- 2 -
Nói đến Lưu Nguyễn, Từ Thức thì nhớ đến bảy ông hiền ở rừng trúc, mấy ông này chống đối nhà Tấn, một kiểu bất hợp tác, bất bạo động, lập một tiểu quốc nằm trong đại quốc!
Các ông đủ sức kéo dài cuộc tiêu dao - đủ gạo, đủ rượu, đủ tiểu đồng hầu hạ.
Nhưng hỡi ôi! Chính một thi sĩ Trung Hoa khác ở giữa thế kỷ mười bảy là Trương Trào đã dám phê bình bảy ông hiền ở rừng trúc. Và theo ý chúng tôi thì câu nói của Trương Trào nên tặng riêng cho ông Lưu Linh.
Rằng:
- Điều bất bình nhỏ trong lòng, uống rượu vào có thể tiêu được ; điều bất bình lớn trong đời, không dùng gươm không thể dẹp được.
Chơi kiểng là thói hư - nhiều người phê phán như thế.
Tại sao hư?
Chúng ta nên nói thẳng vì bây giờ là thời đại kim tiền.
- Hơ bởi vì không sanh ra tiền. Nếu mỗi ngày chăm sóc kiểng mà thâu vào được năm bảy trăm đồng, thì các bà nội trợ sẽ thúc giục đức ông chồng nên chơi kiểng cho hăng say để làm giàu. Và cha mẹ sẽ cho con vào trường Cao Đẳng về kiểng để sau này nó trở thành cậu kỹ sư trẻ tuối tài cao, để sắm xe hơi nhà lầu. Chừng đó ở trung tâm thành phố sẽ có những nhà xuất cảng, nhà tổng đại lý về kiểng để thu hút ngoại tệ. Xưởng sản xuất kiểng sẽ qui tụ bao nhiêu kỹ sư nam thanh nữ tín với luật lao động quỹ bù trừ bồi thường tai nạn.
Kiểng là món hàng xa xí dính dáng với nghệ thuật. Xa xí phẩm thì khó bán, kém khách.
Lý do ấy chưa vững vì hội họa điêu khắc phẩm vẫn bán với giá cao.
Kiểng là món hàng dễ hư hao, không bón phân cắt sửa kịp thời, thiếu săn sóc thì kiểng sẽ chết, trở thành một khúc củi!
Tranh lụa, tranh sơn mài, tượng cẩm thạch hay nắn bằng thạch cao vẫn dễ bán hơn cây kiểng, vì nó không rã, không hư hao bất ngờ về thể xác.
Bởi vậy người ta đã sản xuất những loại kiểng đúc trong khuôn với chất dẻo hóa học để “kỹ nghệ hóa” để dễ phổ biến. Nhưng hỡi ôi, bướm không chịu đậu vào cây kiểng hóa học. Và cây kiểng này khó gợi cảm bằng cây trụ đèn điện hay cây cầu đúc bắt qua sông với bao nhiêu nước chảy qua cầu và những nỗi đoạn trường.
Vài người vì yêu kiểng và yêu đồ sành đồ sứ nên muốn tổng hợp đem vài miểng chén có bông hoa đầu rồng... gắn vào gốc kiểng: họ lật một khoảng da cây nhét cái miểng vào. Vài tháng sau vỏ cây mọc lấn ra, miểng chén dính vào gốc, như một miểng xa cừ cắm vào. Nhưng gẫm lại thì việc cắm miểng sành vào gốc cây sống là quá thừa, làm giảm vẻ đẹp của kiểng giống như trường hợp gắn những hình cao bồi, hình người bắn súng, hình chim bằng nhựa hóa học lên nhánh hoặc vào bên gốc kiểng,
Bên gốc kiểng vùng đất trống còn lại trong chậu phải cho đá, vài viên đá “cổ quái”.
Theo sự giải thích “cổ lệ” thì người ta không trồng cây da cây me cây khế làm kiểng vì lý do ma quái.
- Cây da quá khôn ngoan hễ nhánh vừa gie ra là rễ phụ mọc thêm thòng xuống đất để chõi lên cho nhánh khỏi nghiêng ngã. Cây da thuộc vào loại có linh tính quỉ quái.
Nhưng cây già cầy sộp cây sanh cây lâm vồ... có rễ phụ vẫn được làm kiểng. Cây có rễ phụ dễ uốn, dễ gây không khí cổ kính. Trồng một đôi năm là trở nên um tùm nào rễ phụ nào rễ dưới đất nào nhánh to nhánh nhỏ.
