn bao giờ hết. Thế cho nên, thầy chẳng còn ý nghĩ “Thà mình không sinh ra thì tốt hơn” nữa.”
Tôi hiểu ý thầy nói gì. Nhưng nó chỉ dừng lại trong đầu tôi thôi, chứ không tới được trái tim tôi.
Tôi và mọi người có xuất phát điểm khác nhau. Tôi thấy cách nghĩ của thầy là cách nghĩ của người có xuất phát điểm của người hạnh phúc. Còn xuất phát điểm của tôi lại bắt đầu từ việc tôi bị bố mẹ vứt bỏ nên còn trên cả mức tồi tệ. Trong cuộc đời trên cả mức tồi tệ ấy, bảo tôi hãy có niềm tin vào ngày mai đi, tôi cũng chịu.
Thế rồi thầy đi tới chỗ tôi khi tôi đã uống nước xong, thầy nói:
“Hiromu, con hãy có một ước mơ cho mình.”
Thầy nói và nhìn tôi với vẻ mặt nghiêm túc.
“Sao ạ? Thầy có nói đùa không đấy? Con có ước mơ thì cũng chẳng có ý nghĩa gì.”
“Vì sao?”
“Vì đâu có dễ mà thành hiện thực.”
“Giả sử có không thành đi nữa thì ta vẫn có cái để theo đuổi, để phấn đấu. Thầy nghĩ rằng với việc có một ước mơ mà mình nghĩ tới lúc nào đó sẽ thành hiện thực, và tiếp tục theo đuổi nó, ta có thể sống tiến về phía trước. Với Hiromu cũng thế, thầy rất muốn con hướng về phía trước mà sống.”
Tôi có cảm giác hôm nay thầy không giống với mọi ngày.
“Vì thế, con hãy cứ ước mơ đi, dù ước mơ ấy có nhỏ nhoi đến mấy cũng được. Ví dụ như ước mơ “tới một lúc nào đó mình sẽ sống trong căn nhà có thể nuôi chó”. Đó cũng là một ước mơ rất tuyệt vời đấy.”
“Tới một lúc nào đó ư?”
“Đúng, đời người dài lắm. Để đến một lúc nào đó có thể sống cùng với chú chó, con cứ cố gắng ngay từ bây giờ là được.”
“Như thế không được!”
“Sao?”
“Đợi tới “một lúc nào đó” thì muộn rồi! Phải ngay bây giờ luôn!”
Tôi đặt mạnh chiếc cốc vào bồn rửa, đi giày rồi lao ra khỏi trại mồ côi.
Tôi thấy mình giống hệt con chó suốt ngày bị trói đó.
Tôi được thầy giám đốc trại và các thầy cô thay bố mẹ chăm sóc, dạy dỗ, nhưng đó vẫn không phải một gia đình thật sự.
Tôi muốn đi khỏi đây nhưng chẳng có chỗ nào mà đi và cũng chẳng có ai đưa tôi ra.
Tôi muốn thà bị ai đó bắt cóc đi còn hơn. Khi còn nhỏ tôi đã thường nghĩ như vậy.
Chắc chắn chú chó đó cũng giống tôi. Có lẽ nó cũng luôn ấp ủ suy nghĩ một lúc nào đó được nhìn thấy bầu trời. Nhưng nó vẫn bị trói như thế trong kho chứa đồ chật hẹp, ngước lên bao nhiêu lần đi nữa cũng chẳng thấy được bầu trời. Có giật sợi dây buộc ở cổ bao nhiêu lần đi nữa, nó cũng không thể thoát khỏi chỗ đó được. Cuộc đời con chó đó có lẽ sẽ kết thúc trong cuộc đấu tranh với sự cô đơn. Mà có khi nó đã chán việc đấu tranh rồi ấy chứ…
Gọi nơi mà mình trú ngụ nhưng không phải do mình lựa chọn theo ý của mình là “nơi mình thuộc về” ư? Hay gọi một không gian thoải mái dễ chịu mà mình tự tìm thấy là “nơi mình thuộc về”?
