Câu chuyện 1 Chú mèo không cất tiếng kêu
Đó là một chiều tháng Tư, khi những cánh hoa anh đào rụng bay.
Tôi vừa ngắm hàng cây hoa anh đào qua ô cửa sổ vừa hút điếu thuốc lá…
Nói thế nghe cũng như đúng rồi, nhưng thực ra ở đây không phải là thành phố nên căn phòng này cũng chẳng phải là căn phòng của một khu chung cư cao cấp. Đây chỉ là phòng nghỉ của quán Pachinko* ở chốn quê thanh vắng. Quán này cũ kĩ và thật ngạc nhiên là từ trước tới giờ nó chưa từng bị sập tiệm, nó sống sót nhờ có bóng dáng thường xuyên ghé qua của đám khách quen rảnh rỗi thừa thời gian.
⚝ ♪ ⚝
Pachinko là một trò chơi giải trí có thưởng rất phổ biến tại Nhật Bản.
Và một trong số đám khách quen rảnh rang đó đang gọi tôi từ bên ngoài cửa sổ:
“Goroh-chan*, cháu ở đấy phải không? Cô đặt đồ ăn cho Mi ở đây, cháu cho nó ăn hộ cô nhé. Vì giờ chắc Mi đang đi đâu đó mà.” Giọng nói vang tới cả vào tận phòng nghỉ trên tầng hai đó, thật không ngoa chứ tôi nghe gần như là hàng ngày.
⚝ ♪ ⚝
Người Nhật thường thêm chữ “chan” đằng sau tên các bé gái khi gọi. Ở đây nhân vật “tôi” là con trai nhưng được thêm “chan” để thể hiện sự yêu quý.
Người khách nữ quen đó năm nay vừa đón sinh nhật lần thứ sáu mươi, đang mở cửa hàng chuyên bán đồ hợp kim trong vùng, ngày nào cũng tới quán Pachinko này đưa đồ ăn cho chú mèo hoang.
Tôi dập tắt thuốc lá, đi ra phía cô ấy.
“Cô Yumiko… Cháu đã nói bao nhiêu lần là cô đừng mang đồ ăn tới cho mèo hoang rồi?”
“Cháu đừng có nói lạnh lùng như thế chứ. Mà có chuyện này cần hơn, Goroh-chan, cháu cho cô đặt cuốn sổ này ở đây một chút nhé.”
“Cuốn sổ?”
Cô Yumiko, khách quen của quán chưa cần nghe xem câu trả lời của tôi là gì đã đặt luôn khay đựng thức ăn và cuốn sổ lên chiếc ghế băng trước cửa quán rồi đạp xe đi mất. Chiếc xe đạp phải tới hàng mấy năm nay không tra dầu cứ kêu cót két như thể đang than vãn vì phải chịu sức nặng của cô Yumiko.
Tôi ngồi dựa lưng vào ghế băng rồi lại châm lửa hút thuốc.
Nếu là công ty thông thường khác, nhân viên hay hút thuốc trước quán như thế này sẽ bị đuổi việc ngay tắp lự. Nhưng đây lại là một thị trấn nhỏ xíu, kiểu khách và nhân viên có mối quan hệ như thể là họ hàng. Cho tới bây giờ, nếu như chẳng có vị sếp nào nói nọ nói kia về thái độ làm việc của tôi thì cũng chưa có vị khách nào để ý phàn nàn cả… Cùng lắm cũng chỉ tới mức đưa mắt nhìn như thể muốn nói “Gã thanh niên kia lại muốn trốn việc đây!”.
Thế là cũng đã trên dưới ba năm, tôi cứ viện cái cớ là sống thoải mái như vậy để sống ngày qua ngày với việc chẳng phải lo lắng bao giờ. Thế nhưng cho tới tận bây giờ, tôi vẫn chẳng hề muốn làm những việc cứ lặp đi lặp lại như thế.
Tôi vừa nhả đám khói thuốc lá đang ngậm đầy trong miệng vừa lật loạt soạt các trang trong cuốn sổ.
Và rồi tôi thấy trong cuốn sổ toàn là ảnh những chú chó, chú mèo bị bỏ đi đang được cô Yumiko nuôi giữ, và có ghi rất chi tiết quá trình cũng như đặc điểm những chú chó, chú mèo đó đã nhặt ở đâu, như thế nào.
Và còn nữa, đến địa chỉ nhà riêng cũng được ghi rất cẩn thận kèm theo lời nhắn: “Những ai muốn nhận các bé này là thành viên trong gia đình, xin liên lạc theo…”
Tóm lại, chắc cuốn sổ này phải gọi là “Sổ tìm chủ nuôi” mất.
(Cứ làm như nếu làm vậy sẽ đơn giản mà tìm được người muốn nhận nuôi những con vật đã bị bỏ đi chắc… Đúng là thừa hơi, rảnh việc đi làm những cuốn sổ như thế này.)
Đã thế, lại còn tới mức thêm cả trang viết là: “Nếu cần hỏi gì liên quan tới động vật, xin mời cứ thoải mái.”
Cùng lúc tôi đóng cuốn sổ chi tiết, tỉ mỉ tới mức chỉ đọc không thôi cũng đã muốn thở dài ngao ngán đó thì chú mèo Mi, là mèo hoang đó vừa kêu “meo meo” vừa đi sượt qua chân tôi.
“Cậu đã về rồi đó à?”, tôi bật nói luôn chẳng suy nghĩ như thế, vừa thấy có chút xấu hổ vừa đưa khay đựng thức ăn cô Yumiko đặt sẵn cho Mi.
Nhưng, chẳng một ai, ngay cả chính bản thân cô Yumiko cũng chẳng hề hay biết cuốn sổ này sẽ liên quan tới rất nhiều chuyện sắp xảy ra.
Khi tôi quay trở lại làm việc, cả quán đang có gì đó rất ồn ào.
Những đám khách như bình thường là đang ngồi chơi chăm chú cũng thấy đang đứng lố nhố, nhòm nhòm vào khu vực đặt máy đánh bạc. Đúng lúc đó, từ phía mọi người đang đưa mắt nhìn, tôi nghe thấy tiếng gào rất tức tối.
“Tên trộm chết tiệt này! Mày định cướp chỗ xèng của người khác để ăn tiền à, đúng là trò bẩn thỉu.”
Người đang nổi cơn thịnh nộ, quát lên như sấm đó là giám đốc công ty bất động sản, được cho là “người giàu nhất vùng”, tên là Kadokura, mới xấp xỉ năm mươi tuổi.
Người ta đồn rằng ông ta thừa hưởng khối tài sản kếch xù bố mẹ để lại, nhờ vậy mà được gọi là “giám đốc chơi bời”.
Ông Kadokura không cần phải đổ nhiều mồ hôi công sức, hàng ngày cứ ngồi chơi quanh mấy trò Pachinko và máy đánh bạc, nói chung, đây là người “hưởng thụ” hay là “người đàn ông may mắn”.
Ông ta vốn là người sinh ra đã được hưởng thụ khác hẳn với một kẻ sống vô nghĩa như tôi, còn công ty của ông ta đang quản lý mấy mảnh đất và khu chung cư cứ lớn dần lớn dần theo từng năm.
Ngày hôm nay, ông Kadokura may mắn đó lại tiếp tục trúng liên tiếp ở máy đánh bạc, ở dưới ghế có tới mấy hộp đựng xèng xếp chồng lên nhau.
“Khiếp quá, gì thế không biết. Chia cho một hộp thôi cũng được chứ sao mà… Gã giám đốc keo kiệt này…”
Người thanh niên vừa xả những lời lẽ gay gắt hơi “nhầm cửa” vừa trả mà như ném chiếc hộp đựng xèng lấy trộm của ông Kadokura ấy chính là nhân viên bán thời gian xấp xỉ hai mươi tuổi có tên Hiromu. Cậu ấy trẻ hơn tôi tầm năm, sáu tuổi, tốt tính, cũng hay gọi tôi là “Goroh-chan”.
Dạo này cậu ấy học việc ở trung tâm “Gì cũng làm”, nhưng ở cái nơi bé tí tẹo tèo teo thế này thì thường xuyên làm gì có ai thuê điều tra ngoại tình, thế nên ngày nào cũng lê la ở chỗ này, nơi toàn những người thừa thãi thời gian lui tới. Nói thế chứ chắc cạn tiền quá cậu ta mới định ăn cắp xèng của người khác.
