PHẦN KẾT (29)
Sáng thứ Hai ông lên chuyến tàu đầu tiên về miền Nam. Rời ga Waverley lúc sáu giờ, vào ga Thập tự của Đức Vua ngay sau mười giờ. Khoảng tám giờ ông gọi tới sở quảng trường Gayfield và báo rằng ông không được khỏe - cũng không sai khác sự thực là mấy. Nếu họ hỏi ông nguyên nhân trận ốm, ông hẳn đã có chút gay go.
“Tăng ca nhiều quá đây mà,” viên cảnh sát nghe điện chỉ nói vậy.
Sau đó Rebus đến toa nhà hàng trên tàu đánh chén một bữa sáng no nê. Ông quay về chỗ của mình, đọc báo và cố tránh xa những người cùng ngồi trong khoang. Một cậu thanh niên mặt mày sưng sỉa ngồi ở phía bên kia chiếc bàn giữa toa, đang say sưa gật gù theo tiếng ghi ta, phát ra từ đôi tai nghe. Nữ doanh nhân ngồi kế bên cậu ta tỏ vẻ cáu kỉnh vì không đủ không gian để bày hết đồ làm việc. Không có người nào ngồi ghế bên cạnh Rebus - cho đến trước ga York thì không. Đã lâu rồi ông mới lại đi tàu. Khung cảnh hối hả nhộp nhịp với các đoàn khách du lịch và hành lý, tiếng trẻ nhỏ khóc thút thít, những người đi nghỉ mát và cả các công nhân trên đường trở lại với những ngày làm việc trong tuần ở Luân Đôn. Tiếp sau York là Doncaster rồi đến Peterbough. Người đàn ông béo lùn vừa ổn định chỗ ngồi đặt trước kế bên Rebus chìm vào giấc ngủ, sau khi cho biết thực ra ông ta đã đặt ghế cạnh cửa sổ nhưng sẽ không lấy làm phiền phải ngồi ở ngoài nếu Rebus không muốn đổi chỗ.
“Thế cũng được,” Rebus nói ngắn gọn.
Sạp báo ở Waverley chỉ mở cửa ít phút ngay trước khi đoàn tàu rời ga, Rebus vẫn kịp lấy một tờ Người Scotland. Bài viết của Mairie chình ình ngay trang bìa. Tuy không phải là tâm điểm của số báo này, cộng thêm việc tác giả sử dụng quá nhiều những từ ngữ như “viện cớ”, “có thể” và “có khả năng”, nhưng Rebus vẫn thấy hài lòng với tiêu đề của bài viết:
ĐIỀU BÍ ẨN SAU NHỮNG KHOẢN VAY CỦA ÔNG TRÙM VŨ KHÍ TRONG QUỐC HỘI
Nhìn là Rebus biết ngay đoạn mở đầu đúng kiểu không nói hết ý; hẳn Mairie đang dành đạn cho tương lai.
Ông không hề mang theo hành lý; định sẽ làm người cuối cùng xuống tàu. Thực ra vẫn còn lựa chọn nâng hạng lên toa nằm, và có lẽ ông đã đặt thế thật – cơ hội để hỏi thăm nhân viên trên tàu, xem liệu hôm thứ Tư có ai trong số họ phục vụ toa nằm từ Edinburgh về miền Nam hay không. Dường như Rebus chính là người cuối cùng nhìn thấy Stacey Webster, trừ phi các nhân viên công ty Xe lửa Đông Bắc tình cờ chạm trán cô ta. Giá đêm đó ông theo cô ta tới ga Waverley, thì có phải ông đã biết chắc được cô ta có lên tàu hay không. Bây giờ thì cô ta có thể ở bất cứ đâu - bao gồm cả khả năng náu mình đâu đó chờ Steelforth thu xếp cho một thẻ công dân mới.
Rebus cũng không hồ nghi khả năng hòa nhập với cuộc sống mới của cô ta. Đêm qua ông đã nghĩ về tất cả những tấm mặt nạ Stacey từng mang: một nữ cảnh sát, người phụ nữ trẻ tên Santal, người chị gái hết mực thương yêu em trai và một kẻ sát nhân. Đúng là âm thanh bốn kênh rời, hệt như nói trong album của ban nhạc Kẻ Nào. Hôm Chủ nhật, Kenny - con trai của Michael, đã đến căn hộ của Rebus trên chiếc xe BMW, và bảo là có mấy món đồ cho ông ở ghế sau. Rebus nhận ra ngay các album, băng cát xét và đĩa CD, tất cả đều từ những năm 45… Toàn bộ bộ sưu tập của Michael.
“Trong di chúc có nói,” Kenny giải thích, “cha cháu muốn bác nhận những thứ này.”
