- 3 -
Lẩm cẩm là gì? Là diễn tả mãi mà không hết ý, bởi vậy, đương sự nói tới nói lui một vấn đề, lắm khi ngụy biện, mâu thuẩn với chính mình. Diễn tả không hết ý không phải vì thiếu danh từ, thiếu lý luận nhưng chính vì vấn đề quá mơ hồ - vừa cụ thể, vừa mơ hồ - khiến đương sự nắm không được vững, vừa nắm là đã vuột. Không chơi kiểng thì tiếc, thấy thiếu thốn chút gì nhưng sau khi ngắm kiểng thì lại không hoàn toàn thỏa mãn ; sự thỏa mãn chỉ phù du như người chợt tỉnh giấc mơ, trở lại thực tế.
Sự quân bình được ví như cái cân, có hai cái vá, một bên là món hàng, một bên là trái cân và chính giữa có cây kim chỉ thẳng lên trời.
Hoàn cảnh sanh sống, nếp sống ích kỷ đã chia con người ra hai mảnh hoặc nhiều mảnh, phần xác phần hồn, phần tàn nhẫn và phần hướng thiện, khi thì ngạo nghễ, lúc lại khiêm tốn, lúc xem đồng tiền là huyết mạch và lúc xem tiền tài như phấn thổ. Đặc biệt là có lúc ham sống và có lúc chán đời, muốn được tan rã một cách dịu dàng, trở về hư vô. Những tâm trạng trái ngược.
Bên này một kí-lô điều ác, bên kia một kí-lô điều thiện có thể làm cho cán cân chi phó được quân bình chăng? Nhất định là không vì con người khác với cái cân. Con người là một, chia hai là giả tạo, so sánh không đúng.
Người cho vay ăn lời cắt cổ có thể nào chuộc tội lỗi khi mỗi buổi chiều ngồi nghiêm trang, tụng vài thời kinh? Đó là dối thế và dối lòng mình.
Một nhà sư Việt Nam đã nói:
“Dân tộc và đạo pháp vẫn là ánh sáng dắt dẫn chúng tôi và chúng tôi vẫn tiếp tục đi vào chông gai như đi vào nơi gió mát trăng thanh đề đạt đến lý tưởng của mình”.
Chông gai và gió mát trăng thanh là một, không tách rời nhau. Chông gai là chướng ngại, gây đau khổ. Gió mát trăng thanh chỉ có khi con người biết kiên nhẫn phấn đấu, đó là phần thưởng dành riêng cho người tích cực. Người thụ động không bao giờ hưởng được thứ gió mát trăng thanh từ cõi lòng chiếu sáng ra.
Đây là quan niệm đứng đắn về con người, kết hợp Đời và Đạo làm một khối thuần nhất, không đặt Đời trên cái vá cân bên này và Đạo ở vá cân bên kia để tìm thế quân bình giả tạo, hình thức.
Tôi chưa được đi xa để thấy tường tận những cách thức uốn kiểng ở miền Bắc, miền Trung Việt Nam. Nếu tôi không lầm thì mỗi vùng uốn kiểng hơi khác nhau. Ở Nam phần, chơi kiểng sành điệu nhất là ở vùng Biên Hòa (Bồng Nai) và Vĩnh Long, Sa Đéc (Cửu Long).
Người Việt gốc Hoa chơi kiểng theo lối riêng, khác với người Việt về hình thức sửa kiểng.
Cây kiểng uốn theo lối gọi là cổ điển với cái gốc hơi nghiêng - gọi là xuy phong - với năm cái tàng, bên này ba, bên kia hai, và một cây con là do ai phát minh hoặc cải tiến trước tiên?
Tôi chưa được đi viếng miền Nam Trung Hoa để so sánh, tìm hiểu thêm.
Chúng tôi nghe nói rằng người Việt Nam uống trà theo người Trung Hoa đời nhà Minh, với cái chén tống chén quân, cái dĩa dầm. Người Trung Hoa lúc sau này uống trà theo kiểu Mãn Thanh?