Tất nhiên ăn cắp là không tốt nhưng nếu ông Kadokura có tiền tới mức dư thừa thì có chia một hộp xèng cho cũng được vậy mà… Ngay cả tôi, một nhân viên quán cũng nghĩ như vậy.
Không hiểu sao tôi định chỉ lẩm bẩm suy nghĩ đó trong đầu thôi, cuối cùng lại nói buột ra thành tiếng, thế là ông Kadokura vừa lừ mắt quay sang tôi vừa khẽ gắt: “Ê, cậu nhân viên kia. Hình như tên cậu là Goroh hả? Ý cậu vừa nói là gì?”
“Ý là thế nào ư? Không, tôi không có ý gì sâu xa cả…”
“Đừng có cái kiểu nhìn khách với ánh mắt khinh khỉnh như thế nhé!”
“Ấy không, tôi thực sự không hề có ý đó…”
“Cậu cũng thèm tiền hả? Nếu thèm thì cứ nói là thèm đi cho rồi. Vì để cho tôi nghĩ “Nếu là tên này, mình cho tiền cũng được” thì cần bao nhiêu tiền tôi cũng cho. Nhưng một kẻ chỉ đứng trơ ra ở cái quán Pachinko cũ kĩ này mà có tiền thì thế nào cũng tiêu cạn hết là xong đúng không nào? Có lẽ đồng tiền nó cũng chẳng muốn tới chỗ cậu đâu.”
Chắc đúng là hàng ngày tôi chỉ có đứng trơ ra thật. Nhưng tôi không nhớ là mình từng bị người khác nói tới mức như vậy. Đã thế lại còn cái gì mà “đồng tiền không muốn tới chỗ tôi”? Chẳng phải lẽ dĩ nhiên là tiền nó làm gì có cảm xúc chứ.
Tôi lẩm bẩm trong đầu như thế, ấy vậy mà ông Kadokura như đi guốc trong bụng tôi, nhìn chằm chằm vào tôi và khẽ nói như thế này:
“Cậu… đang sống vì cái gì vậy?”
Tôi đã không thể trả lời câu hỏi đó của ông Kadokura, tôi cảm thấy thật tồi tệ khi không thể nói được gì.
Và rồi ông Kadokura quay lưng lại khi tôi đang im lặng, đi về phía Hiromu, nhìn thẳng vào mắt cậu ấy rồi nói.
“Ê, anh chàng “Gì cũng làm”. Tôi sẽ dạy cho cậu một điều này. Chủ ý cho tiền và việc bị ăn trộm tiền bởi ý đồ xấu của người khác là hai việc hoàn toàn khác nhau. Mà nói những điều này với lũ các cậu, người chỉ toàn nghĩ chuyện trước mắt thì cũng vô nghĩa mà thôi.”
Nói xong, ông Kadokura gọi một nhân viên khác cầm những hộp xèng xếp đầy dưới ghế ra quầy thanh toán.
Ngày hôm đó, trên đường đi về, tôi nhớ lại những lời ông Kadokura đã nói.
Chính tôi mới muốn hỏi ông ta rằng: “Ông đang sống vì cái gì?” Chúng ta đâu có chủ động sinh ra trên đời, vậy nên cũng đâu có chuyện muốn chết đi.
Tôi đúng là không tiền cũng không ước mơ, nhưng đâu có nghĩa như thế là tôi đang làm phiền ai đó. Tôi thực sự rất tức khi bị một người xa lạ nói mình như thế. À không, có lẽ đúng hơn là tôi không phải đang tức người dưng, ông Kadokura kia, mà là đang tức chính bản thân mình. Chắc chắn tôi đang tức cuộc đời của chính mình, sống một cách vô nghĩa.
Nói vậy, liệu ông Kadokura có thật lòng ai cần bao nhiêu tiền cũng cho không nhỉ?
Không đâu, người vì chỉ vài cái xèng đã cáu ầm lên như thế thì không thể có khoảnh khắc có thể nghĩ được rằng: “Nếu là tên này, mình cho tiền cũng được.”
Dù ông ta có thật lòng cho đi nữa thì tôi cũng không hề muốn nhận một xu từ một kẻ ngạo mạn như thế.
Chắc hẳn cậu Hiromu định ăn trộm xèng ban nãy cũng có cảm nhận như thế.
•••
Tháng này là tròn ba tháng tôi học việc ở trung tâm “Gì cũng làm”.
Người ta nói phải mất nửa năm thì mới có thể làm một mình được, nhưng nếu quá thời gian trên thì nghe nói lương tháng một triệu yên cũng không phải là giấc mơ. Ở cái nơi bé tí này, tôi hơi nghi ngờ việc có kiếm được một khoản nhiều như thế hay không và nơi đã nhận một người từ trước tới giờ luôn sống buông thả thì chỉ có mỗi chỗ này.
Cũng phải mất thời gian nhưng tôi ước mơ trở thành người được mọi người gọi là “thành đạt”. Và tôi muốn cho người mẹ đã bỏ rơi mình “biết mặt”…
Mẹ của tôi có quan hệ bất chính với người đã có vợ, rồi không chồng mà sinh ra tôi, cuối cùng đã ngược đãi rồi tống tôi vào trại trẻ mồ côi. Hồi tôi hai hay ba tuổi, tôi vẫn nhớ mình đã bị tát một cái rất mạnh, rất đau vào má. Tôi bị rát hơn là đau… Tôi chỉ nhớ mỗi lần đó nhưng chắc chắn việc giơ tay lên là chuyện thường ngày.
Thế nhưng, trong ký ức của tôi còn có một việc tôi không bao giờ quên, còn nhớ hơn cả chuyện bị mắng mỏ kia. Đó là lần duy nhất tôi được ôm. Cảm giác đau rát trên má theo thời gian sẽ nhẹ bớt, ấy vậy mà cảm giác ấm nồng lúc được ôm chặt thì tuyệt nhiên không mất đi.
Tôi không nhớ khuôn mặt của mẹ và cũng không biết tuổi hay tên của bà, nhưng lúc tôi được mẹ ôm, tôi thấy cực kỳ ấm áp, cực kỳ mềm mại, khó tả bằng lời, và rất thơm nữa.
Hình như đó là ngày tôi được đưa vào trại trẻ. Chắc đó là ký ức cuối cùng về mẹ nên vô thức trong đầu tôi không bao giờ có ý định xóa nó đi chăng…
Cho đến lúc học tiểu học, tôi đã thử mơ được ôm thêm một lần nữa, nhưng tự khi nào, chính việc phải cho mẹ “biết mặt” ấy đã thay đổi giấc mơ của tôi. Dù sao thì từ lúc tôi lên ba hoặc bốn tuổi, tôi đã phải tự đi bằng chính đôi chân của mình.
Tôi, một kẻ rất ghét học hành, không hề để trong đầu có ý thức rằng phải học cấp ba và đã rời trại năm mười lăm tuổi. Tôi cũng chẳng cảm thấy có lỗi về việc hết lần này đến lần khác ăn trộm tiền của người khác.
Ở trong trại trẻ mồ côi, có nhiều bạn rất nghiêm túc. Và cũng có những bạn không biết mặt mẹ mình như tôi, nhưng lại siêng học.
Dù sao thì không hẳn là lúc nào tôi cũng đi ăn trộm để sống. Vì thế, tôi muốn làm bất cứ việc gì cũng được để kiếm tiền. Kiếm tiền, tích góp thật nhiều rồi tôi sẽ trở thành người thành đạt.
Nói là vậy nhưng cuối cùng vẫn ngựa quen đường cũ, tôi vẫn lại định ăn trộm xèng của ông giám đốc lúc nào cũng ngồi lù lù ở quán Pachinko. Quả là con người đâu có dễ thay đổi đến vậy…
Nói đến mới nhớ, lão giám đốc đó đã nói: “Chủ ý cho tiền và việc bị ăn trộm tiền bởi ý đồ xấu của người khác là hai việc hoàn toàn khác nhau.” Rốt cuộc ý của câu đó là gì nhỉ? Dù bị ăn cắp hay cho đi thì tiền vẫn sẽ ít đi cơ mà, đâu có khác gì.
Nói thẳng ra ông ta phát biểu là sẽ cho tiền, nhưng liệu có thật không?
