- 1 - CHƠI KIỂNG LÀ MỘT CÁI THÓI, VẬY THÔI.
Người tham lam, người hung ác vẫn chơi kiểng. Người hiền Iành, yếu thế cũng chơi kiểng, Bởi vậy không nên chụp mũ quá vội vàng để quả quyết rằng: - Ai chơi hoa kiểng là người yêu văn hóa cổ truyền, gần gũi với dân tộc, sống hồn nhiên. Và ngược lại, ai ghét kiểng là người mất gốc, xa lìa cội rễ Đông Phương. Ghét kiểng được biểu lộ bằng nhiều hình thức: - Vô tình quăng cái tàn thuốc vào chậu kiểng xem đó là cái giỏ rác. - Cho rằng người tốn tiền mua kiểng đã lãng phí. Ngắm kiểng là việc lẩm cẩm, tốn thời giờ. - Cho rằng chơi kiểng là thú tiêu sầu giải muộn của người mang nặng tư tưởng phong kiến. Thời chiến tranh, người ta tranh thủ từng giờ từng phút, phố phường chật hẹp tìm đâu ra cái sân trống trải... Mặc áo lớn, thắt cà-vạt, đội khăn đống, mặc áo dài chỉ là hình thức không chứng minh rằng người ăn mặc chư vậy là đúng đắn, có giáo dục. Ăn những “món dân tộc” như sầu riêng Lái Thiêu, mắm thái Châu Đốc, bưởi Biên Hòa, cam Cái Bè chưa hẳn là... yêu dân tộc. Người uống rượu “quýt-ky'“, ăn thịt bò hộp, Hoặc áo “ni lông” chưa hẳn là vong bổn. Cái gì gọi là dân tộc thì luôn luôn đắt tiền. Sầu riêng, bưởi, nước mắm nhỉ chỉ dành riêng cho người dư giả ở thành thị. Chơi kiểng cũng vậy. Nó đòi hỏi thời giờ rảnh, vài thước vuông đất hoặc một cái sân thượng. Tóm lại, chơi kiểng là một thú vui, một món ăn tinh thần, một nhu cầu riêng cho số người có bộ thần kinh như thế nào đó thôi. Không nên chụp mũ vội vàng, khen là “dân tộc tính”, “Yêu văn hóa” hoặc chê bai là lẩm cẩm, lạc hậu. Mỗi người tìm một thú riêng ; chạy xe gắn máy cho nhanh, uống rượu say rồi lùi lũi về nhà, bàn bạc truyện Tàu, đánh cờ tướng, xem hát cải lương. Hoặc dạo phố ngày chúa nhựt để xem đó xem đây, mua sắm vài món cho hạp thời trang. Thú tiêu khiển, tự nó không mang tánh chất chánh trị nào cả. Dường như trong khoa tử vi, người xưa đã nhận xét rằng việc trồng tỉa, lập vườn... trông hợp với một hạng người, sanh vào năm Bính Dần, Canh Tí (thí dụ như vậy). Lại còn ngày sanh và giờ sanh. Đàn bà con gál thích trồng bông hoa chứ không thích chơi kiểng, loại kiểng gốc, Chơi non bộ (giả sơn) dường như chỉ thích hợp với đàn ông! Tại sao vậy? Phải chăng đó là vấn đề sanh lý, theo nghĩa rộng của nó? Đàn bà từ khi lấy chồng... đã sanh đẻ nhiều lần, họ là kẻ sáng tạo nên không cần ngắm nghía những gốc cây già nẩy lộc non, Cơ thể đàn bà là một sự tuần hoàn, họ không cần đến cái biểu tượng “xuân hạ thu đông” của trời đất, lá vàng thì lá rụng, lá rụng rồi chồi non mọc ra. Người trẻ tuổi không thích chơi kiểng vì sức khoẻ còn dồi dào. Để bớt bê bối về tinh thần, họ đá hanh, lội đua hoặc chạy đua với tốc lực, uống rượu, thụt bi-da. Họ khó hiểu lý do nào khiến người đứng tuổi thích chơi kiểng. Nếu yêu mến thiên nhiên, người trẻ sẽ tìm khu rừng thông, bờ suối trong lành để sống vài phút dây thần tiên với người yêu, nghe chim kêu lá rụng. Hoặc là họ vô rừng để sưu tầm những loài bướm. Người già hiểu tại sao người trẻ thích đá banh vì người già đã trải qua tuổi trẻ. Người trẻ vì chưa già nên chẳng tài náo hiểu được những nhu cầu về tinh thần của người già. Một ông lão chơi kiểng đã khuyên can đứa cháu: - Mới có ba mươi ngoài tuổi mà chơi kiểng thì tao e rằng mầy chỉ thích làm dáng vậy thôi. Người cháu đáp: - Cháu mê kiểng lắm. - Nếu mầy mê kiểng lúc tuổi còn trẻ thì chắc là mầy sống không lâu, yểu tử. Thử tra tự điển về chữ kiểng, theo Việt Nam Tự Điển do ban văn học của hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo, in vào năm 1931 tại Hà Nội. - Kiểng, xem chữ “cảnh”, - Cảnh, hình