Cây kiểng ở miền Nam uốn theo kiểu đời nhà Minh, cải biến ít nhiều chăng? Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch đã dẫn đám tàn quân bài Mãn phục Minh đến vùng Đồng Nai và Cửu Long, đám tàn quân này sanh con đẻ cháu và giữ được hương vị cũ?
Có lẽ tôi đã suy luận quá viễn vông và sai lạc.
Kiểng vẫn còn. Hễ sắm hoặc mướn được căn nhà rộng, có sân thì chủ nhơn nghĩ đến việc trồng kiểng, nhất là chủ nhơn tuổi quá tứ tuần.
Người chơi kiểng không phải có dụng ý dối lòng minh và dối thế vì như đã nói - họ chơi vì quả thật họ khát khao, tâm hồn họ đòi hỏi “món ăn tinh thần” và họ không muốn cho người khác rình rập lúc họ ngắm kiểng. Xin để cho họ hai chữ bình yên. Đừng xoi mói tới cái số thích, cái quyền tự do của họ: chưa có luân lý hoặc luật pháp nào lên án việc chơi kiểng!
Lắm khi, người chơi kiểng cảm thấy thất vọng với cái trò chơi của mình, như kẻ đau Nam chữa Bắc, như người đau chân được tạm thời khoẻ khoăn nhờ mũi thuốc tê rồi thì đau đớn vẫn hoàn đau đớn, cô độc vẫn hoàn cô độc. Hỡi ôi! Khi đã dời Thiên Thai, con người chẳng bao giờ trở lại một lần thứ nhì được. Hay là câu chuyện Thiên Thai là láo? Nhưng tại sao láo mà có nhiều người tin, luôn cả những nhà hiền triết, nhà khoa học?
Nhiều hình thức nghệ thuật, dùng nhiều nguyên liệu khác nhau. Người Á Đông cho rằng trái đất này do khí âm, khí dương tạo ra, rồi do đó mà có kim mộc thủy hỏa thổ.
Ngọc là loại quí nhứt trong các loại đá, ngọc có màu sắc, cứng rắn, để ngàn năm không nát, trái lại càng lâu càng đẹp. Ngọc tiêu biểu cho dương, hơi nóng, sự sống. Cẩm thạch mà các bà các cô ưa đeo là loại ngọc xanh, vì tiêu biểu cho khí dương nên cẩm thạch được tẩm liệm trong quan tài để gìn giữ sự sống của chủ nhơn ở kiếp sau. Người còn sống nếu đeo ngọc hay cẩm thạch thì khi bị té thang lầu vẫn... có thể sống, đó là lời đồn đãi, căn cứ vào khí dương, sự hồi dương mà ngọc là tiêu biểu.
Ngọc là tinh hoa của vũ trụ, là sự sống bất diệt. Người đeo ngọc hoặc dự trữ vài món cổ ngoạn bằng ngọc trong nhà thì có hy vọng được thịnh vượng, tất cả sức mạnh của vũ trụ đã túc trực để hỗ trợ, xua đuổi ma quỷ vì ma quỷ thuộc về âm. Ngọc là bùa phép, đượm ý nghĩa thần bí.
Đồ gốm được so sánh với Ngọc, sáng sủa, để lâu không hư hao, càng ngắm càng thích; ngoạn ngọc. Nó là đất (thổ), loại đất tốt nhứt đem luyện trong lò lửa, lửa càng nung nấu thì đất càng cứng rắn, phô bày sắc đẹp, như con người bị nung nấu trong lò cứ nếu vượt qua, chế ngự được đau thương thì trở thành minh triết.
Người chơi đồ gốm yêu chuộng những món sản xuất từ đời Tống, do các vị tiên sư của ngành “đồ kiểu, đồ sứ” nắn ra, đôi khi tinh cờ còn dấu vết con ốc tay, khi đất còn mềm. Dấu tay để lại, nóng hổi, ngàn năm chưa phai mờ. Vài giọt men đỏ hoặc xanh được nghệ sĩ cố ý để cho chảy dài trên nền đất, như giọt nước mắt.