Khi tôi đang mải nghĩ chuyện đó thì có điện thoại của ông chủ trung tâm “Gì cũng làm”.
Ông ấy nói có việc giao cho một mình tôi làm.
Được giao công việc một mình mình phụ trách thì tất nhiên tiền công tôi cũng sẽ “độc chiếm”.
Đã sang tháng thứ ba từ lúc học việc, rốt cuộc tôi sẽ được giao cho việc gì đây? Có lẽ cũng không phải là việc gì to tát lắm nhưng tôi bắt đầu có cảm giác mình đã đi bước đầu tiên trên con đường trở thành người thành đạt.
•••
Mấy ngày sau…
Hôm nay, không khí trước quán có gì đó khác mọi khi.
Lúc tôi định ngồi tựa vào chiếc ghế băng vẫn đặt ở cạnh cửa ra vào để nghỉ ngơi, tôi mới nhận ra nó khác so với “mọi khi”. Ở phần mông của chiếc quần đồng phục đen dính nhoe nhoét sơn trắng. Điều gì đó mà tôi thấy khác so với “mọi khi” đó là chiếc ghế băng cũ kĩ đã được sơn lại.
“Phải dán một tờ giấy ghi “Ghế vừa sơn” mới được…”
Đúng lúc tôi định vào phòng thay đồ để thay bộ đồng phục trước khi bị khách quen cười, tôi thấy cuốn “Sổ tìm chủ nuôi” đặt trên cái bàn nhỏ ở khu vực giải lao, ăn uống.
Đó chính là cuốn sổ mấy hôm trước, cô khách quen Yumiko đã để lại.
Tôi thấy trên bìa cuốn sổ có vết tay nhỏ mà tôi nghĩ do bị lem sơn trắng.
Có vẻ như đã có người gặp sự cố giống tôi khi định ngồi lên chiếc ghế kia. Nhưng vết tay đó rõ ràng là của trẻ con. Chẳng lẽ khách quen đưa cả trẻ con tới đây? Gần đây, do quán thắt chặt quy định không cho trẻ con ra vào quán nên tôi chẳng mấy khi thấy chúng…
Trong phút chốc tôi quên luôn việc tới phòng thay đồ để làm gì, cứ thế mở cuốn sổ bị lem vết tay đó ra. Tôi vừa đọc những thông tin đã được bổ sung thêm trong mấy ngày trước vừa lật giở các trang thì phát hiện ra có một dòng chữ rất lạ.
Dòng chữ đó nằm chình ình lọt thỏm ngay giữa trang giấy trắng: “Mèo mấy ngày không ăn thì sẽ chết?”
Hơn nữa, nét chữ nguệch ngoạc như kiểu chỉ mới nhớ mặt các chữ cái.
Có lẽ là đứa bé để lại vết tay trên bìa cuốn sổ đã viết linh tinh vào đây.
Tôi nghĩ dù sao đây cũng là việc chẳng liên quan gì tới mình và đóng cuốn sổ lại, lúc đang định đi về phòng thay đồ thì tôi thấy điện thoại rung trong túi quần.
Tôi lấy điện thoại ra từ chiếc quần vẫn dính sơn trắng ở mông, thấy người gọi là cậu học viên Hiromu ở trung tâm “Gì cũng làm”.
Trước đây, lúc tôi cùng các khách quen tới quán rượu bên cạnh, tôi và Hiromu có cho nhau số điện thoại nên cũng hay gọi tới.
Tôi nhớ ngay tới chuyện mấy hôm trước. Chỉ vì vụ Hiromu ăn trộm xèng của ông Kadokura mà đã có mấy chuyện rắc rối xảy ra theo.
Nhưng nội dung cuộc gọi lại hoàn toàn khác dự đoán của tôi.
“Goroh-chan, cứu em với…”
Giọng nói gần như khóc vừa rồi của Hiromu nghe có vẻ đang sợ hãi như thể bị dính líu vào vụ nào đó. Tôi cứ thế mặc chiếc quần phải gió chưa kịp thay, lao hết tốc lực đến chỗ Hiromu.
Chỗ Hiromu đang bất động vì sợ đó là căn hộ ở khu tập thể xây khoảng ba mươi năm trước, cách quán Pachinko tôi làm việc khoảng năm trăm mét.
Tôi vừa bước vào cửa, Hiromu đang chờ ở phòng 205 nằm phía góc trong cùng trên tầng hai, liền lao từ bên phải vào tôi.
Tôi đã hỏi Hiromu đang run rẩy nói “Goroh-chan, em đợi anh mãi!” một số thông tin.
“Đây là nhà của cậu à?”
Hiromu vừa lắc đầu vừa nói: “Không… Nhà của khách hàng bên em!” Rồi cậu ta chỉ tay về phía tủ, nói tiếp: “Goroh-chan, nhìn trong kia kìa!”
Tôi vỗ vai Hiromu, hỏi đùa “Cậu tìm thấy xác chết ư?”, rồi vừa mồ hôi đổ như tắm vừa chạm tay vào cửa tủ.
Cửa tủ mới gạt cỡ một phần ba thì bị kẹt vì cong vênh do thời tiết nóng bức nhưng tôi đã dồn sức mở bằng hai tay và cánh cửa mở soạt luôn một lèo.
Cửa mở ra được rồi, có một cái xác màu xam xám nằm im lìm.
“Này, Goroh-chan… Đó là mèo… nhỉ?”
Khi tôi soi bằng đèn pin của điện thoại, cái xác đó có vẻ là của một chú mèo khá to, đúng như lời Hiromu nói. Đó là mèo thuộc giống mèo Ba Tư hay sao mà có lông dài màu xám.
Nhưng nó trông không có vẻ gì là còn động đậy, cứ thế nằm co tròn, mắt nhắm nghiền.
“Hiromu… Công việc của cậu có liên quan tới con mèo này à?”
“À, khá là có ấy chứ. Giao chúng cho người chuyên buôn bán, thu gom động vật là công việc của em.”
“Giao lại cho… người buôn bán động vật ư?”
“Đúng thế nếu làm trót lọt thì em sẽ được nhận ba mươi nghìn yên từ người chủ.”
“Những ba mươi nghìn yên? Chỉ việc giao một con mèo vớ vẩn thôi ư? Đã thế còn là một con mèo không biết là đang sống hay chết nữa?”
“Đúng… Hình như là chủ căn hộ này đã chuyển khoản tiền công rồi. Vì thế người ta nói việc còn lại chỉ là cho vào lồng rồi giao lại.”
Hiromu đã bắt đầu hé lộ dần sự thật.
“Nhưng… mèo thì em chịu thôi.”
“Chịu là sao?”
“Em cũng không hiểu vì sao nhưng riêng mèo là em không sờ vào…”
“Thế tại sao cậu lại nhận công việc này?”
“Vì đây là công việc của trung tâm “Gì cũng làm” mà em được giao làm một mình lần đầu tiên nên em đã rất hăng hái. Chà, cuối cùng em nghĩ mình sẽ kiếm tiền tử tế nghiêm túc và có cảm giác đã tiến thêm được một bước. Em là người đã nói là làm, em có cảm giác việc mình nói “Giờ thì bà hãy nhìn đi” sẽ thành hiện thực. Goroh-chan, nếu là anh, liệu anh cũng hiểu tâm trạng đó chứ? Tâm trạng muốn cho mẹ mình “biết mặt” ấy, không biết nếu là anh, anh có hiểu được không?”
Tôi và Hiromu có môi trường sống, lớn lên và tính cách khác nhau nhưng có một điểm chung, đó là quá khứ bị mẹ bỏ rơi.
Vì thế, có lẽ Hiromu và tôi có cảm giác như là anh em hơn là mối quan hệ giữa “khách hàng thường xuyên và nhân viên”. Do vậy, dù bị cậu ta, một người kém tuổi, gọi là “Goroh-chan”, tôi cũng không thấy tự ái.
Đúng lúc tôi hồi tưởng lại những ký ức hồi còn bé, Hiromu đặt chiếc lồng ngay trước mặt tôi.
“Goroh-chan, anh đang nuôi một con mèo hoang ở ngay trước quán nhỉ? Nên anh có thể sờ vào mèo đúng không? Anh lấy nó từ trong tủ ra hộ em đi.”
“!?”
