← Quay lại trang sách

- 4 -

Kiểng đánh dấu thái độ tự túc tự mãn của con người khi nắm vững nông nghiệp với kỹ thuật thô sơ. Cây kiểng trở thành biểu tượng (symbole), người ia uốn cây kiểng tiêu biểu cho tam cang, ngũ thường, tam tùng tứ đức. Vì là nghệ thuật cổ điển nên qui tắc rất chặt chẽ, muốn được chấp nhận thì cân tuân theo những kiểu mẫu sẵn có, mô phỏng trở lại như thơ bát cú với niêm luật bằng trắc.

Việc thám hiểm trên phương diện nào đó, là hành động giúp con người tìm tự nhiên, trở về vũ trụ: đến hoang đảo, đến giữa biển để nhìn sóng nước, thử đặt chân lên vùng băng tuyết miền Nam cực hoặc sờ mó vào mõm đá ở chót Hy Mã Lạp Sơn, lặn xuống biển, tìm hang động... Sóng nước, băng tuyết chỉ làm xúc động người thám hiểm khi nó chưa được ai nhìn tới lần nào. Người thám hiểm còn tò mò tìm những bộ lạc bán khai mà chưa người văn minh nào tới khảo sát. Người ta đòi hỏi sự trinh nguyên. Niềm vui sướng tột độ của người chơi kiểng là thấy một mầm non, một cọng rễ mọc ra đúng nơi đúng lúc, theo sự bố trí từ trước. Cọng rễ và mầm non ấy là sự sáng tạo riêng của chủ nhơn. Người ngoại cuộc có thể trông thấy cái mầm ấy nhưng nó nẩy ra không phải vì sự ao ước và sự bố trí của họ.

Mỗi dân tộc lập huê viên, tạo vườn kiểng theo một kiểu riêng ở chung quanh lâu đài hoặc nơi nghỉ mát của vua chúa: những bồn bông, những hàng cây thẳng tắp với bồn nước. Những chánh thể kế tiếp luôn luôn nghĩ đến việc bảo vệ các di sản văn hóa này vì nó tiêu biểu cho “dân tộc tính”.

Bên Pháp, vài “câu lạc bộ” đặc biệt đã thành lập, thu thập nhiều hội viên yêu chuộng thiên nhiên và... nếp sống khỏa thân. Họ dùng thuyền máy, đến cắm trại tại góc hải đảo nào đó để sống bằng thích với mặt trời, sóng biển. Nhưng đó là những người... đời Bàn Cổ biết mang kiếng đen, ăn đồ hộp, uống rượu bọt.

Đáng ca ngợi nhứt là vài chàng trai dùng bè hoặc thuyền buồm cỡ nhỏ vượt Đại Tây Dương hoặc đi vòng quanh thế giới. Gặp lúc nguy nan, họ kêu cứu, với cái máy phát thanh nhỏ.

Họ ôm ấp cái mộng chinh phục không gian. Ra giữa biển, họ sống lại bằng tưởng tượng những phút huyền diệu của con người đầu tiên nhìn mặt trời vừa mọc trên biển cả. Mặt trời đầu tiên, biển cả đầu tiên của con người.

Thoát ly thực tế, sống bằng tưởng tượng là phản ứng tất yếu trước cảnh ngộ không được như ý. Con người muốn bài trừ những thiếu sót, phản kháng nếp sống giả tạo. Nên đề cập đến trường hợp người già, sống mãn nguyện, được xã hội ưu đãi. Đáng lý ra thì họ hài lòng nhưng họ vẫn bất mãn vì cuộc đời quá ngắn ngủi, thân xác con người bị hao mòn với tuổi tác và họ không được sống lâu mãi mãi để hưởng công danh phú quí.

Họ run sợ trước luật vật đổi sao dời, hữu hình hữu hoại.

Vì vậy họ chơi kiểng.

Thanh thiếu niên Âu Mỹ lúc sau này đã bất mãn, nổi loạn người ta giải thích rằng họ bất mãn vì quá đầy đủ về vật chất. Có thật như thế không? Hay còn lý do nào khác?

Lúc bất mãn, họ không chơi kiểng và nếu gặp ai lui cui chăm sóc chậu kiểng thì ắt là họ xem thường, hoặc nhổ cây kiểng quăng bỏ. Lứa trẻ này gào thét sự cô độc với “khoảng trống sau lưng và bóng tối trước mặt” và cây kiểng kết tinh không gian, thời gian không trị nổi cơn bịnh. Dường như họ thích uống rượu vì men rượu giúp con người thoát ly thực tế; người, cây cối, viên sỏi đều giống hệt nhau, con người quên nơi mình đang đứng, quên ngày tháng, tên tuổi và trở thành “cây kiểng cổ quái” dưới mắt người không say. Lúc say, con người sống trong thế giới riêng, ngăn cách với xã hội thực tế. Khi tỉnh rượu, con người bèn cười để chế giễu lấy mình.

Tại sao ngủ giường nệm, có máy thâu thanh, ghi âm, truyền hình, có xe đua, máy ảnh, có tình nhân mà các cậu lại bất mãn? Ngành xã hội học, tâm lý học, ngành thống kê, phân tâm học phát triển mạnh để theo dõi, bắt mạch những con bịnh ấy,

Ngày nay, con người đóng vai trò nhỏ bé trong bộ máy xã hội, mỗi người làm một công việc lụn vụn nên cảm thấy cô độc, tách rời khỏi đồng loại. Thí dụ như anh thợ cắt giấy ở nhà in. Anh ta cứ ấn nút cho lưỡi dao ăn xuống, hết mớ sách này đến mớ sách khác, hết giờ làm việc thì về nhà. Anh ta chỉ có trách nhiệm là cắt cho ngay ngắn, theo tốc độ qui định sẵn để ăn khớp với những cái máy xếp giấy, đóng xếp giấy ấy thành quyển sách, quyển sổ. Mớ giấy do anh ta cắt sẽ dùng vào việc gì? Nếu là quyển sách thì dày bao nhiêu trang, nội dung đề cập tới chuyện chi? Viết và in cho ai đọc? Đem bán ở đâu? Với giá bao nhiêu? Toàn là những vấn đề mà bản thân anh không được quyền quyết định! Đó là chưa nói tới trường hợp mớ giấy ấy sẽ vô dụng, trở thành quyển sách xấu xí vì sự sơ xuất của người thợ khác.