- Cây me nào thua cây liễu bên Tàu: lá nhỏ mịn màng rung rinh khi gió thoảng, vỏ cây răn nứt, nhánh dẻo sống mạnh bất chấp điều kiện mưa nắng, đúng là anh hùng miền gió mùa sống trăm năm quá dễ dàng.
Người ta liệt cây me vào loại phàm phu tục tử:
“Xưa mọc ngoài ranh với xó hè.
Nay trồng giữa chợ rạng danh me”,
Bởi vậy, người khó tánh, nếu tình cờ gặp me gốc nào quả tốt, cổ quái thì họ trồng riêng, để ngoài xa, bên lu nước hay ngoài vòng rào. Cây me thuộc vào loại phó thường dân!
- Cây khế có ưu điểm là tròn trịa, vui tươi, đến mùa thì trổ bông lấm tấm trắng đỏ và kết vài trái, tuy bị nuôi thúc trong chậu. Nhưng vẫn bị chụp mũ là loài phàm, chưa đáng ngồi chung một chiếu với bọn quân tử.
Theo ý kiến chúng tôi thì me và khế chỉ có một tội duy nhất là sanh trái chua. Ông bà ngày xưa răn dạy kỹ lưỡng, không cho con cháu cúng kiếng với canh chua, chuối già, khoai lang và vài món nữa.
Dường như theo người xưa nói lại, thì ma quỉ sẽ tìm tô canh chua mà rửa ráy nơi dơ dáy nhất của bọn chúng, mặc dầu tô canh ấy để trong mâm, trên bàn thờ, bọn chúng cũng trèo lên mà làm chuyện vô lễ.
Còn đậu đỏ, khoai lang... đều nhập cảng qua Việt Nam, ngày xưa theo kiểu mấy người buôn lậu giấu đút á phiện hoặc hột xoàn để qua mặt nhơn viên quan thuế. Tục truyền rằng phen ấy, vị sứ giả Việt Nam qua để triều cống, chuyến về, ông ta lén ăn cắp vài hột đậu, giấu trong hậu môn, lén cắt một cọng rau lang còn tươi, quấn chung quanh lưng quần. Nhờ vậy, khi qua ải, lính Tàu không bắt gặp. Khoai lang, đậu... đã nhiễm mùi xú uế từ đó ở đất ta.
Kiểng uốn theo thiên hình vạn trạng, miễn là cân đối, đẹp - sự cân đối và vẻ đẹp linh động của thư pháp tức là phép viết chữ nho.
Chữ nho có một nét, hoặc hàng chục nét lăng nhăng, mỗi chữ lại có thể viết rõ nét hoặc viết tháo (thảo) khi mới tập viết, kẻ thư sinh xếp giấy ra từng ô vuông mỗi chữ nhiều nét hoặc ít nét đều nằm gọn, thoải mái trong cái hình vuông tưởng tượng ấy.
Nét thẳng ngang - như chữ nhứt, làm thí dụ có thể nằm hơi xiên, bên to nét bên nhỏ nét mà vẫn cân đối trong cái ô vuông. Và phép viết chữ nho bắt buộc người viết phải tìm cái đẹp với lắm công phu, để đạt tới cái đẹp hồn nhiên, mới xem qua thì dường như dễ dàng.
Những lằn nét trong cây kiểng, toàn thể cây kiểng là một chữ nho năm bảy nét, hàng chục nét nằm trong cái ô hình chữ nhật, hình bầu dục hoặc hình tròn, bát giác, lục giác.
Người chơi kiểng thường câu nệ ở nguyên tắc gọi nôm na là chấm, phết.
Chấm, phết tức là thêm bớt để giữ cho tòan bộ cây kiểng được quân bình. Hễ cắt một nhánh nhỏ phía bên này thì phía bên kia phải có một sự thêm bớt tương xứng.
Người Trung Hoa bày ra những kiểu viết: chân thảo, lại còn chữ triện, chữ lệ.
Chữ nho viết thảo, tức là viết nhanh, tiết kiệm động tác, giảm bớt những nét không cần thiết vẫn đẹp, dễ đọc. Nhưng nó đòi hỏi sự khéo léo thần lực của ngòi bút. Cây bút, lúc viết thảo, trở thành lưỡi kiểm Lưu Cầu.