sắc bày ra trước mắt: cảnh núi non. Văn liệu: “Cảnh nào cảnh chẳng đau sầu, Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ (Truyện Kiều). - Cây cảnh, thứ cây con trồng làm cảnh chơi. Và tiếng chơi lại được giải thích, với nhiều nghĩa: 1 - Giải trí cầu vui. 2 - Không có chủ đích. Với những thí dụ về những tiếng chơi: - Chơi mỗi người một thích. Chơi trăng từ thuở trăng tròn. Ai ơi, chơi lấy kẻo già. “Trồng cây con để làm cảnh chơi”, đó là sự chiến thắng của khoa học. Muốn trồng cây con - tức lá nhỏ bé về hình dáng trong cái chậu thì dễ quá. Trái lại, trồng một cây suốt năm bảy mươi năm, ép xác nó, câu thúc nó trong cái chậu nhỏ là việc khó. Cây sộp, cây giữa sống 60 năm là cao đôi ba chục thước, ở trong rừng, gốc to hai ba người ôm không xuể. Ấy thế mà chỉ cho nó cao chừng một thước rơỡi, gốc to chừng ba tấc, ở đường kính tâm. Nhốt bao nhiêu sinh lực trồng cái chậu nhỏ! Người chơi kiểng phải hiểu rành cách phát triển của từng loại cây, ép nó lại, làm cho nó phát triển chậm chạp mà không chết, vẫn sống mãi, đâm chồi nẩy lộc: đúng là ông kỹ sưvề trồng tỉa. Thời tiền sử con người thờ phượng gió mưa sấm sét, sông dài, núi cao, cây to. Cây là một vị thần, có thể là hung thần. Mãi đến nay, nhiều người không dám đốn cây da ở đình làng hoặc là chặt nhánh nó. Người chơi kiểng không sợ chặt nhánh, sẵn sàng, uốn nắn thân cây. Nhà dân tộc học R. Caillois (Roger Caillois) đã nhận xét khá tinh tế, xác nhận rằng người Trung Hoa không còn xem thiên nhiên như là thần thánh, từ thời Trung cổ.
Người xưa nêu ra bốn ngành tiêu khiển: cầm, kỳ, thi, họa. Ai biết dưỡng tánh tình với các ngành ấy thi được gọi là tài tử. Đờn ca là ngành phổ biến nhứt: đờn ca tài tử, bao tài tử cổ nhạc. Chơi kiểng là họa, là điêu khắc. Bởi vậy, chủ nhân của nó nghiễm nhiên là một khách tài tử.
Người Á Đông bắt đầu chơi kiểng vào thế kỷ nào? Cách đây mấy trăm năm? Ông tổ là ai? Trước khi giải đáp về ông tổ của ngành chơi kiểng chúng lôi thử phỏng đoán về niên biểu, căn cứ vào thu dụng cụ cần thiết: đó là cái chậu. Nói đến chậu là bước qua địa hạt làm đồ gốm. Hồi thời ăn lông ở lỗ, tiền nhân chưa biết nung đất, họ dùng gáo dừa, trái bầu khô, bong bóng trâu bò mà đựng nước. Mãi đến nay, vài bộ lạc ở Phi Châu còn dùng cái vỏ trứng con đà điểu làm chén múc nước suối, uống ngon lành. Lẽ dĩ nhiên, trong thời đại xa xưa này, chẳng ai nghĩ đến chuyện trồng kiểng vì loài người sống bằng nghề săn bắn, ăn thịt thú rừng, hái trái cây, đào xới khoai rừng. Khi dùng cuốc, dùng lưỡi cày thì bước đầu của nghệ thuật trồng tỉa mới bắt đầu in nét sâu đậm trong lịch sử văn minh. Người ta xem cây như... thần thánh, nhứt là cây cổ thụ vì nó sống nhiều năm, khác với loài rau cỏ sống phù du. Cây cổ thụ lại là mục tiêu thăm viếng của thần sấm sét. Những đỉnh bằng đồng, có ba hoặc bốn chân là dụng cụ để nấu thịt, giữa ba cái chân ấy, người ta đốt lửa cho thịt mau chín. Đúc đồng là kỹ thuật huyền bí, thời xưa, cần đến uy quyền của pháp sư, muốn thành công, lắm khi người thợ đúc kiêm pháp sư phải cúng tế, đọc bùa. Đỉnh đồng thời xưa là dụng cụ dành riêng cho vua chúa, dùng vào việc tế tự. Trong đám bình dân, người ta đan thúng, dùng những thanh tre chẻ nhỏ hoặc những miếng vỏ cây, xé tươm ra. Nghề đan đi đôi với nghề dệt vì cùng theo một kỹ thuật. Người ta dùng đất sét nắn những dụng cụ để chứa đựng, mô phỏng theo cái thúng và cách thức hay nhất vẫn là lấy đất sét mà trét vào lòng thúng một lớp đều, lấy thúng làm cái khuôn. Cái chậu đầu tiên thành bình, vành chậu cũng dày như vành thúng. Đó là giả thuyết có thể chấp nhận được.