“Em nài nỉ đó, Goroh-chan. Anh cứ nghĩ là đang giúp người đi… À không, nghĩ là giúp mèo đi, là việc sống còn đối với em đó.”
Rồi Hiromu chắp tay vái tôi như thể đang cầu xin thần thánh vậy.
Lại một lần nữa tôi đưa mắt nhìn quanh căn phòng, không thấy có vật gì bất thường cả. Trên đồ đạc và tivi dán đầy những tờ giấy tịch thu, rõ ràng chẳng có cảm giác đang có người ở.
“Hiromu, lẽ nào chỗ này… Người ở đây đã lén chuyển đi vào ban đêm?”
“À, em nghe ông chủ nói thế.”
“Để mèo ở lại rồi đi thẳng, không hiểu là dạng gì nữa. Hơn nữa lại còn trong tình trạng này… Bỏ nó lại cứ thế đi như thế này cũng chẳng phải mới một ngày hay hai ngày đâu.”
“…”
“Vậy mèo cũng coi như “đồ vật” luôn nhỉ…”
Dù không phải là người có thể nói những chuyện vĩ đại nhưng tôi cũng không muốn trở thành loại người bình thản bỏ lại một con mèo nằm co ro trong ngăn tủ chật chội. Tôi định nếu con mèo đã chết rồi thì chí ít mình cũng phải chôn nó xuống đất nên tôi đã lấy hết can đảm thò tay vào ngăn tủ rón rén bế con mèo lên.
“Vẫn còn âm ấm…”
Con mèo có lông dài nên trông thì to nhưng bế lên thì nhẹ bẫng, vì gần như là nó đã không ăn gì, chắc chỉ tầm hai cân hoặc kém hơn.
Con mèo gầy gò đó khi được ôm vào lòng tôi đã từ từ mở mắt.
Mắt nó vừa hơi nhíu nhíu như thể bị chói vừa từ trong lòng tôi ngước lên nhìn chằm chằm vào mặt tôi.
“Goroh-chan… Con mèo đó còn sống?”
“Ừ, còn sống… Nó vẫn còn sống.”
Cũng có thể nói thật may vì giờ không phải là giữa mùa đông, không biết tình trạng không ăn không uống này đã kéo dài mấy ngày rồi.
Hiromu vốn sợ mèo cũng run rẩy lại gần, nhòm vào mặt con mèo.
“Con mèo này có khuôn mặt yêu ghê.”
“Ừ, công nhận. Hiromu, cậu thử vuốt nó xem.”
“Nó không cào chứ?”
“Nó yếu xìu thế này, liệu có đủ sức cào cậu không?”
Hiromu rón rén xoa vào khuôn mặt xám xám bông bông của chú mèo.
“Mềm thật đấy…”
Và cứ thế nhẹ nhàng vuốt đi vuốt lại. Rồi Hiromu đã phát hiện ra một việc.
“Con mèo này không kêu gì cả nhỉ. Bình thường chúng nó cứ “meo meo” khi được vuốt lông cơ mà?”
Nói tôi mới để ý, có lẽ đúng là vậy. Cả Mi, con mèo hoang ở trước cửa quán cũng thế, cứ lúc nào được cô Yumiko vuốt là kêu rất ngọt. Còn con mèo này, lúc được bế lên khỏi ngăn tủ cũng chẳng có vẻ gì là mở miệng cả.
“Hay là nó đói nên không kêu được…” Hiromu nói.
Có lẽ là vậy. Có thể kêu nhiều bị mệt nên giờ bị khàn giọng, mất tiếng rồi cũng nên.
Không phải, con mèo này có không thể kêu nổi đi nữa thì cũng không hẳn là không kêu…
Nó đã ngừng kêu.
Hay là ngày này sang ngày khác, nó cứ chờ người chủ đã bỏ mình mà đi và tự khi nào đó nó đã biết “sự thật là đã bị bỏ rơi” chăng?
Ngày nào cũng chờ đợi trong sự tuyệt vọng nên nó đã nằm lả đi trong ngăn tủ, chỉ còn cách chờ chết mà thôi.
Tôi lại nhớ tới cảm giác gần giống với con mèo này. Chắc chắn con mèo này cũng đang mong chờ vòng tay ấm áp của người chủ giống như tôi hồi bé, ngày nào cũng như ngày nào, tin rằng mẹ tôi nhất định sẽ về sau khi đã rời bỏ bố con tôi.
Rồi trong góc căn bếp khá lộn xộn, Hiromu đã nhìn thấy một lon thức ăn dành cho mèo vứt lăn lóc. Chúng tôi liền mở cái lon ra, lấy hết thức ăn còn sót lại một tí tẹo ở đáy lon, để ra sàn cho nó dễ ăn. Con mèo xám dù đang rất yếu cũng bắt đầu ăn từng chút từng chút một.
Nhìn cảnh đó, bất chợt tôi đặt ra câu hỏi. Không biết người chuyên thu gom động vật đến lấy nó có thực sự cần một con mèo yếu ớt thế này không? Mục đích sau khi thu gom là gì nhỉ?
Lúc nghĩ tới chuyện đó, tôi đã nhớ ra một việc.
“Mèo mấy ngày không ăn thì sẽ chết?”
Câu hỏi lạ kỳ được viết trong cuốn sổ cô Yumiko để lại đó có lẽ cũng đang nói về một con mèo bị bỏ rơi ở đâu đó. Không, có khi nào…
“Goroh-chan, sao thế?”
“Hiromu, người đã lén chuyển đi vào ban đêm có con không?”
“À… Trung tâm của em không giúp chuyển lén đồ ban đêm nên em không hỏi cụ thể lắm.”
Tôi lại nhìn toàn bộ căn phòng một lần nữa. Nếu người từng sống ở đây cùng trẻ con thì không phải là không có khả năng chính đứa trẻ đó đã viết vào cuốn sổ.
Đứa bé đó đã lo chú mèo bị bỏ lại vì điều kiện của bố mẹ không cho phép có sống được hay không. Có khi đứa bé đó cũng đã nhìn thấy dòng chữ “Nếu cần hỏi gì liên quan tới động vật, xin mời cứ thoải mái” mà cô Yumiko nhắn nhủ nên nghĩ là nếu viết vào đó thì con mèo sẽ được cứu cũng nên…Tôi nhìn hết một lượt toàn bộ căn phòng nhưng gần như là không còn đồ nào cả. Chỉ có những đồ dùng to cồng kềnh như tivi, tủ, những món đồ cho là không thể chuyển hết đi được và mấy cái thùng rác…
Nhưng, tôi đã tìm thấy một mẩu giấy bị gấp lại vứt trong thùng rác, tôi lấy tờ giấy đó ra.
“Đây là…”
Khi mở tờ giấy đó ra, tôi thấy một bức tranh vẽ con mèo bị bỏ lại.
Tôi đoán đó là nét vẽ của trẻ con nhưng con mèo trong bức tranh được vẽ khá chi tiết các đặc điểm như lông dài, màu xám bông xù, phần cằm có khoảng lông trắng.
Ở chỗ như ô hội thoại trong truyện tranh có ghi “meo” nên tôi hiểu rằng ít ra thì một thời gian ngắn trước thôi con mèo này vẫn kêu như những con mèo khác.
Với lại, trong bức tranh, con mèo có đeo vòng cổ, và trên chiếc vòng đó có ghi chữ “Light”. Chắc chắn đó là tên của con mèo này. Tôi không biết lúc nó bị bỏ lại, chiếc vòng đã bị tháo hay bị lấy mất nhưng dù sao thì đứa bé từng sống ở đây đã rất yêu thương con mèo này.
“Hiromu, chờ anh một chút nhé!”
“Ơ? Goroh-chan đi đâu thế?”
“Anh sẽ quay lại ngay nên người thu gom đến thì đừng có đưa con mèo này đấy!”
Tôi định đi xem lại cuốn sổ, tranh thủ lúc con mèo đang ăn.
Có khi lại được biết thêm thông tin nào đó, và cũng có khi đứa bé đó vẫn ở gần đây cũng nên. Bởi vì chắc chắn đứa bé đó sẽ quay lại vì lo không biết con mèo còn sống hay không. Trong đầu tôi hiện ra hình ảnh lúc tôi vừa vuốt Mi vừa đi ngang qua trước cửa quán Pachinko thì thấy cuốn sổ kia và đọc thấy dòng tin nhắn như kiểu SOS…
Thế là tôi quên bẵng luôn chiếc quần bị dính đầy sơn trắng ở mông, tức tốc dồn hết sức chạy thật nhanh về quán.