Sau khi bọn họ khuân toàn bộ đống đồ lên hai lượt thang gác, Kenny chỉ nán lại uống hết cốc nước, để lại Rebus vẫy chào tạm biệt đứa cháu và trân trân nhìn món quà. Ông thả mình ngồi xuống sàn nhà, bên cạnh những chiếc hộp rồi bắt đầu xem từng thứ một: bản Hạ sĩ Pepper âm thanh mono do ban nhạc huyền thoại The Beatles thực hiện, Let it Bleed của nhóm The Rolling Stones với bìa đĩa in hình tên lục lâm thảo khấu Ned Kelly cùng với rất nhiều đĩa nhạc của nhóm rock Nút Thắt, Nếm Trải và Tự Do… một vài đĩa nhạc của Van Der Graaf và Steve Hillage. Thậm chí còn có băng cát xét mang tên Kẻ sát nhân của danh ca Alice Cooper và một album của nhóm Những Chàng Thủy Thủ. Một kho báu đầy ắp những kỷ niệm. Rebus đưa tay áo lên che mũi - chính mùi của những món đồ cũ kỹ này đã khiến Rebus nhớ về quá khứ. Những đĩa đơn còng queo của ban rock Cây Nhựa Ruồi, bị bỏ quên bao năm trên đầu quay đĩa hát sau một buổi tiệc tùng nào đó… một bản sao ca khúc “Cỗ máy bạc” với nét chữ của Mickey ghi bên trên - “Đĩa này của Michael Rebus - Rụt tay lại ngay!!!”
Và đĩa Quadrophenia, dĩ nhiên rồi, mép của nó đã bị quăn còn vỏ nhựa thì bị xước nhưng vẫn chạy tốt.
Ngồi trên tàu, Rebus nhớ lại những lời cuối cùng Stacey nói với ông: Chưa bao giờ nói với anh ấy là anh rất hối hận… ngay trước khi lao vào nhà vệ sinh. Ông tưởng Stacey nói tới Mickey, nhưng bây giờ ông hiểu cô ta cũng đang nói tới chính mình và Ben. Hối hận vì cô ta đã giết hại ba người đàn ông? Hối hận vì cô ta đã cố tìm gặp để báo với em trai? Ben hiểu ra cậu ấy sẽ phải giao nộp chị gái, vậy là trong chớp mắt đã thấy bờ thành đá dày ở lại phía sau, đồng thời cảm nhận cú rơi hẫng chới với ngay sau đấy… Rebus nghĩ về cuốn tự truyện của Cafferty - Kẻ dễ thay đổi. Ông nghĩ đó là tiêu đề mọi người đều có thể dùng cho cuốn tự truyện của mình. Con người ta biết, họ có thể vẫn vậy nơi vẻ bề ngoài - tóc hoa râm lơ thơ hay một vành tóc dày hơn xung quanh phần giữa đỉnh đầu - nhưng anh không sao đoán biết được điều gì đang ẩn sau cặp mắt của họ?
Đến ga thị trấn Doncaaster xong rồi thì điện thoại cầm tay của ông đổ chuông, đánh thức vị hành khách kế bên đang ngáy khe khẽ. Số điện thoại là của Siobhan. Ông lờ đi, bởi thế cô đành phải gửi cho ông một tin nhắn mà sau khi đã xem hết đống báo và chán ngắm cảnh thôn quê ông cuối cùng mới mở ra xem.
Anh đang ở đâu? Corbyn muốn trao đổi với chúng ta. Cần cho ông ấy biết vài chuyện. Gọi cho tôi.
Rebus biết rằng không thể gọi, không phải khi đang ngồi trên tàu - cô sẽ đoán ra ông đang đi đâu. Để tránh bị phát hiện, ông chờ thêm ba mươi phút nữa rồi mới trả lời.
Đang nằm nhà không khỏe nói chuyện sau.
Ông vẫn chưa quen sử dụng dấu câu. Siobhan đáp lại ngay tức thì:
Say rượu?
Bội thực hàu ở hồ Loch Lomond, ông trả lời.
Ông tắt điện thoại để tiết kiệm pin, rồi nhắm mắt lại vừa lúc trưởng tàu thông báo ga Thập tự Vua sẽ là “ga tiếp theo và cũng là ga cuối cùng”.
“Ga tiếp theo và cũng là ga cuối cùng,” tiếng loa phóng thanh nhắc lại.
Ban nãy đã có thông báo về việc tàu sắp dừng bánh. Nữ doanh nhân với gương mặt nghiêm nghị giữ khư khư tấm bản đồ hệ thống xe điện ngầm như thể không muốn chia sẻ nguồn thông tin. Rebus nhận ra một vài ga nội vùng khi con tàu lăn bánh qua ngoại ô Luân Đôn. Khách hay đi tàu bắt đầu đứng lên dém hành lý. Máy tính xách tay của nữ doanh nhân đã ở trong túi khoác vai, cùng các hồ sơ, giấy tờ, sổ nhật ký và tấm bản đồ. Người đàn ông mập lùn ngồi kề bên Rebus đứng dậy và cúi chào, như thể bọn họ vừa cùng nhau chia sẻ cuộc chuyện hò tuy dài dòng nhưng chân thành. Vì không vội vàng gì, Rebus trở thành một trong những người cuối cùng xuống tàu, nên phải len qua nhóm nhân viên làm vệ sinh tàu trên đường ra.