Nghề làm đồ gốm giúp con người thoát khỏi giai đoạn ăn lông ở lỗ. Với nồi, chén, lu, hũ... Người ta ăn uống sạch sẽ hơn, ngon hơn. Muối, lúa, hột giống, nước ngọt được dự trữ an toàn trong lu hũ, phòng ngừa khi thiếu kém, Kỹ thuật nấu ăn trở nên linh động, phong phú. Thay vì ăn thuần một món thịt nướng, người ta bày ra nhiều món canh, món kho. Cái chậu đóng vai trò quan trọng trong việc trồng kiểng. Nhờ chậu, người ta thay đổi điều kiện đất đai, thời tiết. Nơi vùng sình lầy, có thể trồng những loại cây chỉ ưa đất sét, đất cát. Khi mưa quá nhiều, người ta dời chậu vào mái hiên. Do đó, ở miền nhiệt đới, nơi đất thấp, cây tùng sống được trong chậu. Và nơi băng giá lạnh lẽo, vài loại thạch lan cứ sống, trổ hoa ; luôn cả loại xương rồng.
Cây kiểng mua ở chợ, do bạn tặng cho... Khi đem về nhà mình thi lúc ban đầu nó là kiểng của thiên hạ, mặc dầu mình là sở hữu chủ về mặt pháp lý. Tại sao vậy? - Vì nó là công trình nuôi dưỡng của kẻ khác, nó phản ảnh tâm trạng kẻ khác, là toa thuốc bổ thích hợp với bịnh trạng của kẻ khác. Dường như người Nhật Bổn đặt ra một nguyên tắc: Sau khi tự tay nuôi dưỡng ít nhất là hai năm thì chủ nhân mới thật sự là chủ nhân của cây kiểng. Nuôi kiểng chớ không trồng kiểng. “Nuôi” như nuôi đứa con, chăm sóc từng ly từng tí. Như nuôi con dấm trong cái thố. Như các nhà làm rượu nho nuôi dưỡng thùng rượu, để lần hồi nó trưởng thành, trổ ra hương vị đặc biệt. Người Pháp dùng động từ “élever” khi nói đến việc ủ rượu nho.
Có kẻ sành điệu, khi nhìn qua cái non bộ của người bạn, đã dám quyết: - Phải sửa lại mới được, như vầy là trong nhà có chuyện loạn. Lối chơi non bộ phản ảnh tâm trạng của chủ nhân. Non bộ và kiểng đều bắt nguồn từ một triết lý, nói nôm na là một đạo nghệ, một đạo nghĩa: Lý thuyết của Lão Tử. Ông tổ của lối chơi này là ai ở Việt Nam? Theo ý kiến riêng, đó là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bên Trung Hoa, một nước cổ kính, người ta thích chơi giả sơn từ đời Tống, đời Tống cách đây mới tám chín trăm năm. Giả thuyết này căn cứ vào quyển sách dạy về phép ngắm đá, do danh sĩ Mễ Phi soạn ra. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sống ẩn dật, dạy câu “Hoành Sơn nhứt đái, vạn đại dung thân” cho chúa Nguyễn Hoàng, như lời hịch Nam Trấn. “Đức Dụ Tổ (Nguyễn Hoàng) đang có hiềm với Trịnh Kiểm, Trịnh Kiểm có ý muốn ám hại, đức Dụ Tổ lo sợ, không biết nghĩ mưu gì cho tránh được nạn, mới sai người ra hỏi ngài. Bấy giờ ngài đang chống gậy chơi trong vườn cảnh. Trong vườn có vài mươi ngọn núi non bộ, lại chồng chất đá làm một rặng núi ngang. Trên núi cây cối rườm rà, có đàn kiến bò ngang trên tảng đá, ngài nhìn xern đàn kiến rồi tủm tỉm cười nói rằng: “Một dãy núi Hoành Sơn (núi ngang) kia, có thể yên thân được muôn đời”. Non bộ là nước Việt Nam, là thế giới thu hẹp. Dưới mắt Trạng Trình đó là một đài khí tượng, một đài ra-đa (nói theo khoa học ngày