•••
Từ lúc lén chuyển đi vào ban đêm tới nay đã hai tuần trôi qua.
Thông qua người khách ở snack-bar, nơi tôi từng làm việc, tôi đã nhờ được người chuyên phụ trách ở con đường đó nên đã giải quyết suôn sẻ từ bước quyết định chuyển nhà cho tới khi đến chỗ ở mới, cuộc đời hai mẹ con tôi quay trở lại điểm xuất phát. Tôi biết là tất nhiên, xuất phát lại từ đầu bằng cách này thì cũng không hay ho cho lắm… Nhưng, một người bảo lãnh liên đới như tôi lại bị bạn phản bội và vì thế mà phải gánh khoản nợ dù có làm cả đời cũng không trả hết, tôi đã từng nghĩ tới việc tự tử cùng con trai mình.
Những lúc như thế, người khách mà tôi hay trao đổi đã nói với tôi câu này: “Trước khi vứt bỏ cả tính mạng của mình, hãy vứt bỏ quá khứ đã xem thế nào.” Người đó lại còn giới thiệu cho tôi người hỗ trợ chuyển lén đồ ban đêm.
Tôi có cảm giác đã nhìn thấy tia hy vọng, dù chỉ là một chút xíu, lòng xốn xang.
Vậy là vẫn được sống rồi… Từ giờ, tôi lại có thể sống cùng với con trai mình.
Người bạn mà tôi bảo lãnh liên đới kia không chỉ dừng ở chuyện lừa đảo tôi tiền nong, mà còn cướp luôn cả chồng của tôi. Tôi không hề có một chút nghi ngờ chồng và bạn mình lại thành ra như thế, chỉ nghĩ đơn giản là giúp bạn. Tất nhiên, có lẽ khi tôi trở thành người bảo lãnh liên đới thì họ vẫn chưa có quan hệ đó, nhưng ngay trước khi hai người đó biến mất, người ở công ty tài chính đã nói tiền nợ lại được bổ sung thêm năm triệu yên. Có lẽ để xây dựng cuộc sống mới, cả hai đã vội vàng vay thêm tiền rồi để lại khoản nợ lớn đó cho tôi và chuồn mất.
Với một hiện tại như địa ngục, vừa tiếp tục trả nợ vừa đơn thân nuôi con trai, tôi đã hoàn toàn không thể tìm nổi “ý nghĩa của việc sống trên đời”.
Hai tháng kể từ lúc chồng và bạn tôi biến mất, áp lực trả nợ càng gắt gao hơn, chỉ đi làm ban ngày không thôi thì không thể xoay xở kịp trả được nên tôi bắt đầu làm thêm ở quán snack-bar trong mấy tiếng lúc con trai ngủ.
Nói vậy chứ chỉ lo trả phần tiền lãi thôi tôi liên tục làm ngày làm đêm, và tôi đã thực sự nghĩ tới cái chết.
Chính vì thế, lời người khách hàng đã nói “Trước khi vứt bỏ cả tính mạng mình đi, hãy vứt bỏ quá khứ đã xem thế nào?” đã vang vọng tới tận sâu thẳm trái tim tôi. Đúng, vứt đi là xong… Tôi sẽ trở thành một con người mới, cùng con trai tôi, hai mẹ con cùng sống với nhau là được.
Chỉ có điều ở chỗ ở mới, người ta nói tuyệt đối không được đem theo vật nuôi, nên tôi đã rất khổ tâm khi phải bỏ “Light” lại, nhưng để bảo vệ con trai, tôi không còn cách nào khác, tôi đã tháo chiếc vòng cổ rồi để nó ở lại.
Tôi nghĩ là nó chắc chắn sẽ tìm được chủ nuôi mới dù có đi ra ngoài sống.
Vì khuôn mặt nó rất đáng yêu, tính cách cũng hiền lành, lại là giống mèo Ba Tư thuần chủng nữa… Thế nhưng khi đó nếu nó vẫn đeo vòng cổ thì có lẽ người ta sẽ tưởng là mèo đã có chủ nuôi, sẽ không mang về nuôi nữa nên tôi đã lấy chiếc vòng và chào tạm biệt nó.
Ngẫm lại tôi mới thấy mình chỉ thích phô trương.
Tôi từng nghĩ rằng dù là mèo hay phụ kiện thì cũng phải chọn “đồ hiệu”. Chồng tôi vốn là lao công trong một tòa nhà nhỏ, còn tôi làm việc bán thời gian ở siêu thị, lương của cả hai chỉ đủ thuê một căn hộ chật hẹp, nhưng để con tôi không bị bạn bè chế giễu vì có cuộc sống như thế, tôi đã che giấu sự tự ti bằng việc đắp lên người toàn hàng hiệu, loại sang nhất.
Khi đi dự giờ lớp của con, tôi mặc bộ đồ công sở cao cấp, chụp ảnh mèo nhưng không chụp cảnh đằng sau nó rồi mới đăng lên blog. Tôi đã cố gắng tới mức này mà chồng tôi vẫn phản bội tôi… Tôi sẽ không bao giờ tha thứ.
Nhưng nếu tôi không phô trương và có tiền thật, có lẽ tôi sẽ không nghĩ như thế này và mọi việc đã ổn. Tôi cũng sẽ không bị chồng và bạn phản bội, cũng không phải làm cho con trai tôi đau lòng…
Khi tôi vừa nghĩ như vậy vừa chuẩn bị tới chỗ làm mới, có điện thoại từ người đã giúp tôi chuyển đồ vào ban đêm. Là chuyện có người muốn mua con mèo thuần chủng với giá cao.
Vì từ đó tới nay đã hai tuần trôi qua nên tôi không biết là con mèo còn sống hay không. Nếu nó vẫn còn sống trong căn phòng đó thì tôi cũng muốn đổi nó lấy tiền. Dù chỉ một yên cũng được vì tôi đang rất cần tiền.
Theo lời người giúp tôi chuyển đồ, người muốn lấy con mèo sẽ trả tới hai trăm nghìn yên. Tôi nghĩ là còn đắt hơn mua ở cửa hàng chuyên bán vật nuôi, nhưng chịu, tôi sao hiểu được người có tiền suy nghĩ như thế nào.
Tôi nhanh chóng nhờ người ở trung tâm “Gì cũng làm” đến căn hộ tôi từng ở để lấy lại con mèo. Vì đã trót cầm luôn tiền mặt là hai trăm nghìn yên nên tôi cầu mong hơn bao giờ hết là nó vẫn còn sống. Với cả, người giúp tôi chuyển đồ đã khuyên tôi lấy số tiền bán mèo đó đi đặt cọc để mua một chiếc ô tô.
Nên có một chiếc ô tô để đề phòng trường hợp tôi bị phát hiện đang nợ nần thì có thể bỏ trốn bất cứ lúc nào. Chiều hôm nay, tôi được một người cũng có những điều “tế nhị” như mình giới thiệu tới một công ty bán xe đã qua sử dụng có chính sách linh hoạt.
Tôi đang tái sinh. Để tốt nghiệp cuộc đời của một con người khốn khổ vì tiền, giờ tôi sẽ không tin vào tình yêu hay tình bạn gì hết.
Chỉ cần có tiền là tôi cũng sẽ không làm cho con trai tôi cảm thấy đau khổ nữa.
Vì chỉ có tiền mới là thứ đem lại hạnh phúc cho hai mẹ con tôi…
•••
Chú mèo có tên Light ở trong ngăn tủ chắc chắn đã rất được yêu chiều.
Nhìn bức tranh đó có lẽ là của người không có khiếu vẽ tranh nhưng vẫn truyền đạt được suy nghĩ đó.
Nói về chuyện đưa con mèo cho người chuyên buôn bán, thu gom động vật. Liệu đó có phải là người như kiểu chuyên chăm sóc, nuôi dưỡng các con vật thuần chủng hay không thì tôi không biết, nhưng dù gì chăng nữa tôi vẫn sẽ thông báo rằng con mèo vẫn còn sống cho đứa bé đã viết vào cuốn sổ dòng chữ: “Mèo mấy ngày không ăn thì sẽ chết?”…
Giờ vẫn còn kịp. Nếu con mèo bị bỏ mặc như thế mà chết thì đứa bé chắc sẽ ân hận cả đời. Có lẽ là hơi cường điệu một chút nhưng vết thương lòng một khi đã có sẽ không dễ dàng biến mất. Huống chi là vết thương khi đã vứt bỏ một sinh vật, chắc có lẽ tuyệt đối không bao giờ lành cả.