Đồ gốm là đất lửa và sự hãnh diện của con người cọng lại.
Ngọc và đồ gốm xưa đáng được ngắm để trong lúc cô độc con người được gắn liền với vũ trụ, dầu là trong ảo tưởng.
Vua chúa Trung Hoa đã tranh giành những viên ngọc quí, xua binh đánh nhau. Viên ngọc là cái cớ, là tượng trưng cho chánh nghĩa, cho sự ủy quyền của Trời.
Cây sống bắt rễ vào đất, bám vào đó đồng thời hấp thụ sương tuyết, mưa gió, ánh sáng và hơi nóng của mặt trời. Thiếu đất, thiếu nước, thiếu mặt trời thì cây khó sống được. Cây đã kết tinh được khá nhiều yếu tố của ngũ hành, sống nhờ âm dương, khi thạnh khi suy theo sự tuần hoàn của mỗi mùa. Cây gợi lại kiếp sống con người minh triết, gặp gian nan nhưng vẫn khắc phục được, tuyết phủ mà lá vẫn xanh, không rụng.
Người ghiền á phiện thường nói nửa chơi nửa thật rằng cái việc đi mây về gió của họ vẫn là tổng hợp ngũ hành, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ: nhựa là mộc, đèn dầu phọng là lửa, mấy cây tim là kim, cài tẩu nắm bằng đất là thổ... Nhưng xin gác vấn đề nầy qua một bên.
Ngọc, đồ gốm, cây kiểng, nối tiếp con người với trời đất. Xét cho kỹ thì nó nối tiếp con người với con người. Muốn trở thành nghệ thuật, ngọc, đất sét và cây đều phải rũa gọt, uốn nắn cho hạp tình hợp cảnh.
Ngọc đời Thương, đời Châu, đời Tần, Hán... luôn cả những món bằng đồng, bằng đất nung đều ra đới để làm trung gian giữa con người và vũ trụ, đượm tánh chất tôn giáo. Đó là những đồ minh khí chôn trong huyệt, bên cạnh người chết để họ tiếp tục sống ở cõi âm.
Ngọc quí ở đặc tính cứng rắn và gõ kêu thành tiếng. Nó tiêu biểu cho khí tượng con người, cho dòng máu quí phái. Ông Khuất Nguyên đã tự thuật:
- Châu Minh Nguyệt hề, ta đeo.
Ngọc Bảo Lộ hề, ta có.
Những đề tài thường được chạm vào ngọc, vào đồ đồng, đồ đất thời xưa gồm vài sinh vật: con thao thiết, con giao long, con ve, con cọp, con dê... để xua đuổi tà ma, cầu mưa thuận gió hòa kích thích sự sống bất tử.
Cây kiểng đóng vai trò viên ngọc cái đỉnh đồng. Nó gần gũi con người hơn, tiến hộ hơn. Nó làm thỏa mãn cái khát vọng được hòa mình vào vạn vật nhưng không đượm màu sắc huyền bí. Nó chỉ thơ mộng, một bài thơ siêu thoát, hiền lành. Người chơi kiểng biết chắc con người sớm muộn gì cũng chết, chết là hết với hai bàn tay không. Bởi vậy, họ muốn tận hưởng cuộc sống, họ điều chỉnh cuộc đời cho có quân bình. Họ biết rằng ngọc ngà châu báu, đồ minh khí nếu có chôn theo quan tài thì cũng là những thứ kiểng đem theo để trang trí cho “vui nhà vui cửa” vậy thôi, những thứ kiểng chết vì không có người ngắm nghía.
Hòn non bộ, chậu kiểng chỉ sống khi có người ngắm. Nó là vật vô tri vô giác nhưng có hồn là do con người trao hồn cho nó. Tự nó, không có gì cả. Thiên Thai trở nên thơ mộng vì có Lưu Thần Nguyễn Triệu. Họ Lưu họ Nguyễn là tiếng nói của một thi sĩ, là hai nhân vật được người đời bịa đặt ra.