nay). Lão tử nói: Thần hang bất tử Cho nên gọi là Huyền Tẩn Cửa của Huyền Tẩn Là gốc của Trời Đất Dằng dặc như còn hoài Dùng hoài mà không hết. Cây kiểng tốt, sống lâu năm nên có hang. Gốc kiểng tốt phải gợi hình ảnh một ngọn núi, một khối đá. Hang tiêu biểu cho hư không, hư không sanh ra tất cả. Cây tùng sống lâu năm thì lá xoắn lại, thành từng cục tròn ở trong đọt. Khi thấy ở đầu cành nhiều nắm lá đổi dạng như vậy thì người xưa tin rằng dưới gốc tùng, nếu đào lên ắt gặp nhiều khối hổ phách. Cây đào tiên kết trái, ăn trái đào tiên ắt sống lâu. Mấy vị tiên ông thường xuất hiện với cây gậy cong queo, cổ quái, gậy làm bằng gốc đào hay nhánh đào tiên. Ông Thọ (trong tranh Phước Lộc Thọ) cũng chống gậy đào. Khi vượt biển, Bát tiên dùng khúc gỗ trầm hương. Theo một tài liệu chúa Sãi ưa mặc áo dài trắng, chống gậy long trúc, tức là cây tre nhỏ hình thù giống như con rồng. Ngài đón tiếp Đào Duy Từ với bộ thường phục và cây gậy ấy. Nhưng Đào Duy Từ muốn cáo thối, ngài bèn thay đổi cách ăn mặc, để đóng vai một vị đế vương đang chờ đón Khổng Minh. Bàn về thú chơi sách, thú chơi đồ sành đồ sứ, không ai muốn nói dài dòng về nghệ thuật viết sách, cách in một quyển sách, máy in hoạt động như thế nào. Hoặc là lò gốm hình dáng ra sao, chụm củi ở đâu. Đó là công chuyện thừa, phù phiếm. Trong sách bàn về cờ tướng, ai đâu chỉ dạy những bước quá sơ đẳng: con xe, con chốt đi như thế nào, con mã gặp trường hợp nào thì bị cản? Hễ là khách chơi kiểng thì đã phác họa ra sẵn những sẳn nét hợp với nhu cầu của tâm hồn mình. Cứ trồng, cứ uốn nắn, cứ tưới nước và ngắm kiểng thì lần hồi sẽ học khéo học khôn. Chơi kiểng là “đi tiên về tục” như Lưu Thần, Nguyễn Triệu, như chàng ngư phủ bên Tàu, như ông Từ Thức ở Việt Nam.
Cõi tiên là cõi trường sanh mầu nhiệm. “Sự vật có lẽ thường nhiên, bốn mùa có lớp thứ tự. Trời Đất có cái rất đẹp, đều là nhờ ở cái tâm tư không định nhất mà nhìn ra”, ‘‘Miền Nam nước Sở, có giống rùa minh linh, lấy năm trăm năm làm Xuân, năm trăm năm làm Thu. Đời thượng cổ, có giống cây Xuân lớn, lấy tám ngàn năm làm Thu” Một đoạn khác, trích trong Trang Tử, Nam Hoa Kinh, - Trong chỗ mờ mịt, riêng thấy rõ ràng. - Trong chỗ thông tiếng, riêng nghe hòa vui. Tức là dung trực giác để hòa mình vào sự vật, lá cây, ngọn cỏ, tảng đá. Người quá bi quan, người sắp tự tử chẳng bao giờ chơi kiểng được. Thưởng thức kiểng, non bộ… chỉ dành riêng cho những người còn lạc quan tỉnh táo, tự tin, mạnh khỏe. Chúng ta thử tưởng tượng một người mê sảng đang hấp hối, họ không còn đủ nghị lực để ngắm nghía chậu kiểng. Chuyện “đi tiên về tục” của ông Từ Thức chỉ thích hợp đến với những người yêu đời, vì yêu đời nên dám chấp nhận những giấc mơ phi lý, xa thực tế. Người bi quan sẽ cho rằng: chuyện tiên, chuyện bồng lai là giấc mơ tuyệt vọng của con người, là sự lường gạt, nhưng trẻ con thích nghe chuyện thần tiên vì chúng ở vào lứa