Tới giờ tôi đã sống với nỗi hối hận không thể xóa nhòa từ hồi nhỏ. Đời người sống mà cứ ôm sự hối hận thì cứ như liên tục bơi dưới đáy của đại dương mang tên “nỗi buồn”, trước mặt tối tăm và nghẹt thở.
Tôi không biết gia đình đã sống ở căn hộ đó vì cớ gì mà bỏ lại chú mèo nhưng chí ít tôi vẫn muốn thông báo rằng: Con mèo vẫn sống. À không, tôi “phải thông báo” mới đúng. Tôi đã bị đẩy tới mối xúc cảm như thế.
Khi tới quán Pachinko nơi tôi làm việc, cuốn sổ vẫn được đặt trên chiếc bàn tròn ở khu vực giải lao, ăn uống.
Dạo này, những khách hàng quen đã dần có thói quen tranh thủ giết thời gian lúc hút thuốc đã đọc cuốn sổ. Nói vậy chứ tôi chưa nghe thấy có ai nhận nuôi con nào cả.
Tôi mở cuốn sổ, viết câu trả lời vào bên cạnh dòng chữ “Mèo mấy ngày không ăn thì sẽ chết?” là:
“Light vẫn còn sống! Nếu nó chết là sẽ không bao giờ gặp được nữa. Hãy liên lạc theo số 080-XXXX-XXXX.”
Khi đó, cô Yumiko đang chơi Pachinko như mọi lần đã chú ý tới tôi.
“Này, Goroh-chan, cháu không được viết linh tinh vào đó! Vì đối với mấy con vật, đó là cuốn sổ sống còn đấy.”
“Cháu hiểu rồi, không phải là như cô nghĩ đâu…”
“Nếu vậy thì được, dạo gần đây có người cứ chăm chăm đi thu lượm mèo một cách vô tội vạ… Cô thấy lăn tăn quá…”
“Sao lại lăn tăn vậy?”
“Sau khi lấy chúng, họ đã làm những việc thật tàn nhẫn, quay video những hình ảnh đó bán với giá cao. Vì các cửa hàng chuyên bán vật nuôi đã quá nhẵn mặt nên lúc thì họ thu lượm những con mèo bị bỏ đi, lúc lại thu mua từ những người bình thường. Đặc biệt, những con mèo thuần chủng là khó có thể có nên họ mua với giá rất cao, bất chấp thể trạng con mèo đó thế nào. Cô đã làm cuốn sổ này rất cẩn thận để chúng không bị rơi vào tay những người như thế.”
“Mua với giá rất cao, bất chấp thể trạng con mèo đó thế nào ư?”
“Cô Yumiko này, cô có biết tên của người đó là gì không?”
“Cô không biết là tên thật hay tên giả nhưng cô đã từng nghe ông chủ cửa hàng chuyên bán vật nuôi nói là có lần, một người tên Yoshizawa đã gọi điện tới, nghe rất khả nghi.”
Tôi gọi điện ngay cho Hiromu, xác nhận tên của người đã hứa lấy con mèo.
Và rồi, đúng như tôi linh cảm thấy điều không hay. Cái tên Yoshizawa và tên người đã hứa với Hiromu là một. Tuy nhiên, người đó vẫn chưa đến lấy. Tôi đã giải thích qua sự việc và dặn kĩ càng Hiromu không được đưa con mèo cho hắn.
Sau đó, tôi gấp cuốn sổ lại, nhanh chóng quay trở lại căn hộ.
Khi tới căn hộ nơi Hiromu đang chờ, có một chiếc xe tải nhỏ vừa chạy vụt đi.
Tôi lên cầu thang, vào trong căn hộ, chỉ thấy mỗi lon thức ăn vứt chỏng chơ, không thấy bóng dáng Light đâu cả.
“Hiromu, cậu…”
“Không phải, vì khi em hỏi lý do sao lại lấy, thì họ đã nói là sẽ đưa cho người muốn nuôi thật nên sẽ nâng niu nó cẩn thận. Em thấy trông có vẻ là người tốt này, lại không hề ghét mèo nữa này, nên…”
“Nó yếu như thế, thử hỏi còn sức nào kháng cự chứ hả?”
“Với cả họ nói đã trả tiền cho chủ của con mèo đó nên nếu không trả lại tiền thì cũng không thể trả lại con mèo được.”
“Thế họ đã trả bao nhiêu tiền?”
“Họ nói là hai trăm nghìn yên.”
“Hả? Một con mèo yếu ớt lại được trả những hai trăm nghìn yên lận? Không biết họ nghĩ thế nào nữa, hơi nghi ngờ đấy.”
“Vậy à. Em nghĩ anh nghĩ hơi quá.”
“…”
“Với lại, công việc của em đã hoàn thành rất suôn sẻ, cả con mèo chắc chắn cũng không vấn đề gì.”
““Chắc chắn” nghĩa là sao?”
“Ừ thì… Mà Goroh-chan à, em không muốn bị mất lòng tin. Em được ông chủ tin tưởng, nếu em tự ý bỏ công việc em đã nhận làm thì có lẽ em sẽ không bao giờ được giao việc nào nữa.”
“Cậu muốn làm cả những việc như thế chỉ vì kiếm tiền ư? Cậu muốn làm gì với số tiền đã kiếm được nhờ việc bán động vật cho một tên lái buôn bất chính?”
“Em đơn giản chỉ là… muốn trở thành người thành đạt như em vẫn thường hay nói đó. Nếu em nhớ cách kiếm tiền, em sẽ tự mình thành lập công ty rồi kiếm một khoản tiền lớn. Hôm nay là bước đầu tiên của việc đó đấy. Người lái buôn ban nãy có nhắn lại với em rằng nếu có vụ nào nữa thì sẽ cùng nhau làm rồi đưa danh thiếp cho em.”
“Hiromu, theo cậu, “thành công” nghĩa là gì? Kiếm ra tiền là thành công ư? Cậu định nói là để cho người mẹ đã bỏ rơi mình “biết mặt” thì kiếm tiền bất kể cách nào đi nữa cũng được hay sao? Như thế này khác nào cũng bằng hòa với hồi còn đi ăn trộm?”
“Em không biết Goroh-chan là người nói những chuyện “trong sạch” như vậy đấy. Dù gì cũng chỉ là một con mèo sắp chết đói thôi mà. Nếu là người không biết là đang sống hay đang chết thì cho dù là lái buôn bất chính, cứ để họ lấy vẫn hơn chứ.”
“Thôi đi, thế là đủ rồi… Nếu cậu nghĩ như thế, tức là cứ việc gì miễn phù hợp, thuận tiện cho mình là được đúng không?”
Tôi đã quen Hiromu ba năm nhưng đây là lần đầu tiên tôi tranh luận gay gắt như thế này.
Tôi không hẳn là người cuồng mèo và cũng không hẳn là có sở thích về các hoạt động bảo vệ chúng như cô Yumiko. Tôi chỉ đơn thuần nghĩ là việc giả vờ không nhìn thấy trao đi một sinh mệnh mà mình biết rõ là đang gặp nạn sẽ làm tôi phải có thêm một việc nữa phải hối hận.
Đúng lúc đó, tiếng chuông điện thoại cắt ngang cuộc tranh luận giữa tôi và Hiromu.
Tôi rút điện thoại ra và thấy là số từ bốt điện thoại công cộng.
“Vâng, a lô.”
“…”
“Alô?”
“Dạ…”
“Ai vậy?”
“Anh nói là Light vẫn còn sống… Có thật không ạ?”
“!”
Cậu bé đang nói chuyện điện thoại tự giới thiệu tên là Yuhto, đang ở công viên cách căn hộ chỉ tầm ba phút đi bộ.
Hiromu nói là sẽ quay về văn phòng nhưng tôi muốn cậu ta biết đang có người rất buồn do những gì cậu ấy đã làm, nên tôi đã để cậu ấy đi cùng tôi tới công viên.