Anh thợ làm việc với nhiều bạn, cùng chung một ngành. Bạn bè cười vui với anh, bắt tay anh lúc vào sở, lúc ra về hoặc cụng ly với anh, buổi chiều thử bảy, xem ra thì ấm cúng lắm nhưng gẫm lại là phép xã giao hời hợt. Nhà anh ở một xóm ngoại ô, bên cạnh những người làm nghề khác. Con cái anh, vợ con anh thì sống chung đó nhưng vợ lo nghĩ đến áo quần, đến phim ảnh, con thì đọc truyện bằng tranh về cao-bồi phiêu lưu.

Thầy giáo dạy dỗ con anh. Vợ anh lại ăn mặc mua sắm theo phong trào, bắt chước các bà láng giềng. Đã bất lực trong gia đình, anh lại càng bất lực trong xã hội: chánh phủ này lên, ông bộ trưởng kia từ chức, đồng tiền bị phá giá hoặc lên giá, Do Thái đánh với Ai Cập, Trung Cộng thử bom khinh khí... là điều mà anh không thể nào can thiệp được, mặc dầu anh là công dân trong nước, là con người trong khối nhân loại.

Hoàn cảnh làm việc manh mún ấy khiến anh ta bất mãn, tìm cách thoát ly thực tại. Những người “minh triết” đã nhắc nhở anh:

- Cứ hưởng thụ, đừng thắc mắc gì cả!

Câu ấy có thể hiểu ngầm rằng:

- Ăn xôi cho no rồi ngậm miệng!

Hoặc nó trở thành một mạng lịnh sắt đá:

- Đừng làm chánh trị, đừng làm cách mạng lôi thôi gì cả. Nhiều “chuyên viên” về chánh trị, về cải cách xã hội đã làm giùm anh rồi. Cứ hưởng thụ trong cộng đồng xã hội.

Cái nhu cầu hòa mình vào nhân loại, sống gần thiên nhiên, sống thênh thang trong vũ trụ được các kỹ nghệ gia khai thác triệt để, đem bán sẵn. Muốn gần gũi vũ trụ thì tung tiền ra mà mua.

Giờ làm việc trong hãng xưởng đã rút ngắn, ngày làm tám giờ, bị tai nạn thì có bồi thường, mỗi năm được nghỉ mười ngày mà vẫn lãnh lương. Ở các nước kỹ nghệ tiền tiến, bao nhiêu yêu sách căn bản nêu ra hồi thế kỷ 19 đều được thỏa mãn phần nào đối với giới thợ thuyền. Do đó, họ được rảnh rỗi. Lúc rảnh rỗi, người ta được quyền hưởng thụ để thâu hồi sanh lực, đuổi xua mệt mỏi.

Thời giờ nhàn rỗi đã có. Tiền bạc cũng có lai rai. Người ta gọi đó là bước đầu của nền “văn minh nhàn rỗi”. Để phục vụ thân chủ quí mến, các hãng buôn bày ra thể lệ mua trả góp. Người nhàn rỗi luôn luôn leo thang về hưởng thụ, lần lần họ ao ước sắm máy điều hòa không khí, sắm xe hơi hoặc sắm những máy hát mới. Muốn trả nợ, họ đành tự nguyện làm việc thêm những giờ “xúp”. Họ tự bóc lột họ.

Khai thác sự nhàn rỗi là ngành kỹ nghệ quan trọng: người ta bán những máy thâu thanh, máy hát dĩa, máy truyền hình, cất thêm nhiều rạp chiếu bóng, quán rượu, hộp đêm. Rốt cuộc, con người nhàn rỗi suốt ngày lo lắng để trả nợ, để được nhàn rỗi thêm. Càng nhàn rỗi thì càng nhức đầu nhức óc để mua sắm.

Máy móc không thay thế thiên nhiên được. Thiên nhiên đem cho ta niềm lạc quan, từ nội tâm tỏa ra. Máy móc chỉ hấp dẫn tạm thời rồi trở nên nhàm chán. Mua cái máy ghi âm, thâu vô, phát ra, kéo nút tự động này, nhấn nút tự động kia chừng vài chục lần là thấy cái máy không có gì mầu nhiệm, nên bán để... mua cái máy khác tinh xảo hơn. Màn ảnh cũng vậy, vào rạp hát trở thành thói quen để giết thời giờ, ngủ lim dim vì tuồng này gần giống như tuồng kia nhưng hơi khác nhờ kỹ thuật quảng cáo, nhờ “đào kép mới”. Du lịch trở thành ngành thương mãi, thầu khoán: gặp thắng cảnh, được giải thích, nhìn sơ qua rồi vào quán trọ rồi lại đi, chụp vài kiểu ảnh, để đến mục tiêu cuối cùng là trở về nhà, thuật lại những hình ảnh giai thoại mà báo chí đã nói nhiều rồi. Nghe hát trong dĩa, tuy thoải mái nhưng là thụ động, chẳng bù đắp lại các nhu cầu của nội tâm là chủ nhơn phải ca, phải hát để bày tỏ nỗi lòng với trời đất.

Mỗi người, mỗi gia đình đều được trang bị châu đáo. Người lớn được chăm sóc không kém gì đứa bé, phòng ngủ là nơi êm ái, sạch sẽ như cái nôi, “tiền là có tất cả. Thiên nhiên trở thành món hàng, theo lời các quảng cáo viên: mua cái tủ lạnh là mua một hòn đảo trinh nguyên ở miền Bắc Cực, chai dầu thơm là giấc mơ của nàng tiên ngủ trong rừng, kem đánh răng là hơi mát của rừng thông, chai nước suối là trăng rằm nhốt trong chai, đậy nút cẩn thận, cái đồng hồ đeo tay là đóa hoa ở đáy biển hay trên chót núi (vì người thám hiểm đã mang theo đến đó). Viên thuốc trị bịnh táo bón trở thành thứ linh đơn “cải lão hườn đồng”, vân vân...

- Chúng ta sung sướng lắm rồi. Mục đích của đời sống là tìm thấy hạnh phúc, chúng ta đã thấy hạnh phúc cá nhân. Chân trời đang mở rộng: nay mai, con người chỉ cần làm việc mỗi ngày chừng 4 giờ, 20 giờ còn lại thì tha hồ mà hưởng thụ. Đòi hỏi gì nữa? Con người sẽ lên mặt trăng, sẽ trị được bịnh ung thư.