tuổi dồi dào sinh lực. Chuyện Từ Thức mới xảy ra chừng sáu trăm năm, đời nhà Trần. Ông Từ Thức xin với người trong chùa đừng bắt tội một cô gái xinh đẹp, cô này chỉ có tội lén vịn vào cành hoa rồi làm gãy. Một hôm, Từ Thức thấy trên mặt cửa biển Thần Phù có đám mây lành năm sắc, kết tụ như hình hoa sen, ông dùng thuyền đến nơi, thấy có vách đá bằng phẳng. Ông đề thơ, ngắm vơ vẩn chợt thấy vách đá nứt lỗ tròn, có thể vừa người chui lọt. ông lần chui vào trong thì lỗ đó đóng bít ngay lại. Bởi vậy, ông phải đi tới để tìm lối thoát, quơ tay vào vách đá mà mò đường; lần hồi bóng sáng chiếu xuống, ông trông lên thấy núi cao chót vót, đá mọc lỏmn chỏm, ông gắng sức leo lên đỉnh núi. Nơi ấy, cây cối tươi tốt, có lâu đài cung điện. Ông gặp bà tiên, bà này cho biết: - Đây là hang thứ sáu trong ba mươi sáu động của núi Phi Lai, núi Phi Lai đi khắp các mặt biển, chân núi không bén đất, chỉ theo chiều gió mà hợp tan thôi... Và bà gọi một người con gái đến, đúng là cô gái làm gãy cành hoa năm xưa và được Từ Thức xin tội cho. Từ Thức và cô gái sống như vợ chồng, đúng một năm thì ông nhớ nhà, xin phép về. Khi về nhà thì hỡi ôi, phong cảnh đã đổi khác. Một năm ở ngoài hải đảo thần tiên dài bằng tám chục năm ở dương thể. Muốn ra hải đảo lần thứ nhì, chẳng bao giờ còn có cơ hội nữa. Đến Thiên Thai, ngụ tại Thiên Thai, rồi dời Thiên Thai. Ba giai đoạn ấy, tạm gọi là ba nghi lễ của khách chơi kiểng khi ngẫu hứng thoáng gặp vẻ đẹp của cành lá, thả hồn vào khung cảnh riêng, quên không gian, quên thời gian rồi giựt mình trở lại thực tế. Nơi ông Từ Thức gặp tiên là ngọn núi, núi ấy trôi lang thang trên mặt biển. Non bộ, bể cạn, giả sơn... phải gợi lại không khí ấy. Non bộ là nơi có lai rai vài người. Những người ấy là ai? Họ làm gì mà được phép ở gần cõi tiên. Bài thơ của ông Từ Thức ca ngợi quả núi xanh đẹp, trôi bồng bềnh trên biển: Đầu cành thấp thoáng bóng Kim ô. Hoa bỗng vui mừng đón khách vô. Cạnh suối nào là người hái thuốc. Quanh nguồn chỉ có gã bơi đò Xênh xang ghế mát cầm ba khúc. Đủng đỉnh thuyền câu rượu một vò. Ướm hỏi Võ Lăng chàng đánh cá. Làng đào đâu đó cánh chừng mơ? Người hái thuốc, gã bơi đò, người uống rượu, chàng đánh cá. Xưa kia, chàng đánh cá theo hoa đào nước suối, đến Đào Nguyên. Lại còn ngư tiều canh mục (hay là độc) ! Dường như ông Phùng Hữu Lan đã giải thích cái quan niệm trí dân của người Trung Hoa: người đánh cá đứng đầu trong làng khách phong lưu, hạng bét là người đọc sách. Sự giải thích căn cứ vào vùng trời rộng hay hẹp mở ra trước mắt trước tâm hồn. Anh chài lưới sống ở ngoài biển chân trời bao la vô tận, anh hái củi đứng trên sườn núi có thể ngắm nghía bao quát một vài thung lũng một huyện. Cày ruộng thì sống nửa vòm trời hẹp hơn ở cánh đồng. Và đọc sách thì quả bẩn chật, bị nhốt trong trang, trong nghĩa lý từng chữ. Và chữ nghĩa tuy đẹp, cao sâu nhưng làm sao so sánh được với thực tế!