Bởi vậy, muốn chơi kiểng, chơi non bộ, con người phải tiến đến một giai đoạn văn minh nào đó.
Hồi thời ăn lông ở lỗ, lột vỏ cây hoặc lột da beo da cọp để che thân, chắc chắn là con người không cần, không biết chơi kiểng, chơi non bộ. Khi bước vào thời đại văn minh nguyên tử, liên hành tinh, liệu con người khi đáp xuống và định cư ở mặt trăng còn chơi kiểng nữa không?
Chúng ta không lấy làm lạ khi thấy vài ông chủ sở mướn cô thơ ký để... làm kiểng, nghĩa là ngắm nghía cho cuộc đời thêm tươi mát. Hoặc là một anh nào đó, bất luận tuổi tác, nghề nghiệp sang hèn đã lộng kiếng bức ảnh cô đào cải lương, nữ diễn viên điện ảnh hoặc nữ ca sĩ, đem treo ở đầu giường.
Người ta thèm khát cái gì thiên nhiên, tự nhiên để bù trừ lại cái khung cảnh đầy bụi bậm, tiếng động cơ, khói xăng nhớt.
Một nhà xã hội học Pháp nhận xét: pho tượng Hy Lạp bằng cẩm thạch trắng, tạc vị nữ thần trần truồng đã khiến chúng ta ngạc nhiên kính nể, nó giống hệt con người với ni tấc cân đối, tiêu biểu cho Thiên Nhiên.
Người đẹp đóng vai trò trung gian giữa người và thiên nhiên, giữa người và người, người và thần linh. Thuở xưa, người trinh nữ là vật hy sinh dùng tế thần. Chiêu Quân, Huyền Trân công chúa, Ngọc Hân công chúa là trung gian để giảng hòa việc tranh chấp biên giới khiến đám dân đen thoát nạn binh đao. Ngắm hoa nở, thưởng trăng thì nên có người đẹp để làm cái gạch nối liền giữa người và tạo vật.
Người ta bắt buộc đàn bà phải đẹp vì tạo vật, thiên nhiên là đẹp, một thi sĩ Trung Hoa đã viết:
- Gọi là mỹ nhân thì mặt đẹp như hoa, tiếng nói như chim, tinh thần như trăng, vẻ như liễu, xương như ngọc, da như băng tuyết, dáng như nước thu, lòng như thơ”.
Chúng tôi nói và cố chứng minh dông dài như thế để trả lời câu hỏi:
- Tại sao đàn bà không chơi kiểng, hòn non bộ?
- Bởi vì họ là hoa, là trăng, là liễu, là nước mùa thu. Thiên nhiên là bất diệt.
Có lẽ cũng vì vậy mà ông hoàng bà chúa ít khi sưu tập những món cổ ngoạn, lúc túng tiền hoặc cao hứng thì họ bán hay tặng chén ngọc đũa ngà một cách dễ dàng; xương cốt, máu huyết của họ đã là hiện thân của vàng ngọc rồi, đâu cần phải phô trương, trang trí bằng những món phụ tùng lẩm cẩm như kẻ lê dân...
“Người đẹp vẫn thường hay chết yếu” là câu thơ của thi sĩ J. Leiba. Nói rằng chết yểu là quá đáng, có lẽ nên nói rằng thời trước đây, nhan sắc người đẹp dễ tàn phai, khi phải một nắng hai sương, gánh gạo chợ chiều để nuôi con.
- Bèo nổi nước trôi em vẫn trẻ.
Cái già như sợ cái “hồng nhan” là lời tán dương của nhà văn Thúc Tề dành cho cô Ba Trà, cô Sáu Huỳnh Kỳ, những mỹ nhân mà bọn công tử thời Pháp thuộc đã cố chiếm đoạt. Già mà vẫn đẹp là chuyện khó, hy hữu, chỉ dành riêng cho một thiểu số được cái nhan sắc thiên phủ.