Nhưng một số đông người – nhứt là giới trẻ ở Âu Mỹ - đã phản đối lại:

- Văn minh nhàn rỗi là văn minh thiếu nhơn tính. Phải làm cách mạng xã hội, không chấp nhận thứ “cách mạng kỹ thuật” thay thế loại dầu thơm này, loại máy chụp ảnh kia bằng những kiểu khác. Văn minh nhàn rỗi đã tạo ra những con người thụ động, cười tươi để che giấu sự ích kỷ, sống theo công thức, theo thời trang, giống như những đứa hài nhi to xác (grand bébé) ăn mặc sạch sẽ, nhút nhát, thiếu bản lĩnh, thủ cựu và đạo đức giả.

Bọn người ngoan ngoãn kia lại trả lời:

- Chúng bây chỉ biết đập phá. Thời buổi này,

nhân loại tiến xa rồi, không còn ở giai đoạn cách mạng đổ máu nữa. Chúng bây ganh tị, lười biếng, muốn hưởng thụ nhưng giả vờ “đạo đức gương mẫu”, khổ hạnh. Ăn không được, chúng bây đập phá chớ thật ra chúng bây thích ăn. Đừng xúc phạm sự tự do và quyền sống của kẻ khác!

Bạn trẻ nổi loạn đáp:

- Đó chỉ là tự do làm tình ái và quyền sống

Để thỏa mãn xác thịt. Nhưng lçàm tình bừa bãi lại là phi nhân vì nó khiến con người cô độc hơn, gặp nhau trong nhục dục nhưng chẳng ai thật lòng yêu ai cả. Như vậy là xa nhau, tách rời nhau, lúc yêu đương.

“Phi nhân” tức là không hợp với... lẽ trời, với đạo lớn của Lão Tử, tức là phản nghĩa vởi thiên nhiên.

Bây giờ thử nhìn thẳng vào nước ta, tại đô thị, lúc máy bay to, máy bay nhỏ bay không ngớt trên trời và tiếng súng, tiếng bích kích pháo nổ rền.

Người chơi kiểng, ngắm non bộ chiếm một tỷ lệ bé bỏng so với dân số chen chúc ở đô thị. Nhưng không nên căn cứ vào bản thống kê đó mà kết luận rằng đa số người còn lại sống sát thực tế, tắm trong thực tế nóng hổi.

Chơi kiểng chỉ là một trong nhiều hình thức thoát ly thực tế. Người ta ít chơi kiểng vì đã có nhiều trò chơi khác, hấp dẫn hơn, Ông Từ Thức, chàng Lưu Thần Nguyễn Triệu ngày xưa mặc áo dài, mang búi tó củ hành, đi bộ. Ngày nay, Từ Thức và Lưu, Nguyễn mặc áo ni-lông, đi giày, chạy xe gắn máy. Đặc biệt nhứt là có thêm nhiều phụ nữ đóng vai Từ Thức (xin lỗi)! Các cô, các bà

muốn được sống “nửa năm tiên cảnh, một bước trần ai” trong cái thế giới đầy tiện nghi nào xe du lịch, nào biệt thự với những ông hoàng tử trẻ mãi không già.

Ở nông thôn, hằng ngày đối diện với cái chết, tâm trạng con người ra sao? Điều chắc chắn là mấy chậu kiểng xưa và quí ắt đã tan xác, khô lá rồi. Chủ nhơn bận rộn với nhiều vấn đề khác, cấp bách hơn. Mạng người là quí. Làng mạc, đồng lúa, bụi chuối, ao nước - cái thiên nhiên do con người xây dựng từ bao thế hệ càng quí hơn.

Người nông dân ra thành thị lúc chiến tranh đang tiếp diễn đã gặp khung cảnh lạ. Nếp sống bị xáo trộn. Nhiều ông lão sống ủ rũ để chờ ngày thanh bình rồi về nhà quê cho bớt nhức đầu nhức óc. Con cháu trở nên xa lạ với các ông. Kinh nghiệm đối nhân xử thế, luân lý gia đình của thời xưa trở nên lỗi thời, vô ích. Khi các ông ngồi ngắm kiểng, người ta cho rằng đó là “vang bóng một thời”, hình ảnh đẹp lắm nhưng cái đẹp ấy chỉ nên đăng báo, đưa lên đài truyền hình mỗi năm nhiều lắm là một lần, vào dịp gần Tết. Hoặc đưa hình ảnh ấy với nước ngoài để giới thiệu “văn hóa cổ truyền”.

Cây kiểng và hòn non bộ đã chết, chẳng còn đóng vai trò “dưỡng tánh tình” như hồi xưa.

Nhìn phớt qua, có người giải thích cái chết ấy như sau:

- Chơi kiểng đòi hỏi thời giờ rảnh rỗi.

- Chậu kiểng đòi hỏi nơi rộng rãi, đủ sương nắng,

Sự giải thích ấy hơi gượng gạo, giống như sự giải thích cũng gượng gạo của mấy ông lão khi gặp con cái phản ửng:

- Tụi bây quên lễ nghĩa, bất hiếu. Ra chợ búa để làm ăn, tụi bây lần hồi quên... ngọn rau tấc đất!

Người thành thị nếu gặp dịp rảnh hoặc dư giả chút ít tiền thường đến quán nhậu, ngồi lân la với bạn bè hằng đôi ba giờ, lắm khi họ nhậu từ chín giờ sáng đến giờ thiết quân luật. Như vậy là thời giờ nào quá bận rộn, nhậu nhẹt tốn thời giờ như... cờ bạc, một chứng bịnh mà nhiều người mắc phải. Khách sành điệu thường tìm tòi món ăn đồng quê, rừng rú: lươn, ếch, rắn, nai, heo rừng để thay cho cá mòi hộp, thịt heo, cá biển, cải bắp mà ho ăn ở nhà. Chiếc xe gắn máy, cái máy truyền hình chiếm khoảnh đất to hơn chậu kiểng và tốn kém tiền bạc hơn nhiều. Nếu quả thật chơi kiểng là nhu cầu thiết yếu, chúng tôi tin rằng dân đô thành sẽ phá một góc nhà hoặc đúc cái sân nhỏ rất dễ dàng.

Kiểng không được phổ biến vì lý do sâu xa hơn. Kiểng là Thiên Nhiên, là Bồng Lai Tiên cảnh, là giấc mơ siêu thoát giúp con người tạm quên cuộc sống nhọc nhằn. Nhưng “hiệu năng” của kiểng quá yếu ớt, lạnh lẽo. Cảnh Bồng Lai mà gốc kiểng gợi ra thật là… mơ hồ, khó tin.