Trong toa thuốc ngọt trị ho của bác sĩ L. Guyot, tình cờ thấy một đoạn giáo đầu như sau: “Ho là một sự phản ứng đã trục xuất ra khỏi bộ máy hô hấp chất đàm và chất thừa thãi... Ho là một phương pháp bảo vệ cơ quan hô hấp của ta, vậy ta phải bảo vệ nó (tức là cơ.quan hô hấp)”. Toa thuốc này nói tiếp: “Tuy nhiên, khi có ho nhiều mà không trục xuất được chất thừa thãi, dù một ít, gọi là ho khan thì không có lợi cho cuống phổi và phổi...” Bịnh thể xác giống như bịnh tâm thần. Chơi kiểng có thể so sánh với cái tật ho, ho vì phản ứng để trục xuất bao nhiêu phiền muộn lẩm cẩm của thế tục. Đó là cái ho lành mạnh, chứng tỏ chủ nhân còn mạnh khoẻ, đủ sức phát ra sự phản ứng. Tuy nhiên, có những kiểu ho, bất lực, bất lợi - những người chơi kiểng để nói lên sự trầm thống của cuộc đời riêng tư. Trong Hải Ngoại Ký Sự của nhà sư Thích Đại Sán, chúng ta thấy hình ảnh của “Thiên Dương Hầu” (anh thứ ba của vua Minh Vương Nguyễn Phúc Chu) ở trong hoàn cảnh rất khó khăn, tánh nết cao kỳ, chẳng chịu uốn mình theo lưu tục, thường bị phong chiết tỏa, may nhờ Quốc Vương rộng lượng sáng soi mới được khỏi tội, nhưng ông vẫn chẳng vì thế mà đổi tiết. Ở dựa mé sông, tiêu điều mấy gian nhà cỏ, trồng cây chơi cảnh, ngồi đất uống trà, tuyệt nhiên không có vẻ vương hầu quí phái.,. Nhà rất nghèo nhưng kiếm được đồng nào tức thì tiêu vung hết, vui vẻ như không. “Nửa năm tiên cảnh. Một bước trần ai” (Tản Đà) Một năm ở cõi tiên dài bằng tám chục năm nơi dương thế, theo tích xưa của ông Từ Thức. Núi Phi Lai, nơi ông Từ Thức được may mắn viếng thăm gồm có ba mươi sáu động mà ông chỉ sống trong một động nhỏ. Núi ấy chỉ theo chiều gió mà hợp tan thôi. Người chơi kiểng cũng như người chơi non bộ cố gắng tạo lại một núi Phi Lai, nơi con người sống trong vui sướng, ăn món ngon, uống rượu quí, nghe nhạc đặc biệt, nằm kề tiên nữ. Tám mươi năm ở trần ai được gom vào một năm nơi tiên cảnh. Núi Phi Lai ở ngoài biển khơi được đem về trước mái hiên. Rút ngắn không gian và thời gian. Không có trở thành có. Nguyên tắc rút ngắn, làm cô đọng không gian và thời gian ấy được làm chuẩn cho người chơi kiểng. Gốc cây phải cổ quái nứt nẻ, đóng meo mốc, giống như núi đá. Cây sống trong chậu, cách xa chủ nhân chừng năm tấc, bảy tấc tây nhưng phải gợi hình ảnh một gốc cây trơ vơ, cheo leo - cây thông của Nguyễn Công Trứ - ở cách xa người ngắm chừng năm bảy ngàn thước, trên đỉnh núi xa vời. Và thời gian, cũng vậy, đòi hỏi sự cô đọng. Cây mới nuôi trong chậu chừng năm mười năm nhưng phải gợi lên hình ảnh bao cuộc tang thương, vật đổi sao dời. Thời gian trôi qua, tàn phá bao nhiêu lâu đài, triều đại, cây vẫn còn sống để làm một nhơn chứng đau thương. Trước cảnh tang thương nếu đá “cau mặt” thì gốc kiểng cũng mang nhiều vết thương, bên ngoài xem như chai lì, bên trong thì vẫn đau đớn nhưng chế ngự được cái chết để mà sống. Cây đào tiên, cây tùng sống vạn niên mà lá vẫn xanh tuy gốc nó gẫn trốc, lòi rễ.
Nếu trên núi hoặc dưới thung lũng có sẵn loại cây sống hàng trăm năm mà hình vóc vẫn nhỏ bẻ thì nghệ thuật chơi kiểng không còn lý do để đứng vững. Cứ bứng cây đó trồng trong chậu, thế là xong. Nhưng nếu có sẵn thì bứng đem về làm gì? Kiểng là công phu, là tâm trạng đặc biệt của từng người. Bởi vậy, nó là nghệ thuật, gọt rũa.