Nhiều cây kiểng gợi hình ảnh một chữ viết thảo, gốc và nhánh thì xơ rơ, còi cọc nhưng mạnh bạo, ngạo nghễ.
Cây mai ở bên Tàu được thi nhân nhắc tới, nó có hương thơm, cành mọc đâm ngang. Nhứt định là cây mai của thi sĩ Tàu khác hẳn cây mai (loại huỳnh mai, mai chiếu thủy) ở xứ ta.
Người Trung Hoa thích cây mai ở hương thơm và dáng điệu. Cây mai bên Tàu có cành đâm ngang, không cần uốn, theo dáng chữ nữ. Cây mai ở xứ ta thì mọc thẳng.
*
Cây kiểng đẹp ở thể đứng.
“Thế” là gì?
Là sự sống, là động tác, phát huy đến mức cao tột.
Là sự trang nghiêm! Trang nghiêm không có nghĩa là uể oải, thụ động, bịnh hoạn. Người ta kính nể sự trang nghiêm của nhà hiền triết, của ngôi chùa vì nó chứa đựng nhiều sinh lực, nhiều tiềm lực.
Rồng bay phượng múa là đề tài bất hủ, vì nó biểu diễn cái thế hùng mạnh, tự nhiên của hai con rồng tranh nhau một trái châu hoặc con phượng và con hoàng đang giao duyên.
- Võ sĩ Nhựt cầm gươm, đứng yên, mắt không chớp. Đó là cái thế của đống thuốc súng sắp nổ.
Hễ con rồng hả miệng giận dữ thì móng, vảy và đuôi, chân trước chân sau của nó đều biến hóa.
Con cá lội, khi sóng dậy ầm ầm xao động mặt nước thì đuôi, kỳ, phướng của nó nghiêng qua, uốn lại giữ thế quân bình, nó phải kháng cự với ngoại cảnh.
Nhiều người nói nửa đùa nửa thật rằng môn đánh cờ tướng rất bổ ích, nó đào luyện trí óc, giúp cho con người trở nên linh hoạt, sẵn sàng ứng phó với mọi tình thế bất trắc, mới lạ. Nó dạy về chiến lược chiến thuật.
Nhưng hỡi ơi! Nếu bàn cờ tướng giống như mặt trận “Hán sở tranh hùng”, nếu quân cờ có những tướng sĩ tốt xa pháo, nếu quyển “Tượng kỳ bí quyết” được so sánh binh pháp Tôn Tử thì chúng ta cũng đã thấy nhiều bằng chứng cụ thể:
- Ông tướng đánh giặc giỏi ở mặt trận có thể là người giỏi về cờ tướng.
- Được liệt vào hàng kỳ vương - chưa ắt là kẻ dám cầm súng, dám xuất trận. Lắm khi, họ sợ tiếng súng hoặc tìm mưu kế, chuẩn bị tinh thần trước khi xáp chiến... bằng cách tiêu thụ vài liều thuốc phiện.
Cai trị là tiên đoán tình thế.
Nhưng cai trị dân khác với đánh cờ, mặc dầu bí quyết của chiến thắng trong ván cờ vẫn là tranh thủ, lấn đối phương bằng một hay hai nước chiếu bí. Hai bên đều tiên đoán, bên nào đi nhanh là bên ấy thắng.
Rõ ràng là cái bàn cờ tướng, thế cờ tướng khác hẳn cuộc đời với những gay go bất trắc vì sinh kế về tình cảm.
Người giỏi về cờ tướng chỉ khôn lanh, ứng phó giỏi, thông minh, sáng suốt... trong phạm vi bàn cờ thế thôi.
Chuyện giải trí cá nhân, thiền về kỹ thuật khác hẳn với chuyện xã hội. Đó là năng khiếu riêng, chẳng dính dáng gì đến việc cày cấy, làm ra cái bàn, cất nhà.
Người giỏi về bóng bàn, đỡ gạt một cách hiệu quả những cú hiểm hóc của đối phương chưa ắt là kẻ lanh lẹ, đỡ gạt kịp thời những đòn phép về ái tình, nói chi đến việc tranh thương, việc kinh doanh.
Người ưa chơi kiểng chưa ắt không màng danh lợi hoặc xem thường cái chết. Hòn non bộ là cảnh Non Bồng, Nước Nhược, chỉ có ở cõi đời này do con người xây đắp nên. Người chơi kiểng hiểu rành như thế, họ không tin vào chốn Non Bồng, Nước Nhược mà họ sẽ đến khi chết, theo lời cầu nguyện của bạn thân.