Ngày nay, con người sống dai hơn thời xưa - nếu không gặp chiến tranh, thiên tai - đàn bà có khá nhiều phương tiện để giữ gìn sắc đẹp, nào là giải phẫu thẩm mỹ, bơm ngực, cái nếp nhăn, thoa bóp, dùng tia sáng “điện tử”, lại còn những chất hóa học làm thức ăn cho làn da - một đại kỹ nghệ về mỹ phẩm với những viện bào chế.
Thiên nhiên giống như hình ảnh mà người Hy Lạp đã tạo ra không? Pho tượng có đẹp nhưng thiếu sự đau xót, thiếu sự phấn đấu. Cây kiểng trong chậu không bao giờ che giấu sự phấn đấu, người chơi kiểng dám chọn lựa những gốc cây bật rễ với những nhánh khô gãy. Người đẹp thời nay không dám phô bày những nỗi phiền muộn riêng tư, âm thầm hoặc lộ liễu mà họ gánh chịu để làm thế nào có tiền hòng mua sắm mỹ phẩm, đi mỹ viện, để giữ mãi mùa Xuân.
Có lẽ vì vậy mà họ chỉ thích trồng hoa hoặc cắm hoa trong bình mà thôi. Hoa trong bình sống với nước trong, không có bùn đất nhưng thử hỏi hoa tươi được bao nhiêu ngày?
Người đẹp chưa thắng nổi cây kiểng cổ điển, mặc dầu cây kiểng là món giả tạo, còn nhiều thiếu sót để tiêu biểu cho thiên nhiên.
Đọc trong quyển sách Pháp, quên nhan đề, mới xuất bản gần đây thấy giai thoại về anh chàng nọ mời bạn thân đến nhà, đem rượu quí ra thết đãi rồi sau đó long trọng giới thiệu một công trình độc đáo. Đó là cái máy thâu thanh, to lớn như cái tủ (vì vỏ của máy là cái tủ rượu) bên trong có nhiều sợi dây điện chằng chịt, những cái bóng đèn, những chỗ hàn để ráp mối dây! Chủ nhơn vặn nút. Cái máy thâu thanh vĩ đại ấy phát ra tiếng khá to, có thể bắt được làn sóng ở vài đài phát thanh địa phương. Chủ nhơn không quên tuyên dương công trạng của mình: việc ráp máy ấy tốn ba bốn tháng, làm lúc rảnh việc, tốn kém gấp mười lần cái máy thâu thanh mua ở tiệm. Lúc rảnh, anh mua sách dạy về vô tuyến điện, tìm dụng cụ ở trong nhà, gom góp mở dây điện hư... Và tập tành làm công việc của một kỹ sư. Sau nhiều lần thất bại anh lại tiếp tục đến mức thành công vẻ vang. Đúng là một kiểu chơi kiểng!
Khi săn sóc cây kiểng để riêng mình hưởng thụ thì chủ nhơn là tài tử. Nếu sản xuất kiểng để bán, chủ nhơn là nhà nghề.
Tài tử là người trau dồi nghệ thuật để dưỡng tánh tình, với năm ba người bạn hưởng ứng, không vụ lợi. Bởi vậy, khi ban tài tử biểu diễn đờn tranh, đờn kìm và ca hát trên sân khấu để thâu tiền vô cửa hoặc không thâu tiền nhưng với mục đích phô trương cho người khác xem thì nó chẳng còn là tài tử nữa. Nó dính với xã hội, chiều theo thị hiếu cao hay thấp của người xem, người nghe. Dính với xã hội là điều tốt cho nghệ thuật, nhưng lúc bấy giờ đối tượng của nghệ thuật là kẻ khác chớ không còn là bản thân người biểu diễn nữa. Khi còn là tài tử, người nghệ sĩ biểu diễn cho riêng anh ta, anh ta có thể mặc quần đùi, ngồi trong khu rừng vắng: nội tâm và ngoại cảnh là một.
Đứa bé thả diều trên bờ đê, đứa bé nằm thổi sáo trên lưng trâu, cô gái hái dâu hát bài huê tình đáng gọi là tài tử.