Xem trong quyển sách về đồ sứ bên Tàu, tôi thấy bức ảnh một pho tượng bằng đất tráng men trắng (người Pháp gọi là blanc de chine) đề tài là ông Khuất Nguyên với thân hình gầy khô, mang thanh gươm ốm, vầng trán nhăn nheo chứa đựng bao nhiêu thần lực. Đáng gọi là một cây kiểng. Hội họa và điêu khắc không bị gán nhãn hiệu lẩm cẩm, phong kiến, có lẽ vì đó... có thể diễn tả thiên hình vạn trạng, từ những tỉnh vật đến con người, từng đám người. Nguyên liệu đúng nhất của kiểng vẫn là cây sống, nếu chưa quen nhìn, nếu nóng nảy thì cho rằng đó chỉ là “quanh quẩn vài ba dáng điệu”. Nhưng kiểng vẫn diễn tả được nỗi buồn vui, sức sống, sự chiến đấu. Trường hợp của những họa sĩ Tàu vẽ con cọp, gốc tre, con cá vàng. Họ mượn những bóng dáng ấy để diễn tả con người.
Người chơi kiểng phải ngồi gần hoặc đứng gần nó để vuốt ve, sửa chữa kịp thời những đường nét và ngắm nghía, tắm rửa tâm hồn. Tiêu chuẩn vẫn là khoảng cách một thước hoặc ngắn hơn, cho hợp với cái nhìn của ông chủ nhân “xem hoa bốn mắt đi giầy ba chân”. Nếu cần, ông chỉ vói cánh tay là đụng vào gốc. Đó là khoảng cách của một họa sĩ, một điêu khắc gia khi cầm cọ, làm việc trước giá vẽ hoặc cầm đục cầm búa để chế ngự khối cẩm thạch vừa cứng, vừa giòn. Đôi khi, chủ nhân lui ra xa vài bước để rồi xáp lại gần. Cây kiểng không được cao quá hai thước tây, trừ vài trường hợp đặc biệt nào đó. Nếu quá cao, khỏi tầm tay vói lên thì làm sao chủ nhân uốn nắn được, chẳng lẽ bắc thang, trèo lên rồi lại trèo xuống phí sức một cách vô ích. Kiểng không được quá cao hơn bề cao con người, kiểng phải thấp hơn mái nhà. Chúng tôi không đề cập đến những cây kiểng quá lớn để cho vừa kích thước với cái cao ốc chín mười từng, (hay bức tranh trong phòng khánh tiết, hoặc pho tượng ở nơi công viên). Trong trường hợp đó, đã có sẵn cây cổ thụ ở vườn bách thảo và cây me bên lề phố rồi. Quái đản vẫn nằm trong khuôn khổ thiên nhiên và nếu quái đản một cách tự nhiên thì còn gì quí cho bằng. Nhiều người dùng những khúc rễ cây cong queo, để y nguyên như vậy làm chân bàn, chân ghế. Chúng ta chỉ than phiền những cây kiểng uốn éo giả tạo, quá rối rắm. Nhốt cây cổ thụ trong chậu nhỏ, thâu ngắn bề cao hàng đôi ba chục thước của cây cổ thụ để nó chỉ còn hơn một thước hoặc một thước rưỡi là sự giả tạo rồi. Người ta đành chấp nhận nguyên tắc thẩm mỹ “đầu voi đuôi chuột”, nói đúng hơn, đó là “gốc voi ngọn chuột”, gốc phải to, ngọn phải nhỏ, thân cây kiểng giống như hình nón, nói theo danh từ kỷ hà học, Thế đứng uốn éo hoặc ngay thẳng của cây kiểng chỉ đẹp khi sự uốn éo ấy là tất yếu ảnh hưởng của gió thổi một chiều, của chất đất quả xốp giữa kẽ đá nên cây trốc rễ mà không rơi, hoặc vì cây mọc bám vào vách đá nghiêng mình ra hố thẳm, chới với. Người Nhựt chơi kiểng công phu hơn, gốc cây sống hàng trăm năm trong cái dĩa nhỏ - dường như họ cắt bớt rễ cây theo kỹ thuật giải phẩu đặc biệt. Hòn non bộ của Nhựt chỉ gây rung động cho số ít người: sạn trắng trải trên sàn là sóng biển, cục đá gợi hình ảnh con rùa, con cọp cõng con.., mỗi mỗi đều theo sách vở, những hình ảnh tượng trưng. Khí hậu bên Nhựt thích hợp với loại non bộ này với nền trời “rừng phong lá đổ”. Ở xứ nóng nực muỗi mòng, chúng ta chơi theo kiểu Trung Hoa, thực tế hơn, thong dong hơn. Non bộ của Nhựt quá nặng về công thức, như lá bùa bát quái với càn khảm cấn chấn...