Đã có một “món” khác sống động hơn cây kiểng, hấp dẫn hơn, công hiệu hơn. Đó là đàn bà, là hình ảnh khêu gợi của thần tượng mới...

Đệ nhứt thi hào Việt Nam là Nguyễn Du đã viết, trong Kim Vân Kiều:

- Rõ ràng trong ngọc trắng ngà.

Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.

Một tòa thiên nhiên với thu thủy, xuân sơn, mây là tóc, tuyết là da, mai là cốt cách, khuôn trăng đầy dặn, hoa cười ngọc thốt...

Gần người đẹp, bọn đàn ông cảm thấy lâng lâng như siêu thóat vào chốn Bồng Lai tiên cảnh.

Thời xưa, đàn bà con là món giải trí của vua chúa, quan lại, phú thương, rất dễ kiếm. Vua tuyển hàng trăm cung phi, ông quan bực trung mua hàng chục hầu thiếp trẻ măng. Lúc thiên tai hạn hán, dân nghèo đem con gái giao cho chủ nợ. Đàn ông chỉ cần gìn giữ nuôi nấng người chánh thất và bầy con do bà này sanh ra để mà nối dõi tông đường, gìn giữ gia tài. Đối với hầu thiếp thì họ tha hồ thay đổi, sắm thêm hoặc phế thải (như ngày nay người ta thay đổi chiếc xe gắn máy, cái máy ghi âm lỗi thời, còn xài được nhưng kiểu mẫu không theo kịp cuộc “cách mạng kỹ thuật” xảy ra thường trực).

Mỹ nữ là thiên nhiên, nhưng là thiên nhiên phàm tục, theo quan niệm xưa. Ngoại trừ những mối tình ngoại hạng của tài tử giai nhân (như Trương Quấn Thụy và Thôi Oanh Oanh trong Tây Sương Ký) thì việc làm tình chẳng có gì để ca ngợi quá đáng hoặc phô trương. Người xưa gọi tổng quát là “việc mây mưa” không mô tả chi tiết. Nàng hầu, tì thiếp là món trang trí lẩm cẩm trong nhà, mấy cô nàng lo việc pha trà đãi khách, tưới mấy chậu lan, bơi thuyền hái sen...

Bởi vậy, người xưa nếu muốn sống trọn vẹn, hòa mình vào thiên nhiên thì chơi kiểng. Ông lão sáu mươi tuổi vẫn chơi kiểng, chơi hòn non bộ mặc dầu cô hầu non và cô này sanh đứa con đầu lòng mới được một hai tuổi với ông ta.

Thuở ấy, đàn bà chưa lên ngôi thần tượng, chưa là “tất cả”. Tình ái chưa được xem là hành động sấm sét, thiêng liêng (vì thiêng liêng nên cần được mô tả tỉ mỉ từng cử chỉ) tiêu biểu cho quyền tự do, sống cho đáng cái sống!

Ngày nay, đàn bà đã truất phế cây kiểng. Nàng là Thiên Nhiên, là tất cả. Cây kiểng trở thành món trang trí lẩm cẩm, làm tăng vẻ đẹp cho cái gian nhà, đóng vai trò người tì thiếp ngày xưa. Những cành hoa bằng chất dẻo hầu hạ cái máy truyền hình, đứng trên nóc tủ rượu hoặc cái tủ lạnh.

Kinh nghiệm về cách làm ăn, về cách dưỡng tánh tình của mấy ông lão không được bọn trẻ nghe theo. Bọn trẻ biết phục thiện lắm nhưng hỡi ôi, ở thành phố, lúc văn minh Tây Phương tràn ngập thì điều mà các cụ răn dạy lại giống như bài thuốc “đau Nam chữa Bắc”. Ở nông thôn, có tiền là chưa đủ, phải có thêm láng giềng gần, phòng khi tối lửa tắt đèn. Ở thành thị, tiền là tất cả: Những việc ma chay tẩn liệm, sanh đẻ, tiệc tùng lúc cưới hỏi đã trở thành những dịch vụ, có thể mướn - bạn bè cứ giúp tiền bạc mặt là xong tất cả. Trước Đệ nhị Thế chiến, thành phố tuy Tây Phương hóa nhưng là đợt một, giờ đây việc Tây Phương hóa mang nhiều tính chất mới lạ hơn. Người lớn tuổi, sống nhiều năm ở Sàigòn vẫn khó lòng điều khiển bầy con cháu. Đây là giai đoạn “trang bị cá nhân”, giai đoạn cá nhân hưởng thụ. Nhiều nhà kinh tế ngoại quốc rêu rao rằng:

- Đừng làm cách mạng chánh trị theo kiểu đổ máu. Cứ ngoan ngoãn làm việc để chờ những cuộc cách mạng kỹ thuật giải quyết dùm cho! Những công ty kỹ nghệ với sự hợp tác của chuyên viên kỹ thuật sẽ cung cấp mọi sản phẩm, với giá rẻ trong vòng vài năm tới đây. Giai đoạn thịnh vượng đang bắt đầu vân vân...

Quyển Minh Tâm Bửu Giám trở thành sách khảo cổ. Nó bị đánh bại, quyển sách đang chiến thắng là “Muốn thành công trên trường đời”, “Bảy bước đến thành công”, “Quẳng gánh lo đi”. Loại sách học làm người của thời đại kim tiền. Người đây có nghĩa là người làm “áp-phe”, làm tiền. Nó dạy chúng ta nên bộc lộ lòng tốt như thế nào cho vừa phải, khỏi lỗ vốn. Đồng thời, nếu trót mang tật xấu, muốn lừa đảo, đóng kịch thì phải che giấu như thế nào cho người đối thoại đừng thấy tật xấu. Học làm người theo công thức ấy, rốt cuộc chúng ta luôn luôn cười tươi để gây sự tin cậy cho kẻ khác, gặp ai cũng siết tay, cũng mời họ hút thuốc và nghe người ta nói hơn là mình nói. Làm áp-phe, bắt áp-phe là chiến lược và chiến thuật.

Hưởng thụ là đức tính cần thiết để nền kinh tế được điều hòa. Hưởng thụ, mua sắm tới mức nào thì giá trị con người tới mức ấy. Áo quần, đồng hồ đeo tay, quán ăn, thuốc hút, hiệu chiếc xe hơi, địa chỉ cư trú tiêu biểu cho nấc thang xã hội. Biết rằng đó là xa xí phẩm nhưng là thứ xa xí phẩm rất cần thiết để đi làm ăn, giao thiệp. Đến đỗi những kẻ thoát vòng tục lụy, mơ trăng gió như thi sĩ, tu sĩ cũng phải ăn ở “coi cho được” như thế nào đó để gây sự tín nhiệm tối thiểu.