Người nghệ sĩ khi bước lên sân khấu đã mặc nhiên trở thành “nhà nghề”, anh ta diễn theo thời khắc qui định, theo bổn tuồng do người khác soạn ra và lãnh việc đạo diễn, anh ta ít khi được chọn lựa một vai đúng sở thích, lúc đau ốm cũng phải diễn để kiếm cơm.
Tuy nhiên, trong những phút diễn xuất nhập thần, anh ta vươn lên cương vị một tài tử theo nghĩa cao đẹp hơn, lúc ấy anh ta diễn cho riêng mình đồng thời số khán giả bên dưới bị lôi cuốn, hòa đồng với anh ta, diễn viên và khán giả kết hợp thành một khối thuần nhất. Trong phút dây thần diệu ấy, mặc dầu phải trả tiền để mua giấy vô cửa, khán giả vẫn được lên ngôi tài tử. Tất cả cùng nhau dưỡng tánh tình, thông cảm với vũ trụ, tưởng chừng như thế gian nầy đã tan biến không còn gì nữa, ngoại trừ cái tâm trạng bi hùng đang chói lòa trong rạp hát Bấy giờ sân khấu trở nên mầu nhiệm hơn cuộc đời và đáng được thần thánh, chư tiên chư Phật chứng giám, không còn phân biệt tiên và tục, tài tử hay nhà nghề, đạo diễn, soạn giả hay diễn viên, người và vai tuồng.
Nhạc và vũ là món được dùng để cúng dường, vì lý do ấy.
Khi người chơi kiểng bắt đầu sản xuất kiểng để bán thì anh ta rời khỏi tư thế tài tử để bước sang địa hạt nhà nghề. Kể từ đó, cây kiểng được uốn nắn theo thời thượng, tùy theo đa số thân chủ đề dễ bán.
Nói chung, có chừng hai hạng người mua kiểng:
- Mua lấy cái gốc, đem về sửa lại cho hợp với sở thích riêng.
- Mua đem về để trang trí. Khi đóng vai trò món trang trí thì cây kiểng chỉ còn là hình thức suông, như cây kèn, như những bộ phận lẩm cẩm “mạ kền” gắn vào chiếc xe máy. Nó trở thành một “món đồ” huê dạng, không cần thiết, có nó thì chiếc xe gắn máy không chạy nhanh thêm chút nào, trái lại, còn làm cho chiếc xe thêm bề bộn.
Tốt phước nhất là cây kiểng ngự trị trước cửa những cao ốc chín mười từng, bên cạnh cây kiểng, người lính Mỹ đứng canh gác cẩn thận. Cây kiểng trở thành món đồ chướng ngại.
Hoa làm bằng chất nhựa dẻo được phổ biển, không bao giờ héo, nếu dính bịu thì cứ đem rửa ráy. Người ta đã làm những chậu kiểng nhỏ uốn theo kiểng Nhựt bằng chất nhựa dẻo, với kỹ thuật rất tinh vi. Hoa đã mất hồn, dễ nhàm chán nhưng bán rất chạy trên thị trường, được dành chỗ đặc biệt trên bàn thờ, trong chùa miễu.
Nhiều người nông dân thích mua loại hoa này. Nông dân sống gần thiên nhiên, chuộng thiên nhiên nhưng tại sao lại mua món giả tạo? Nếu khó tánh, người ta sẽ bảo:
- Đó là những người bị văn minh vật chất ám ảnh, muốn làm sang, gẫm lại thì quê mùa, không biết xài tiền.
Vấn đề này khá tế nhị, đáng được phân tích kỹ lưỡng hơn.
Kim cương là quí, mua sắm kim cương quá tốn kém ; người giàu có, bực vua chúa gần như nắm độc quyền trang sức bằng kim cương. Ấy thế mà khi kim cương giả ra đời, nhiều người lại mê thích, mua sắm, trong số ấy có những người đã sắm kim cương thứ thiệt. Người có sáng kiến để chế tạo kim cương giả dường như là Lalique, ông ta mài gọt thủy tinh, nhuộm cho thủy tinh đượm nhiều màu, óng ánh nào kém gì bích ngọc, lam ngọc, hồng ngọc.