Công viên không hẳn là rộng lắm, thế mà chẳng thấy bóng dáng nào giống như mô tả cả.
“Goroh-chan, chắc là chúng ta bị trêu rồi anh nhỉ?”
Tôi gọi để ngăn Hiromu đang định đi về phía cổng ra, rồi nhìn quanh công viên một lần nữa.
Vừa lúc có một cậu bé tầm lớp Ba bước ra từ cửa nhà vệ sinh của công viên. Trên bàn tay nhỏ xinh đang vẫy chúng tôi “Đây ạ, đây ạ!” có dính toàn sơn trắng.
Tôi càng khẳng định được vết tay dính trên bìa cuốn sổ chính là của cậu bé này.
“Em là… Yuhto phải không? Sao em lại ở chỗ đó?”
Tôi vừa tiến đến nhà vệ sinh vừa hỏi.
Yuhto lí nhí trả lời:
“Em trốn ạ. Mẹ em dặn không được lảng vảng ở gần căn hộ cũ nên…”
Kể cũng đúng, lỡ gặp chủ căn hộ hoặc tên đòi nợ thì việc lén chuyển đi vào ban đêm coi như công cốc.
“Nhà em chuyển đi được bao lâu rồi?”
“Khoảng hai tuần trước… Thế đúng là Light không sao phải không anh? Nó vẫn ở căn phòng đó chứ ạ?”
“Không… Nó…”
“Lẽ nào nó đã bị bán?”
“Yuhto à, em biết chuyện đó ư?”
“Vì hôm qua mẹ em nói chuyện với ai đó qua điện thoại về việc bán Light… Nhưng, em nghe thấy mẹ nói là không biết nó còn sống hay đã chết và em rất muốn gặp lại nó. Em vẫn rất buồn khi không hiểu vì sao lại bỏ Light ở đó…”
Theo như lời Yuhto kể, chỗ cậu bé hiện đang ở là khu biệt thự cách đây tầm một tiếng đồng hồ ngồi xe buýt. Sau khi lau dọn một biệt thự cũ đã bỏ hoang, gia đình cậu bé chuyển vào ở với đồ đạc tối giản nhất. Trong lúc nói về cuộc sống mới ở nơi không xa so với tưởng tượng, Yuhto bắt đầu thổ lộ những tâm sự về Light.
“Em rất muốn có em nhưng vì mẹ bảo giờ có lẽ là không thể được nữa rồi nên sẽ mua cho em một con vật nuôi. Con gì cũng được, không phải là loại đắt tiền cũng được nhưng mẹ nói “Nếu đã nuôi thì phải nuôi loại thuần chủng hẳn hoi”, thế là hai mẹ con em cùng tới cửa hàng chuyên bán vật nuôi. Ở đó, em thấy Light, vừa mới được sinh xong, đó là lần đầu tiên em ôm một con mèo, nó bắt đầu rên “gừ rừ” trong tay em… Thế là em quyết định bé miu này sẽ là em trai của em.”
Mắt của Yuhto chan chứa nước mắt khi thổn thức nói về những kỷ niệm.
“Ngày nào nó cũng ngủ với em… Suốt từ lúc em vào tiểu học. Vì tháng này, Light tròn ba tuổi nên mẹ đã nói là định tổ chức sinh nhật, ấy thế mà… thế mà mẹ nỡ bỏ nó lại… Em đúng là xấu xa nhưng bán nó đi thì thật tàn nhẫn! Chắc chắn đến một lúc nào đó, mẹ sẽ bán em đi luôn! Nếu ra nông nỗi này thì thà em cũng ở lại căn hộ đó còn hơn. Em ở lại cùng Light thì tốt hơn…”
Bên cạnh Yuhto đang vừa khóc giàn giụa thành giọt lớn vừa nói về nỗi buồn vô cùng tận vì hối hận đã bỏ lại chú mèo coi như em của mình và giờ có lẽ sẽ không bao giờ gặp lại nữa, Hiromu cũng nước mắt ròng ròng không kém.
Tôi định bụng sẽ phải cứu bằng được Light.
“Hiromu, ban nãy cậu nói đã nhận danh thiếp từ người buôn mèo nhỉ?”
“À…”
Hiromu nghẹn ngào trả lời rồi lấy tấm danh thiếp trong túi quần ra.
“Yuhto, có lẽ sẽ lấy lại được Light nếu trả lại tiền đã bán Light em ạ.”
“Thật không ạ? À, nhưng…”
“Sao vậy?”
“Em đoán mẹ đã tiêu số tiền đó rồi.”
“Cái gì? Tiêu luôn cả hai trăm nghìn yên… Rốt cuộc là cho việc gì vậy?”
“Vì ban nãy mẹ em nói là đi ra cửa hàng ô tô nên trong lúc mẹ đi vắng, em đã lén ra khỏi nhà để tới đây.”
Tôi và Hiromu cùng nhìn nhau, tính xem còn cách nào khác không.
Tôi cho rằng nếu đi tay không thì họ sẽ không trả lại con mèo.
Phải chuẩn bị một khoản tiền dù chỉ là hình thức…
Nhưng, chúng tôi không thể chuẩn bị được khoản tiền tận hai trăm nghìn yên. Tuy nhiên cũng không còn thời gian nữa.
Có lẽ trong những lúc như thế này đều xảy ra tình trạng không buồn tưởng tượng ra được điều gì nữa.
Đúng lúc chúng tôi đang cúi đầu, cảm thấy bất lực, Hiromu đã ngẩng mặt lên đầy mạnh mẽ.
“Nhờ ông ấy… chính ông ấy.”
Nói vậy, Hiromu nắm chặt bàn tay dính sơn của Yuhto, tức tốc chạy đi.
Và điểm đến chính là quán Pachinko nơi tôi đang làm.
Khi vẫn kéo tay Yuhto nguyên như thế bước vào bên trong quán, giữa chừng bị chủ quán nhắc nhở: “Không được dẫn trẻ con vào!” Hiromu vẫn xông vào khu vực máy đánh bạc.
“Không lẽ cậu định kiếm tiền bằng việc đánh bạc ư?” Khi tôi hỏi như thế từ đằng sau lưng, cậu ấy vẫn hướng mặt phía trước, nói “Em đâu có điên như thế!” rồi dừng lại chỗ ông Kadokura đang ngồi.
“Gì đây, lại là chàng trai của trung tâm “Gì cũng làm” à? Cậu tới để ăn trộm xèng tiếp à?”
“Không phải, ông nhầm rồi. Hôm nay tôi không tới để ăn trộm mà tới để vay tiền.”
Hiromu bình thường lúc nào cũng cười đùa vô tư, ấy vậy mà giờ lại nói với vẻ mặt rất nghiêm túc.
“Cậu nghèo quá rồi đầu óc mới không bình thường chăng?”
“Ông nói gì tôi cũng được.” Nói vậy, Hiromu quỳ xuống, hướng về ông Kadokura rồi cúi gập người xuống đất.
“Ông giám đốc, xin hãy cho tôi vay hai trăm nghìn yên.”
“Cái gì? Cậu vừa nói gì? Mà, cậu bé kia là con của cậu?”
“Ấy không, không phải…”
“Cậu lôi trẻ con vào để vay tiền, đến mức này nữa sao? Cậu đã đánh mất mình đến thế sao?”
Nói thế xong, ông Kadokura lại quay về phía máy đánh bạc, tiếp tục chơi. Tôi mẩm tính sẽ nói luôn câu trả lời hôm trước ông Kadokura hỏi mình.
“Ông Kadokura, ông đã hỏi tôi “Cậu đang sống vì cái gì” đúng không?”
“…”
“Tôi đúng là không ra gì nhưng… Không ra gì thì suy nghĩ theo kiểu của một kẻ không ra gì, và tôi đã tìm ra câu trả lời. Tôi đang sống vì cái gì ư? Chắc chắn là để đi tìm cái gọi là “đang sống vì cái gì” đó, giờ tôi vẫn đang sống đấy thôi.”
“!”
“Và chuyện là, có một sinh mệnh cần được cứu giúp bằng việc tôi đang sống. Nếu có hai trăm nghìn yên, sẽ có một sinh mệnh chắc chắn được cứu. Tôi không muốn mình hối hận đã không cứu được nó chỉ vì không có tiền… Chính vì thế, ông Kadokura, tôi xin ông, hãy cho tôi vay hai trăm nghìn yên.”