Nhiều món đắt tiền, không có công dụng thực tế cho đời sống vật chất con người nhưng lại là cần thiết để đi làm ăn.

Thời xưa, cây kiểng hòn non bộ nếu chăm sóc công phu, thì “biến”, “hóa” trở thành cõi tiên nơi trường sanh bất tử, tỏa ra bao nhiêu phép mầu nhiệm.

Thời nay, đàn bà đã “biến” và “hóa” thành tiên, thành nữ thần, nữ hoàng.

Nghệ thuật điện ảnh góp công lớn trong sự biến hóa ấy với những thần tượng vừa hư vừa thật, Minh tinh điện ảnh ở Hồ Ly Vọng (Holywood)đã lãnh đạo nếp sống của bao nhiêu người khắp thế giới và họ mới là kẻ giết cây kiểng, đập nát cái hòn non bộ.

Xăm mình dường như là hình thức để cảm thông với thiên nhiên, với thần linh. Anh chị dao búa ưa xăm chữ bùa, con rồng con phụng hoặc năm tháng lịch sử, kỷ niệm lúc kết bạn, lúc ở tù. Khi văn hóa Tây phương du nhập vào đất nước ta, nhiều tay hảo hớn bắt chước bọn lính thủy quốc tế xăm hình nhơn ngư - cô gái đuôi cá, hình mỏ neo, chiếc tàu buồm. Ngoài ra, nhiều tôn chỉ mục đích được gắn liền vào da thịt. Xăm mình có điều lợi là chủ nhơn mang những biểu tượng ấy vào quan tài, chẳng ai cướp bóc hoặc sang đoạt như trường hợp người sưu tầm đồ gốm, tem, ngọc ngà hoặc chơi kiểng.

Xăm mình là hóa trang, là tu luyện, là đóng vai thần thánh. Sắt luyện mãi thành ra thép, con người quá đau khổ, chịu nhiều nỗi gian truân thì nhất định trở thành siêu nhân. Người xưa xăm mình để xuống biển chài lưới, loài thủy tộc ngỡ rằng gặp con giao long nên chẳng dám lại gần.

Người xăm mình muốn được biến, được hóa.

Chơi kiểng phải noi theo sách vở. Nghề chơi cũng lắm công phu. Cây kiểng là hiện thân của luật luân hồi, của sự chuyển hóa. Kinh dịch có quẻ Càn. Phật có luật nhơn quả, lá cây ngọn cỏ, thú vật sẽ đầu thai đời đời kiếp kiếp. Đạo sĩ trên núi lo luyện linh đơn, với thời gian bao nhiêu vị thuốc tầm thường sẽ biến chất, kết hợp lại để thành một loại thuốc quí, lò lửa tiêu biểu cho mặt trời nung nấu sự đời.

Cây trúc phải uốn theo hình con rồng, gốc là đầu, ngọn trúc là đuôi. Rồng hả miệng ngậm trái châu, mắt lộ ra, đuôi thì vùng vẫy: Thảo mộc biến ra thú vật, từ vô tri tiến đến hữu tri, tịnh trở thành động, phàm tục hóa ra linh hiển.

Gốc cây sung phải uốn theo hình con cóc, Sung là sung túc, con cóc nghiến răng thì trời mưa, nhà nông tha hồ cày cấy. Cóc là con thiềm thừ ở cung trăng.

Cây mai chiếu thủy, cây sộp uốn theo hình con kỳ lân. Kỳ lân xuất hiện là điềm hòa bình, tức là sự bình yên cho gia chủ.

Có người chơi kiểng theo kiểu ma quái: họ đến ngôi mộ xưa nào đó, tìm cây gừa, cây sộp nhỏ. Hột gừa, hột sộp từ trên không trung đáp xuống theo gió (hoặc do con két, con sáo tha đến), châm rễ trên gạch vôi, trên đá. Họ bứng cây gừa ấy, cạy luôn cục gạch hoặc cục đá của ngôi mộ. Cây và đá được trồng trong chậu, lớn dần. Họ chặt ngang gốc cây để dưỡng bộ rễ, tạo ra cái đuôi và bốn chân con kỳ lân, hai chân sau dính trên cục đá để giữ khí âm của ngôi mộ. Gốc cấy ấy trở thành cái đầu kỳ lân. Họ dưỡng hai nhánh nhỏ rồi chặt ngang, lấy lửa thui cho chết, đó là con mắt. Họ tạo thêm nhánh khác, to hơn, từ miệng con kỳ lân phun ra, tiêu biểu cho ngọn lửa. Tóm lại, cây kiểng ấy bao gồm ngũ hành, cõi âm, cõi dương. Khi chăm chú theo dõi để uốn nắn. chủ nhơn ngỡ mình là đạo sĩ đang luyện linh đơn, lúc con kỳ lân thành hình như ý muốn, chủ nhơn sống phút giây “biến, hóa” thần tiên, hãnh diện như... nhà bác học vừa tìm ra tính chất phóng xạ của radium hoặc phá hạt nhân nguyên tử!

Người chơi đồ gốm cũng thích sự biến hóa của nước men, khi đốt trong lò. Thỉnh thoảng, vì trục trặc kỹ thuật, lửa cháy không đều, quá non hay quá già nên nước men thay đổi màu sắc. Đó là “hỏa biến”. Người sưu tầm đồ gốm cho rằng những món “hỏa biến” là độc nhất vô nhị. Đáng lý ra, đó là món hàng mất giá trị, hư hỏng. Nhưng màu sắc nước men hỏa biến ấy được xem như màu máu, hoặc ánh trăng, bức tranh vân cẩu.

Người đàn bà đã “biến” với kỹ nghệ điện ảnh, với việc quảng cáo, việc đào tạo minh tinh màn bạc. Từ địa vị cô gái làm mẫu ở tiệm may hoặc bán hàng rong, họ trở thành thần tượng, do bàn tay phù thủy của nhà sản xuất, nhà đạo diễn.

Cây trúc biến thành con rồng, một trong tứ linh!