Ngirời nông dân mua sắm loại bông bằng nhựa giống như bực vua chúa mua sắm kim cương, ngọc nhân tạo. Họ ca ngợi sự khéo léo của người thợ dám cạnh tranh với thợ trời. Loại giả tạo này được thông dụng, làm mất cũng không tiếc vì chỉ đóng vai tuồng trang trí, theo thời trang.
Bá Di và Thúc Tề không chịu ăn thóc lúa nhà Châu, lên núi Thú Dương hái rau vi. Hai ông này không chịu phản Trụ, đầu Châu, ăn rau vi là thái độ bất hợp tác.
Nghe đâu có người đàn bà nọ chất vấn hai ông:
- Ở trên đất nhà Châu thì ngọn rau tấc đất là của nhà Châu, không ăn lúa mà ăn rau thì cũng vậy thôi.
Thế là Bá Di, Thúc Tề xấu hổ, thề nhịn đói mà chết. Bá Di, Thúc Tề quả là hai cây kiểng lớn, đáng cho khách yêu kiểng đời sau suy gẫm,
Thời phong kiến, vua cai trị thừa ủy nhiệm của Trời. Trời sanh ra vạn vật, cây cối, chim chóc, sông núi. Nói theo quan niệm xưa thì khi nhà Châu đắc thắng, cả vũ trụ đều thuộc quyền sở hữu của dòng họ này. Bá Di và Thúc Tề không còn gì riêng để ăn, để ngắm nghía, vũ trụ về tay kẻ thù thì nương tựa vào đâu mà đứng, giữ lấy thế ngạo nghễ, độc lập. Hai ông sách động bản thân mình, dùng cái luân lý giáo điều phong kiến để chống lại một hành động mà luân lý phong kiến cho phép: khi đắc thắng nhà Trụ, Châu Võ Vương đã tự tấn phong là thừa mệnh Trời rồi.
Khí giới của Bá Di, Thúc Tề đã quay trở ngược lại để giết người cầm nó, nhưng cái chết ấy được đề cao về sau này:
“Danh chẳng tham mà lợi chẳng mê.
Ấy gan hay sắt? Hỡi Di, Tề!”
“Không màng danh lợi” là lời mà người chơi kiểng tự phong cho mình trong phút giây siêu thoát, bắt gặp con nhền nhện đang giăng tơ hoặc giọt sương ở đuôi lá, trong chậu kiểng.
Bá Di, Thúc Tề đã chết, trở về Thiên nhiên và trở thành Thiên nhiên - đặc tính của Thiên nhiên là vô tâm, không màng danh lợi.
Trên hòn non bộ, thỉnh thoảng ta gặp hình ảnh Bá Di, Thúc Tề hoặc linh động hơn, hình ảnh Sào Phủ và Hứa Do với con trâu bên dòng suối.
“Quán rằng: Nghiêu Thuấn thuở xưa.
Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do
Di, Tề chẳng khứng giúp Châu”
(Lục Vân Tiên)
Tuy ghét Bá Di, Thúc Tề nhưng chắc rằng Châu Võ Vương ao ước có bầy tôi trung dám noi gương Bá Di, Thúc Tề nếu trong mai hậu nhà Châu bị nguy khốn, sụp đổ ngai vàng.
Trúc Lâm Thất Hiền vẫn là hình ảnh đẹp, giúp cho kẻ sĩ thời phong kiến được “xả hơi, bớt giận” có nẻo thoát thơ mộng nếu không được ông vua đương thời trọng dụng, chiều chuộng. Nẻo thoát ấy có lợi cho nhà vua đương thời, đau như thái độ võ trang bạo động.