Chơi kiểng vì kiểng đem niềm vui đặc biệt, khác với rượu, cờ bạc, khác với mỹ nhân. Cây kiểng không phản bội.
Người còn hăng sức, đang nhập thế nhưng không thỏa mãn với công việc khô khan, làm việc như cái máy hằng ngày, mãn giờ làm việc là họ siêu thoát, sống trong thế giới riêng với rượu, cờ bạc, hoa kiểng. Họ muốn sống... cho họ, gọi là tự chủ.
Tự chủ là làm vua một cõi, làm chuyện mình thích, làm chuyện mà mình cho là sáng tạo đề bù trừ lại những chuyện làm bất đắc dĩ, bất dắc dĩ nhưng vẫn làm vì sanh kế. Bởi vậy, ta không nên nghi ngờ thiện chí đầu tiên của vai nhà mại bản, vài ông chủ phố, giám đốc công ty xuất nhập cảng nào đó, bỗng dưng mà các ông nổi máu văn nghệ, rước thầy về để học đờn tranh, học thổi sáo, chơi kiểng. Hoặc các ông đâm ra làm thơ, làm báo.
Dưới gốc kiểng hay trong hòn non bộ, thỉnh thoảng chúng ta gặp tượng Phật Thích Ca, Phật Bà Quan Âm dưới gốc bồ đề. Nhiều người ngẫu hứng đã bố trí một hang đá nhỏ, với máng cỏ và đức Chúa Hài Đồng! Một hòn non bộ lắm khi có đủ Phật, Chúa Ki-Tô đúng là không khí của Thông Thiên Học. Đừng ai thắc mắc, đòi hỏi chủ nhơn giải đáp hoặc đem kinh sách, giáo lý ra chất vấn ông ta. Ông ta muốn như vậy là bố trí như vậy.
Lắm khi trong hang đá lại xuất hiện con cọp, nhà hiền triết bất mãn đang suy tư hoặc ngủ khò. Nhà hiền triết bằng đất nung nằm vắt chân chữ ngũ, nằm kín đáo trong hang. Con cọp thì rình mò nhưng chưa xông vào ăn thịt người. Hay là con cọp nọ chán đời, bất mãn nên cúi đứng im, soi vào gương nước!
Ở quê tôi, có ông cai tổng rất bậm trợn. Tôi kể chuyện đời Pbáp thuộc, lúc tôi còn bé. Ông cai tổng này chạy chọt rất giỏi, nịnh hót quan tham biện chủ tỉnh, được thăng chức huyện hàm, được ban đôi ba thứ mề đay và sợi dây tam sắc. Nghe đâu ông tốn rất nhiều tiền để vận động những chức tước, huy hiện ấy và khi hầu hạ quan trên, ông khoanh tay với bộ áo dài cổ truyền và cái khăn đống “Suối Đờn”.
Mỗi ngày, ông cai tổng dạo kiểng xem huê hai lượt, buổi sáng buổi chiều, ông chống cây “ba-ton”, đứng hàng nửa giờ để ngắm cái hòn non bộ đầy đủ ngư tiều canh mục, chùa chiền, tháp, hang động với phật tiên.
Là người thông minh, biểt ứng phó thời cuộc lúc bấy giờ, biết chữ nho lai rai, nhứt định là ông biết mình làm những gì: nước mất về tay thực dân Pháp, ông đã hưởng bổng lộc, công danh. Và ông cũng xa lánh bổng lộc công danh, khi thả hồn vào cái thế giới xem nhẹ công danh xem thế sự là phù vân của gốc kiểng già của hòn non bộ. Nước mất về tay kẻ khác, nhưng cái hòn non bộ, cái Bồng Đảo lại hoàn toàn về tay ông, do ông làm chủ.
Cái hòn non bộ nằm trong sân, giữa sân rộng rãi, chung quanh nhà có vòng kẽm kiên cố. Một hai người đứng nhìn lén vào thì ông bỏ qua, nhiều người nhìn lén thì ông nổi giận, nhứt là khi ông đang ngắm hòn non bộ mà có năm bảy đứa con nít bàn tán, chỉ trỏ vào.
Hồi đó, tôi cho rằng ông khó tánh, ích kỷ sợ trẻ con lén vào sân để gỡ mấy cái chùa nhỏ bé, mấy ông tiên, ông tiểu bằng đất. Tôi đã lầm to.