Người đàn bà biến thành “minh tinh”, vì sao trên đời! Khi biến thì cây cối hoặc con người đều trở thành mầu nhiệm. Cây trúc sẽ phò hộ gia chủ, đem điều may mắn. Và người chủ lại mang nợ đối với nó. Nếu không săn sốc kỹ lưỡng, cây trúc sẽ héo, chết khô hoặc… thay đổi hình dạng xấu xí thì vận mạng chủ nhân bị ảnh hưởng xấu.

Nữ minh tinh là bà hoàng hậu, là nàng tiên xinh đẹp, đầy phúc đức trong chuyện cổ tích. Ai được nàng ban cho nụ cười, bức ảnh có chữ ký hoặc món quà thì sẽ yên ổn, gặp muôn vàn may mắn.

Những cuộc triễn lãm về hội họa, kỹ nghệ, những cuộc phát quà từ thiện nếu được nữ minh tinh đến dự phần khai mạc thì trở thành long trọng, nhiệm mầu.

Ngày nay, chúng ta khỏi cần lên non cao để tìm cơ hội may mắn như Lưu Thần, Nguyễn Triệu, như ông Từ Thức. Vẻ đẹp nhiệm mầu của Thiên nhiên đã xuất hiện, trong rạp chiếu bóng, trên sân khấu hoặc ở phụ trang kịch trường và điện ảnh của nhật báo, tuần báo.

Hình bóng minh tinh điện ảnh đóng một vai trò quan trọng trong đời sống vật chất và tình cảm con người! Hình bóng ấy là thủ phạm của hiện tượng mà thiên hạ gọi là “văn minh vật chất, văn hóa ngoại lai, lãng mạn khiêu dâm, sa đọa”.

Ai tạo ra những hình bóng ấy?

Đó là nền văn minh trưởng giả, lấy sự hưởng thụ cá nhân làm nền tảng.

Minh tinh điện ảnh là Thiên nhiên với những nét quyến rũ. Ở nước ta, các nàng ca sĩ, đào kép cải lương, cô gái bán bar... đã mô phỏng theo minh minh điện ảnh Hồ Ly Vọng từ cách tô son đánh phấn, cách uốn tóc đến kiểu đi đứng. Lần hồi, những thói ăn nết ở ấy được phổ biến, không phân biệt giai cấp, đảng phái.

Thời buổi văn minh vật chất, mật ít ruồi nhiều, con người sống với bề ngoài. Họ mua sắm đủ món... Trước kia, người chồng đi làm việc, nuôi cả gia đình gồm vợ và ba bốn đứa con.

Lần hồi, với đà mua sắm lẩm cẩm, hai vợ chồng đều làm việc đầu tắt mặt tối mà tiền bạc cứ thiếu hụt liên miên. Tình ái là lối thoát duy nhất, chính trong lúc làm tình người ta cảm thấy “được tự do”. Tình ái là liều thuốc hiệu nghiệm để tạm thời trị bịnh “lo âu, sợ sệt”. Ngoài cái lo về sanh kế, nợ nần còn nhiều thứ lo khác như giữ thể diện với bạn bè chòm xóm hoặc là tai nạn chiến tranh.

Hột giống chỉ mọc lên khi nào có sẵn mảnh đất tốt, đầy đủ phân bón, khí hậu thích hợp.

Hình ảnh minh tinh màn bạc được phổ biến, bao trùm đời sống con người khi mức sản xuất dồi dào, khi con người cảm thấy khô khan, cô độc cần tìm nơi nương tựa.

Nhiều người làm thơ ký ở hãng buôn, làm thợ ở lò đúc đã xác nhận rằng mỗi ngày họ đi cày hai buổi để kiếm tiền. Làm việc, đối với họ, là một cực hình, một sự ràng buộc, đọa đày vì thiếu hứng thú. Họ chỉ sung sướng, cảm thấy tự do khi “ăn nhậu” “ăn chơi” với bạn bè mà thôi. Sống để mà ăn chơi. Ăn chơi là phương thuốc để trốn thực tế. Lúc ăn chơi, con người ngỡ mình là một “tiểu thần tiên”. Tiên thì sống trong Bồng Lai. Lưu Thần Nguyễn Triệu, ông Từ Thức đời nay đã viếng những “Bồng Lai giả tạo”: rượu, á phiện, gái đẹp, cờ bạc.

Khi điện ảnh chưa phát triển mạnh, cô đào ở sấn khấu thu hút được một số khán giả có giới hạn. Các cô là bông hoa đẹp, dành riêng cho vài nhà triệu phú hoặc vài cậu công tử thuởng thức. Lúc bấy giờ, thành kiến xướng ca vô loại còn hiệu lực nên các cô bị người đời nhìn bằng cặp mắt mỉa mai.

Ngắm hòn non bộ, ngắm cây kiểng đòi hỏi chủ nhơn khả năng vận dụng sức tưởng tượng. Sức tưởng tượng ấy chỉ đem lại kết quả khi chủ nhơn hiểu ít nhiều về lý thuyết Tam giáo (nhất là Lão giáo), hiểu về thi phú cổ điển Trung Hoa.

Xem điện ảnh, người khán giả rất khỏe khoắn, không cần dọn mình sẵn, không cần vận dụng sức tưởng tượng. Bao nhiêu hình ảnh hiện ra, biến hóa nhiệm mầu, tuy là giả nhưng rất thực. Khán giả có ngồi ngã lưng, giữ thái độ thụ động, hình ảnh sẽ bao vây, tràn ngập gian phòng, khán giả trở thành một con mồi dính trong lưới, một con cá cựa quậy giữa biển. Mắt và tai của khán giả bị kích thích dồn dập. Khung cảnh trên màn bạc cứ thay đổi nhanh chóng, không như trên sân khấu cải lương hoặc thoại kịch. Khi diễn xuất, bộc lộ nỗi đau buồn hoặc sự kích động đê mê, gương mặt của diễn viên được phóng đại, to gấp chục lần, trăm lần con người ngoài đời, hình ảnh phóng đại ấy là giả, là ảo ảnh nhưng rất thực, với ánh mắt, sợi lông nheo, làn môi phập phồng. Điện ảnh đã gợi lại những phép tiên, những điều mà khoa học huyền bí thường ao ước thực hiện: bóng người di chuyển trên trần nhà, giọt sương lóng lánh hơn kim cương và chứa đựng hình ảnh con người, giọt nước mắt trở thành thác nước, gò má con người trở thành gành đá. Vật vô tri vô giác như cái bình hoa, pho tượng đá đều trở thành linh động, có hồn nếu đạo diễn biết rọi ánh sáng, chụp ảnh đúng góc cạnh.