Nhà triết bọc Phùng Bữu Lan cho rằng bảy ông hiền trong rừng trúc tiêu biểu cho “thói phong lưu”, phong lưu tức là lãng mạn theo nghĩa của văn chương Tây phương. Phong lưu cũng là sống theo ý mình thích, có những nết ăn thói ở tự nhiên, không lệ thuộc vào lễ giáo, nghi thức xã giao.
Nguyễn Tịch, một trong bảy ông hiền, uống rượu đựng trong cái hũ lớn, lúc đang uống thì có vài con heo chạy tới thọc mõm vào hũ. Nguyễn Tịch cứ uống tự nhiên với mấy con heo.
Lưu Linh uống rượu rất cừ khôi và được nhắc nhở với cái tật thích ở trần truồng khi nằm nhà. Ai chê bai thì được nghe ông ta trả lời: “Trời cao đất rộng là nhà của ta, cái căn chòi nầy là quần áo của ta. Bạn vào đây, tức là bạn chun vô cái quần của ta rồi đó!” Ông Lưu Linh sống tự nhiên giữa thiên nhiên.
Yêu thiên nhiên, sống tự nhiên là sự chuyển mình lớn của tư tưởng Âu Mỹ, vận động cho chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương và cho cuộc cách mạng dân quyền Jean Jacques Rousseau tranh đấu đòi bình đẳng giữa con người, để ra phương pháp giáo dục mới.
Bên Mỹ Châu, văn hào Henry David Thoreau cất nhà, sống tự túc bên hồ Walden, ca ngợi tánh chất vui tươi và khỏe mạnh của rừng núi, của nắng sớm, phê phán cái chế độ “dân chủ không dân chủ”, để ra chủ trương bất bạo động: Một khi bất mãn với chánh quyền thì ta đừng đóng một đồng xu thuế nào cho chánh quyền”. Thuyết của Thoreau được thánh Găng-Đi, mực sư L. King tiếp nối, áp dụng.
Rousseau và Thoreau sống tự nhiên, chống phong kiến đòi dân chủ, rất lãng mạn và phong lưu, lý thuyết đưa ra kịp thời, hướng dẫn nhân loại tiến lên. Bấy giờ ở Âu Mỹ kỹ nghệ đang phát triển và sắp bành trướng mạnh hơn. Hai ông hướng về tương lai, có đất đứng.
Mấy ông hiền ở rừng trúc thì ao ước trở lại đời Nghiêu Thuấn, mơ ước dĩ vãng, sống lãng mạn trong khuôn khổ một nước Trung Hoa nông nghiệp với những cộng đồng nguyên thủy chưa tan rã - Việc làm của các ông hiền như bầy kiến bò quanh miệng chén, như cây pháo bông cháy rực rỡ trong phút giây rồi tàn trong đêm tối.
Rừng trúc và bảy ông hiền đã hòa điệu, người và cảnh bồi bổ cho nhau. Mấy ông là tiếng nói của rừng trúc, rừng trúc là phong độ của mấy ông. Bởi vậy rừng trúc phải đẹp, xanh mát, không một lá vàng, thân trúc mọc thẳng, không một nháng gẫy. Bởi vậy ông hiền luôn luôn tươi tắn, với nụ cười “chịu chơi” dưới mắt họa sĩ. Rừng trúc đẹp mà thiếu các ông thì không xong,,như thiếu trận gió rì rào. Các ông mà ngồi trơ trẽn thiếu rừng trúc làm bối cảnh thì gương mặt thiếu nghiêm chỉnh, trở thành những vai hề đần độn.
Các ông không mất thời giờ để ngắm nghía từng lá trúc. Bụi trúc cứ mọc lên, đón trăng gió, không cần nghiêng mình để cố ý che mát cho các ông. Người và trúc đều sống tự nhiên vậy.
Ngày nay, hoàn cảnh đã thay đổi. Đừng mơ ước khung cảnh cũ đừng hòng được yên ổn tâm thần nếu chỉ nhái theo hình thức của người xưa. Có những chén rượu phong lưu cũng như có những chén rượu nhục. Nhục vì không hợp với tự nhiên.