Dẫu sao thì tôi chẳng có một chỗ ở nào cả.
Chẳng có chỗ ở nào để có thể khóc cho thỏa.
Nếu được lựa chọn, tôi thấy xe nhà - thư viện của bác Mitsu không phải là trường học, cũng không phải trại mồ côi, và cũng không phải một gia đình ấm cúng nhưng đó là nơi thoải mái nhất. Tôi không rõ vì sao lại thế. Nhưng tôi có cảm giác mình giống bác Mitsu. Mặc dù tuổi của hai bác cháu khác nhau, khuôn mặt, tính cách không giống nhau, cũng chẳng có điểm chung nào, nhưng tôi vẫn cảm thấy có gì đó giông giống.
Tôi lao ra khỏi trại mồ côi, đi bộ về phía công viên nơi chiếc xe của bác Mitsu vẫn thường hay đỗ lại, tôi thấy chị Ami trong đội tình nguyện viên và con chó đã đến đây hôm qua đang đi dạo.
“Hiromu… phải không? Sao vậy em? Sao em lại đi một mình vào giữa đêm thế này?”
Tôi nghĩ nếu để chị ấy lo lắng, chị ấy sẽ gọi cho thầy giám đốc trại nên tôi đã nói dối.
“Có một chú chó con bị vứt ở quảng trường chỗ Yonchome. Em định đi tới đó cho nó ăn. Cho nó ăn xong là em về luôn.”
“Vậy à? Chú chó con bị vứt đi ư? Thật tội nghiệp… Vậy chị sẽ đi cùng em.”
“Dạ? À, không, em đi một mình cũng được. Em có hẹn với bác Mitsu…”
“Với bác Mitsu?”
“Vâng.”
Tôi lại nói dối thêm một chuyện nữa. Nói dối lan truyền giống như hiệu ứng domino vậy. Khi một quân cờ domino đổ thì hàng loạt các quân cờ khác cũng đổ theo. Ta chỉ cần một quân cờ đổ thôi, ấy thế mà đâu có được. Tất cả cứ đổ ụp hết xuống, đổ luôn cả những thứ quan trọng, mọi thứ tan tành trước mắt mình. Có lẽ càng nói dối trái tim con người càng trống rỗng. Nhưng nếu là lời nói dối để cứu một ai đó, chắc sẽ không bị kiểu như hiệu ứng domino? Khi ấy tôi có cảm giác nếu làm đổ một quân domino trong bức tường những quân domino khổng lồ đang đứng sát nhau kia thì có thể thoát được sang thế giới ở bên kia bức tường ấy.
Tôi nghĩ như thế và thấy có lẽ nói dối cũng không “hoàn toàn xấu xa”. Nhưng lời nói dối của tôi với chị Ami hiện giờ đây là lời nói dối để có lợi cho hoàn cảnh của tôi, chứ không phải để cứu một ai đó. Tâm trạng tôi lúc này như kiểu một quân domino đổ và các quân domino khác tiếp tục đổ theo.
“Chị Ami, em xin lỗi chị. Em đã nói dối về chuyện một con chó con bị vứt bỏ.”
“Nói dối?”
“Vâng, em cãi nhau với thầy giám đốc trại nên bỏ đi.”
“Hóa ra là thế. Vậy cả chuyện em có hẹn với bác Mitsu cũng thế?”
“Em không có hẹn với bác Mitsu nhưng đúng là em định đến gặp bác ấy thật.”
Đó là điều tôi nói thật lòng. Tôi định kể cho bác nghe về nỗi lòng của tôi vì lúc này tôi không có ai để trút bầu tâm sự.
“Thế nghĩa là em đang đi đến chỗ tòa nhà đang xây dựng ở sa