Ông Kadokura ngừng chơi máy đánh bạc, từ từ quay lại nói:
“Nếu có hai trăm nghìn yên thì có thể cứu được ư?”
Tôi và Hiromu vừa ngước lên nhìn ông Kadokura vừa gật đầu rõ mạnh.
“Các cậu hâm thật. Các cậu đã quên chuyện tôi đã nói đợt gần đây rồi sao?”
“…”
“Tôi đâu có nói câu nào là sẽ cho vay. Tôi nói là cho đấy chứ.”
Ông Kadokura đứng lên, lấy cái túi ở ngăn đựng phía trên máy đánh bạc, rút từ trong chiếc ví dày cộm ra đúng hai mươi tờ mười nghìn yên đưa cho chúng tôi.
“Được chưa? Và các cậu hãy nhớ điều này. Nếu các cậu có thể làm cho số tiền này phát huy được đúng chức năng thì tiền sẽ tự nhiên quay trở lại. Còn tiền bị lấy cắp, biến mất thì tiêu đi là hết, kết thúc. Nhưng, tiền mà đã có thể được phát huy chức năng thì sẽ không hề biến mất mà lại quay trở về.”
“Tiền… sẽ quay trở về…?”
Hiromu nhìn ông Kadokura với ánh mắt như thể đang thắc mắc với giáo viên vậy.
“Đúng thế chẳng phải người ta hay nói thương con thì hãy để cho con đi du lịch sao? Khi để cho con đi du lịch, những đứa trẻ sẽ trưởng thành và quay trở về. Tiền cũng vậy, nếu để cho đồng tiền ta đã nâng niu, gìn giữ, “nuôi nấng” đi “du lịch” thì sau khi nó “trưởng thành”, nó sẽ quay trở về với ta. Làm ăn, buôn bán cũng giống như việc “nuôi nấng” đồng tiền mà thôi. Số tiền tôi đưa cho các cậu không phải để buôn bán nhưng cũng không phải là tiền bị lấy cắp mà biến mất. Chắc chắn nó sẽ phát huy tác dụng ở chỗ nào đó. Chà, tôi cũng không biết nó có quay trở lại lúc tôi còn sống không, nhưng chí ít để cho nó đi du lịch một vòng cũng tốt.”
Ông Kadokura nói với ánh mắt đầy uy quyền, toát lên đúng khí chất của một “giám đốc”.
Bản chất thật của con người này không phải là “giám đốc chơi bời” như mọi người vẫn hay nói…
Ta tự chọn con đường sống của chính mình và bước đi vững chãi trên cuộc đời. Nếu không như vậy thì lẽ dĩ nhiên là đã không làm được chức giám đốc ở một công ty uy tín tồn tại từ bao nhiêu đời nay.
Sau khi biết con người thật của ông Kadokura, chúng tôi ra khỏi quán Pachinko, đi tới chỗ gã buôn mèo bất chính.
Theo địa chỉ ghi trên danh thiếp, đi tới đó mất khoảng bốn mươi phút lái ô tô. Tôi mượn xe của ông chủ quán, phóng nhanh đi đường ngắn nhất, dù tới văn phòng trong khoảng ba mươi phút thôi ấy thế mà xung quanh đã nhá nhem tối.
“Light… không biết có ngoan không nhỉ?”
Yuhto không hề biết mục đích thực sự là mèo sẽ bị bán đi nên rất nôn nóng, háo hức cho cuộc hội ngộ sau một thời gian.
Lỡ rơi vào tình huống là không kịp thì làm sao đây? Không thể để Yuhto nhìn thấy hình ảnh Light nằm chết cứng được.
“Yuhto à, bọn anh sẽ đi nói chuyện rồi quay lại sau nên em cứ đợi trong ô tô nhé?”
“Em cũng muốn đi cùng.” Yuhto nói vậy nhưng tôi đã thuyết phục Yuhto rằng để lấy lại được Light, cần phải nói chuyện tử tế, rốt cuộc cậu bé cũng chịu chờ trong ô tô. Khi tới văn phòng của người buôn mèo, tôi thấy đó là một tòa chung cư mini ba tầng rất đỗi bình thường.
Chúng tôi leo lên tầng ba, đến phòng 303, thấy có biển ghi tên Yoshizawa. Chắc người này với người tên Yoshizawa mà cô Yumiko đã nói là một. Tôi bấm chuông, chờ khoảng mấy giây thì nghe thấy bên trong căn nhà có tiếng trả lời “vâng”. Ngay lập tức, Hiromu đã ứng phó khá nhanh, nói vọng qua cửa:
“À, vâng. Tôi là người của trung tâm “Gì cũng làm” đã đưa con mèo xám ban nãy. Giờ tôi lại có con mèo đắt tiền khác muốn bán nên tới để xin anh Yoshizawa cho nhận lại nó.”
Có tiếng “cạch” mở cửa từ phía trong, từ khe hở của cánh cửa, người tôi nghĩ chính là Yoshizawa ló mặt ra. Đó là một người đàn ông tầm ba mươi tuổi, trông bình thường, nhìn qua thấy không có vẻ gì là người ngược đãi động vật.
“À, đúng là anh ban nãy đã… Thế con mèo đâu?”
“Nó ở trong xe ô tô đỗ bên dưới. Trước hết, tôi phải trao đổi một chút đã.”
Khi anh ta nói thế Hiromu liền cho anh ta xem số tiền hai trăm nghìn yên đã nhận từ ông Kadokura.
“Như thế này là anh có thể trả lại cho tôi con mèo ban nãy nhỉ?”
“Hả? Thế thì khó cho tôi quá…”
“Sao lại khó? Anh đã mua nó với giá hai trăm nghìn yên mà?”
“Đúng là thế nhưng… căn bản là có người nhờ tôi nên…”
“Có người nhờ? Ai vậy?”
“…”
Trong lúc đó, ở bên trong căn phòng, hình như đang có một vụ việc “bi thương” diễn ra.
Khi cảm thấy tình hình càng lúc càng gấp rút, Yoshizawa đã đưa ra một phương án.
“Thế thì tôi sẽ đổi ngang số tiền đó, trả lại con mèo ban nãy và sẽ giao một con mèo khác chỉ bằng nửa số tiền đó, tức một trăm nghìn yên.”
Trong tích tắc, tôi không thể hiểu Yoshizawa đang nói gì, và khi tôi thử sắp xếp lại trong đầu, chuyện đó tức là thế này.
Đầu tiên, Yoshizawa sẽ đổi Light đã mua với giá hai trăm nghìn yên để lấy hai trăm nghìn yên. Sau đó, Yoshizawa sẽ mua một con mèo khác với số tiền một trăm nghìn yên. Khi đó, Yoshizawa sẽ còn một trăm nghìn yên trong tay. Yoshizawa nói là ai đó đã nhờ mình nên nếu anh ta bảo với người đó là “đã mua hết một trăm nghìn yên” thì một trăm nghìn còn lại kia chính thức là của anh ta.
Tôi nghĩ anh ta đúng là kẻ bẩn thỉu nhưng dù sao thì giờ vẫn phải ưu tiên việc lấy lại Light đã. Còn gã này có được hời bao nhiêu tiền đi nữa hay thế nào cũng được.
Chỉ có điều, nói theo lời của ông Kadokura, cách kiếm tiền của Yoshizawa chẳng khác gì đi ăn trộm. Số tiền lời mà do giấu người cùng làm ăn để có được đó sẽ không tồn tại, tiêu xài rồi biến mất.
“Tôi hiểu rồi. Vậy cứ làm thế đi.”
Hiromu cười gượng gạo, nói như vậy.
Chúng tôi đi theo Yoshizawa đi ra phía cuối phòng, ở đó có một cảnh tượng khiến chúng tôi không thể tin vào mắt mình.
“Cái gì thế này?”
Ở trong căn phòng khách rộng chừng hai mươi tatami*, khắp góc phòng gắn tới mấy chiếc máy quay, vương vãi nào là dây thừng, rồi cưa và những con dao sắc nhọn.
⚝ ♪ ⚝
Người Nhật thường đo diện tích nhà bằng số lượng tatami, một loại chiếu giống chiếu cói của Việt Nam.
Trên giá sách la liệt những cuốn DVD có in ảnh xác chết động vật. Đó là những bức ảnh không thể không quay mặt đi.
Yoshi