Ngắm kiểng, ngắm hòn non bộ là siêu thoát thả hồn vào thế giới riêng, linh động, vui tươi, một thế giới trường sanh bất tử của nàng Giáng Tiên Giáng Kiều, của chư Tiên chư Phật, ở ngoài càn khôn.
Nhưng đây là thế giới tưởng tượng, trừu tượng chập chờn của ảo giác như Trang Chu ngỡ mình là một con bướm với đôi cánh to như cái bánh xe.
Thả hồn phiêu lưu vào cái vũ trụ riêng tư ấy là động tác tách rời xã hội, kín đáo, cần được che giấu như trường hợp đôi tình nhân âu yếm bên nhau. Phải có bóng tối chập chờn, công viên hoặc bãi biển phải vắng người.
Aí lại ngắm kiểng ngắm hòn non bộ được trong khi có năm ba người nhín chòng chọc, xoi mói? Như vậy là cụt hứng vì đời tư - hay nói cho văn hoa hơn là đời sống tinh thần, phút thoát trần siêu hình bị xúc phạm rồi! Cụt hứng vì ngượng ngập, hơi bẽn lẽn.
Đạo sĩ luyện linh đơn hoặc thầy pháp luyện “thiên linh cái” bao giờ cũng làm việc ở nơi hẻo lánh, bí mật, không cho người hàng xóm hoặc nhà cầm quyền hay biết.
Dùng thái độ xa rời xã hội, xa thực tế để bù trừ lại lúc dấn thân vào xã hội. Như vậy là quân bình chăng?
Tại sao cần bù trừ? Ngắm kiểng là hành động giả tạo, tự đối lòng hay là lúc giao thiệp với người chung quanh, lúc tranh giành đồng tiền chén cơm ta đã làm những chuyện bất đắc dĩ, có lợi cho ta nhưng có hại cho kẻ khác, ta đã dối ta.
Hay là trong lúc giành chén cơm manh áo, ta đã bị lấn hiếp, bị đọa đày, bị xé nát nên khi về nhà ta ngắm non bộ để xoa dịu vết thương lòng, trở lại với vũ trụ, với khí âm khi dương, với đại khối?
Lúc tập Yoga, người ta làm nhiều động tác quái đản, trồng chuối ngược, dộng đầu xuống đất, đưa chân lên trời hoặc ngồi tréo tay tréo chân như bị trói.
Ngơởi tập Yoga chắc không thích cho ai chụp ảnh, ngoại trừ trường hợp biểu diễn để đăng báo, làm quảng cáo.
Ngắm kiểng cũng vậy. Đó là hoạt động ngoài xã hội, riêng tư. Nếu chụp ảnh thì chủ nhơn khó giữ gương mặt tự nhiên. Chủ nhơn chỉ có thể giả bộ cầm cây kéo để cắt nhánh cây, hoặc đứng gần gốc kiểng, nhìn vào máy ảnh. Có lẽ khi đăm chiêu nhìn vào gốc, thả hồn theo giấc mơ của Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai gương mặt con người trở nên ngây ngô, hơi đần độn, chụp ảnh lúc đó thì xấu xí quá. Muốn chụp thì nên có sự “dàn cảnh” cho hợp với khán giả, với xã hội. Bằng không thì bức ảnh của người ngắm kiểng sẽ hơi buồn cười. Chủ nhơn đang sống bằng trực giác, thả hồn chơi vơi bởi vậy cái phần xác dường như tê liệt, như con ếch nằm “mà” dưới hang, như người ngủ gục, người đang đi thiếp, đang sai ma. Lúc ấy chủ nhơn đang sống nửa tiên nửa tục, nhưng quả thật là tục, dường như ông ta đang suy gẫm cái triết lý gì cao siêu lắm nhưng thật ra cái triết lý ấy hơi nhàm. Và ông ta đang ngồi trên mặt đất nầy chớ không phải ở chốn Đào Nguyên, ông ta sống chân thật với mình nhưng lại đóng kịch
Đó là trạng thái lẩm cẩm. Người ghét kiểng và người yêu kiểng đều nhìn nhận sự lẩm cẩm ấy. Đã lẩm cẩm thì khó diễn đạt, khó định nghĩa. Định nghĩa chữ “lẩm cẩm” hóa ra lẩm cẩm luôn.