Tại sao nước ta phải vay mượn hình bóng nữ minh tinh ngoại quốc?

Ở ngoại quốc tạo ra minh tinh vẫn là việc khó. Khi minh tinh xuống dốc, không còn “ăn khách” thì nhà sản xuất, nhà đạo diễn tài ba cũng không cứu vớt nổi. Nhiều minh tinh xuất hiện nhờ quảng cáo ồ ạt để rồi bị đào thải nhanh chóng. Nhiều cô đào chịu kiên nhẫn học tập, theo đuổi nghề nghiệp nhưng suốt đời chẳng bao giờ trở thành minh tinh sáng chói trên vòm trời nghệ thuật.

Minh tinh chỉ xuất hiện được ở một nước có kỹ nghệ phim ảnh khá mạnh. Nữ minh tinh phải diễn xuất nhập thần trong vài cuốn phim có giá trị mà nàng đóng vai chánh. Vai tuồng ấy bao gồm vài nét điển hình. Nàng cần đủ tài năng để diễn xuất mà không bị vai tuồng nuốt trọn - thí dụ như trong vai Dương Quí Phi, nàng đã chuyển vài nét tươi vui, sầu muộn nào đó mà minh tinh khác không bộc lộ được. Hơn nữa minh tinh phải thành công trong loại tuồng xã hội, nhân vật tuồng xã hội gần gũi với cuộc sống hơn là nhân vật tuồng lịch sử.

Thiếu điều kiện căn bản (có kỹ nghệ phim ảnh mạnh) nên nước ta chẳng sản xuất được thần tượng nào cả. Những thần tượng nếu có thì chỉ là mô phỏng theo Âu Mỹ từ cách đi đứng, cách hóa trang, nếu không mỏ phỏng thì không sống được.

Minh tinh là nàng tiên, cao hơn thiên nhiên vì chính nàng đã tạo ra thiên nhiên, nhờ bùa phép, chiếc đũa thần. Khi được suy tôn là minh tinh thì mặc nhiên nàng là thông minh (thân thể đều đặn là tiêu biểu cho sự thông minh), bởi vậy, nàng thích được chụp ảnh với quyển sách ngoại ngữ trong tay, đôi khi nàng khoe với các ký giả rằng thích nghiên cứu triết học, thích nghe nhạc cổ điển Tây phương. Nàng là kẻ vô tội, luôn luôn trong trắng mặc dầu thay đổi năm bảy người tình nhân. Nàng thích bố thí, giúp đỡ kẻ nghèo túng. Là siêu nhân, nàng tha hồ lãng phí, ăn xài ngông nghênh. Là hoàng hậu, mẫu nghi thiên hạ nên nàng được quyền đội cái vương miện, mặc áo theo kiểu hoàng hậu, Là sự sống vĩnh cửu, là quyền phép vạn năng nên nàng luôn luôn khỏe mạnh tươi cười, lúc đau ốm thì chẳng muốn xuất hiện trước công chúng.

“Tuần báo tâm tình” thu hút nhiều nữ độc giả, không phân biệt giai cấp, mô phỏng theo tuần báo tâm tình Âu Mỹ từ hình thức đến nội dung.

Nhật báo nào muốn giữ được một số độc giả phụ nữ thì phải chú trọng đến phần ướt át.

Trang nhứt và trang tư là khô khan vì đề cập đến chuyện chánh trị, kinh tế. Cái khô khan ấy vẫn chủ trọng đến khía cạnh “giựt gân”, nói nôm na là những tin tức mầu nhiệm, lạ thường, bất ngờ. Trang hai và trang ba của nhật báo gồm những mục thuộc vào loại “tâm tình”, “ướt át”. “Ứớt át” không có nghĩa là “khiêu dâm” nhưng là gần gũi thiên nhiên - một kiểu chơi kiểng - đề cập đến tình cảm đàn bà. Trang kịch trường và màn ảnh thu hút một số khách mộ điệu nhưng họ đọc là để tìm hiểu sự thăng trầm của minh tinh thần tượng: cô đào X, đang ly dị,

đòi đi tu, anh kép Y đang ký giao kèo bạc triệu, cô đào A. tuyên bố chưa hưởng hạnh phúc tình yêu mặc dầu đã có chồng. Lại còn mục dạy trang điểm. Phấn son là bùa phép nhiệm mầu, nhờ nó mà người đàn bà trở nên xa xôi tuy gần gũi, quen mà lạ, vừa trang nghiêm vừa quyến rũ. Thêm vào đó là mục bí quyết bảo vệ hạnh phúc gia đình... vân vân... Tiểu thuyết đăng báo - loại tình cảm tranh đấu xã hội - chỉ ăn khách khi nhắm vào mục đích đề cao quyền yêu đương, mình oan cho đàn bà: Họ luôn luôn tốt, cao cả, nếu phạm tội lỗi thì chẳng qua vì hoàn cảnh, vì đời hiểu lầm. Lại còn tử vi, giải thích cuộc đời theo quan niệm huyền bí. Đời ông hoàng bà chúa, tình sử Tây Phương, Đông Phương giúp con người sống thoải mái vì cô gái nghèo nàn, xấu xí nhất cũng có vài điểm giống như bà hoàng. Kiếm hiệp “chưởng” là món ăn thiên nhiên được bọn đàn ông ưa thích. Chưởng lực, tâm chưởng là sức mạnh tự nhiên của con người. Hiệp khách là nhân vật sống ngoài những câu thúc của xã hội dối trá, họ di chuyển luôn luôn, đầu óc họ là sự kết tinh của tinh hoa cổ kim, họ ở hải đảo, trong hang, trên núi. Họ tranh đấu chống những gì giả dối, trái với tự nhiên, trái với đạo lớn...

Hạnh phúc cá nhân, hình ảnh thơ mộng, huyền diệu của đàn bà có xoa dịu nổi những mệt nhọc đau thương hằng ngày không? Người ta mua những ảo tưởng ấy với giá nào? Anh tư chức chạy xe gắn máy, mang đồng hồ tay tự động, ngày hai buổi về ngõ hẻm lầy lội, sống trong căn nhà chật hẹp “nước bắc, điện câu, cầu hàng xóm”, ăn bữa cơm rau muống, cá kho! Cô thơ ký sáng ăn xôi, trưa nằm tại sở đã phí hơn phân nửa tiền lương để mua sắm áo quần, son phấn. Vợ chồng rất sợ việc sanh thêm con cái. Cô vợ thấy anh chồng hơi cù lần, thiếu vài nét hào hoa phong nhã, anh chồng hơi thất vọng vì cô vợ kém xa cô ca sĩ nào đó, từ vóc dáng đến mái tóc, làn da.