Nhà văn Yukio Mishimi, người Nhựt, có viết câu chuyện lý thú, nhân vật chánh là một nhà sư trẻ. Ông sư này viếng kiểng chùa cổ, không thấy gì là đẹp. Nhưng khi vào chùa, chợt nhìn thấy cái mô hình ngôi chùa, ông ta “giác ngộ” ngay. Cái mô hình tuy giả nhưng quí hơn ngôi chùa thật, to lớn hơn, đang bao trùm nó. Đó là thế giới nằm trong ruột một thế giới khác. Về sau, nhà sư này nổi cơn điên, đốt ngôi chùa thật vì nó trở thành vô nghĩa khi trên đời này có cái mô hình của nó, cô đọng, tiêu biểu cho nó rồi. Xem trong một tạng chữ Âu châu, thấy những ảnh giới thiệu nếp sống vui vẻ của nhà... chơi kiểng nọ. Chủ nhơn là cậu trai hơn hai mươi tuổi, cậu trồng nhiều cây trong vườn rồi uốn nắn những cái bàn, cái ghế để bạn bè ngồi chơi cho mát. Bốn chân bàn là bốn cây sống nhăn, bám rễ vào đất, mớ nhánh đan lại thành mặt bàn xanh tươi, khít khao, bằng phẳng: mấy chai la-ve, mấy cái ly cối đứng thẳng thớm trên đó. Ngoài ra cậu chủ nhơn còn tinh nghịch làm một cái xích đu xanh tươi, cây trụ, cây đu, sợi dây, bàn đạp .. đều là gốc cây, nhánh cây và những loại dây leo. Cậu tuyên bố: - Tôi chống lại thời đại nhôm, phọt-mi-ca, sắt thép. Trong quyển Sống Đẹp của Lâm Ngữ Đường (Nguyễn Hiến Lê dịch), có đoạn nói: “Người Trung Hoa chơi tùng, lựa những cây già, cây già cẳng đẹp và càng hùng vĩ. Cây dành (bá) cũng hùng kỳ. Định quì gần như cây tùng, cành nó cong queo mà lại rủ xuống. Những cây mà cành lá đưa lên, tượng trưng cho thiếu niên, còn những cây rủ xuống tượng trưng cho ông già ngó xuống đàn trẻ. “Đặc biệt là miền Mộc Độc, bên bờ Thái Hồ ở Tô Châu có bốn loại bách già có tên là thanh, kỳ, cổ, quái. Loại thanh bách thân cây đâm thẳng lên trời, cành lá xòe ra như cái tán. Loại kỳ bách, nằm ngang trên đất, thân, cành uốn thành chữ chi. Loại cổ bách, trụi lá, đưa những cành nửa khô lên trời như ngón tay. Loại “quái bách” từ gốc trở lên thân vặn như tròn ốc.” Một khách sành điệu chơi kiểng đã đi du lịch nhiều nơi đã phát biểu: - Rễ cây đẹp nhứt là ở Đền Đế Thiên Đế Thích, bên Cao Miên. Hột lâm vồ rơi vào vách đá, rễ to dần, bao trùm, che lấp mấy tượng đá nhỏ. Cây có sức mạnh hơn đá. Rễ cây là con mãng xà vương vô địch, gây bao cuộc hưng vong. - Thân cây đẹp chính là ở vịnh Hạ Long (Vịnh Bắc Phần), Cây bám vào vách đá (loại đá vôi), sống cheo leo, mỗi cục đá là một hòn đảo tí hon, cao nghệu. Sóng biển đục khoét chân đá, cây đứng lên rồi thòng ngọn xuống, cựa quậy khi gió biển thổi lộng. Dường như cây chỉ sống bằng môn dinh dưỡng duy nhất là sương mù, sống đến một ngày hay một đêm định mạng nào đó thì tảng đá gãy ngang, đứt chân. Đá và cây mất dạng đưới biển sâu như hoa lan nở rồi tàn trong hang tối, lúc có mặt tỏa hương thơm thì không ai biết, khi trở về hư vô thì chẳng ai hay. Như vì sao xuất hiện trên trời cao rồi nổ tung mà ánh sáng của nó hàng triệu năm sau mới rơi rớt xuống trần gian trong đêm tối. Lại có người bảo: - Cây kiểng đẹp nhứt là ở bờ biển Long Hải, biển bao vây ba mặt, gió thổi lộng hai mùa mưa nắng, thân cây bị cát lấp vì trận gió này rồi được giải tỏa vì trận gió khác. Sóng cát cứ đùa tới từng lượn. Gió và cát đã giết nhiều cây to nhưng cây nào đủ bản lĩnh thì tiếp tục sống với cành lá xơ rơ, lá và nhánh bị tỉa cắt đến mức tối đa.