Báo Đất Mới số 4 có một đoạn như vầy, trích trong bài Nhà Cửa và Đời Sống:

“Chiến tranh giới hạn phạm vi di chuyển của mọi người. Đi từ nơi này tới nơi khác là một sự xa hoa, tránh được càng tốt.

Tù túng trong những căn nhà lup sụp, người ta trở nên độc ác hơn. Hàng xóm láng giềng không còn là một thứ tình người nữa. Dân chúng ở một xóm có thể đứng thản nhiên nhìn một trận đập lộn. Họ lý luận hơi đâu mà dây vào cho mệt xác, lên cò lên bót lại phải làm chứng!

Đối với hiện tượng này, nhạc sĩ Phạm Duy cho rằng “chúng ta nhàm chán lẫn nhau. Đi ra tôi thấy mặt anh, đi vào anh thấy mặt tôi. Chúng ta ích kỷ hơn, tâm hồn chai”. Thái độ sống phi nhân được mọi người chấp nhận như một sự đương nhiên, một sinh viên tâm sự rằng suốt gần mười năm anh chưa bao giờ sang chơi nhà hàng xóm lấy một lần.”

Trốn lánh thực tế vì không chấp nhận thực tế. Tìm thiên nhiên tức là tìm một khung cảnh mà con người tha hồ bay nhảy, phát triển năng khiếu như ý muốn, để tô điểm cho cuộc đời, giúp đời.

Hoàn cảnh ấy làm sao có được? Chúng ta nhớ lâng lâng đến những bà lão nuôi heo, săn sóc kỹ lưỡng, gọi heo bằng con. Có những nông phu cày sâu cuốc bẫm, khi lúa chín thì đi dạo ngoài ruộng suốt ngày để ngắm nghía, hột lúa liền với giọt máu. Hễ bán heo thì bà lão khóc, hễ lúa gặt rồi thì quét sân, trả không hết nợ nần. Sanh kế càng thêm phức tạp. Đến như nghệ sĩ ngày nay đã khó sáng tác theo ý muốn, vì còn vấn đề thị hiếu của người tiêu thụ, khác thời xưa.

Người làm cách mạng có lẽ chẳng cần đến cây kiểng hoặc cái hòn non bộ vì họ đã hăng say, hòa mình vào “đạo lớn” rồi. Nhưng khi anh hùng thấm mệt, mỏi gối thì họ trở thành mềm yếu, thua sút thiên hạ, tuột xuống dưới mức trung bình. Bấy giờ họ chơi đủ thứ kiểng để khỏi buồn tủi hoặc khỏi đi tu.

Bên Trung Hoa có cuộc Ngũ Tứ vận động, bài xích Tống Nho. Ở nước ta, các cụ Phan Bội Châu, Trần Quí Cáp, Phan Châu Trinh lên án bọn “hũ nho”.

Tống Nho, hủ nho đã khiến nước nhà suy vong rồi mất vào tay liệt cường Tây phương, hồi thế kỷ qua.

Xưa kia, lúc sanh tiền, Khổng Tử dạy người quân tử nên lo tu thân, tề gia, trị quốc. Ba nhiệm vụ này liên quan với nhau, ngang hàng như nhau. Nhưng đến đời nhà Tống, đạo nho suy đồi, một lý luận gia là Châu Hi đã diễn giải sai lạc lý thuyết Khổng Tử: xem tu thân là trọng, trị quốc là khinh. Phải chăng đó là niềm an ủi gượng gạo của nho sĩ khi nước Trung Hoa đang mất lần hồi về tay bọn du mục phương Bắc.

Nếu chỉ làm thơ ca ngợi vẻ đẹp của non sông, hoa lá, bóng liễu, ánh trăng thì đâu cứu được đất nước lâm nguy. Uốn nắn cây kiểng cổ quái cheo leo rồi trồng trên tảng đá dốc chưa hẳn là đã làm xong phận sự đối với non nước vì người uốn cây kiểng chỉ can đảm... trong tưởng tượng trong khi thực tế đòi hỏi sự can đảm ở chiến trường.

Sống theo thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên là thái độ thụ động, ngăn cản mọi tiến bộ về khoa học tự nhiên. Vẽ bức tranh sơn thủy có thác nước đổ ầm ầm là thụ động. Tương lai của con người đòi hỏi những người biết sử dụng thác nước để tạo ra điện khí, hoặc nấu nước bốc thành hơi, dùng hơi nước để chạy máy.

Cây kiểng và hòn non bộ tỏ ra bất lực vì nó tạo ra những ông lão yếm thế, quên tất cả thế sự.

Loại kiểng “thần tượng đàn bà” tạo ra những người còn trẻ mà cằn cỗi nên “chơi kiểng” quá sớm hoặc những người già muốn kéo dài tuổi trẻ để hưởng thụ vật chất. Mua sắm để riêng mình xài, mua sắm để theo kịp và hơn thiên hạ. Món mình mua sắm thì không ai được xài chung. Bởi vậy có thù hằn, ganh tị, bất chấp đồng loại. Hộp đêm, tiệc tùng theo kiểu ‘‘nhứt dạ đế vương” là thiên đường giả tạo, chứng tỏ rằng đàn bà chưa được giải phóng, vẫn là món hàng giải trí như hồi thời Trung cổ, dành riêng cho bọn đầu cơ thời cuộc.

Vào thế kỷ thứ mười, một họa sĩ Trung Hoa đã vẽ bức tranh sơn thủy nhan đề là “Lên non vào mùa thu để tầm đạo”. Núi cao chập chùng, gồm nhiều bực, con đường dẫn lên chót đỉnh cứ chạy cong quẹo, lắm khi đứt đoạn. Như một bức tranh đố. Người xem phải dụng tinh thần để tự ý vạch thêm con đường nối tiếp hay chặt đứt, con đường gay go mà họa sĩ không muốn vẽ, có lẽ nó chạy bên vách đá sát miệng hố. Đạo là con đường. Khi cố gắng vạch cho mình một con đường nguy hiểm để lên cao, dọc đường người ta đã gặp đạo rồi vì trên chót đỉnh chẳng còn con đường nào cả, họa chăng là mây mù.

Sơn Nam 1969