So với Edinburgh, Luân Đôn nóng và dấp dính hơn. Chiếc áo khoác trên người Rebus bỗng trở nên nặng trĩu. Ông đi bộ ra khỏi ga, chứ không bắt taxi hay tàu điện ngầm. Rồi ông châm một điếu thuốc và để mặc tiếng ồn và khói bụi bủa vây. Thở một vòng khói thuốc ra bầu khói bụi ấy rồi ông lấy ra một mảnh giấy từ trong túi. Đó là một tấm bản đồ, đánh dấu từ A đến Z, và do chính David Steelforth đưa ông. Trưa Chủ nhật, Rebus đã gọi cho ông ta để giải thích rằng Siobhan và ông đang xem lại các tình tiết trong loạt án mạng ở Clootie Well và sẽ xin ý kiến ông ta trước khi chuyển hồ sơ cho công tố viên - đấy là nếu có thể hoàn tất vụ án.
“Được rồi,” Steelforth trả lời bằng giọng đầy cảnh giác. Tiếng ồn đặc trưng của sân bay Edinburgh vọng vào điện thoại tiết lộ rằng vị trung tá đang trở về nhà. Ở đầu máy bên kia, Rebus, sau khi đã nhồi cho ông ta cả bao tải chuyện tào lao, giờ đang xin giúp đỡ.
Kết quả: một cái tên, địa chỉ và một tấm bản đồ.
Thậm chí Steelforth còn xin Rebus thứ lỗi về mấy gã cận vệ của Pennen. Nhiệm vụ của mấy gã chỉ là để mắt trông chừng ông, còn việc dùng đòn tra khảo chưa bao giờ có trong kế hoạch. “Mãi sau tôi mới biết chuyện,” Steeltorth giải thích. “Chúng ta cứ luôn tưởng có thể kiểm soát được mấy gã đó…”
Kiểm soát…
Rebus lại hình dung về Gareth Tench, người đã nỗ lực quản lý cả cộng đồng, nhưng lại không thể cải số của bản thân mình.
Chưa tới nửa giờ đi bộ, Rebus áng chừng như vậy. Và thời tiết không phải không đẹp. Một trong mấy quả bom đã phát nổ trong tàu điện ngầm trên đường từ ga Thập tự Vua tới quảng trường Russell, quả bom còn lại trên chiếc xe buýt từ Euston đến quảng trường Russell. Cả ba điểm đều được đánh dấu trên tấm bản đồ ông đang cầm trong tay. Chuyến tàu có giường nằm hẳn sẽ vào ga Euston lúc khoảng bảy giờ sáng.
8 giờ 50 phút sáng - xe điện ngầm nổ tung.
9 giờ 47 phút sáng - chiếc xe buýt nổ tung.
Rebus không tin rằng Stacey Webster đã có mặt tại bất cứ nơi nào. Trưởng tàu quả quyết cho rằng các hành khách trên chuyến tàu hôm nay thật may mắn bởi ba ngày trước đoàn tàu chỉ có thể tới được ga công viên Finsbury mà thôi. Thực ra điều đó cũng không ảnh hưởng gì lớn đối với Rebus…
Cafferty là người duy nhất có mặt trong câu lạc bộ bi-a. Hắn thậm chí không ngước mắt nhìn lên khi Siobhan bước vào và cũng chẳng mảy may để ý tới sự hiện diện của cô cho đến khi hắn thực hiện cú thọc gậy. Một nỗ lực để ăn gấp đôi điểm.
Nhưng hắn đánh trượt.
Hắn bước sang phía bên kia bàn để bôi phấn vào đầu gậy rồi há miệng thổi đi chỗ bụi phấn bám quá nhiều.
“Anh đã làm đủ mọi cách rồi,” Siobhan nói. Hắn càu nhàu rồi hạ thấp người chuẩn bị tư thế.
Lại đánh trượt.
“Vậy mà chẳng cải thiện được chút nào,” cô thêm vào. “Thế cũng đủ biết thực lực của anh thế nào.”
“Chào buổi sáng, hạ sĩ Clarke. Cô tình cờ ghé thăm tôi đấy à?”
“Thấy giống tình cờ ghé thăm lắm à?”
Cafferty ngước lên nhìn cô. “Cô đã phớt lờ tin nhắn của tôi.”
“Hãy quen với việc đó đi.”
“Làm vậy cũng chẳng thể thay đổi những gì đã xảy ra.”
“Thế chính xác thì những gì đã xảy ra?”
Trong giây lát tên trùm tỏ vẻ cân nhắc về câu hỏi Siobhan. “Chúng ta đều đã đạt được điều mình muốn?” hắn giả bộ đoán. “Ngoại trừ việc cô đang thấy tội lỗi.” Hắn chống cây gậy lên mặt sàn. “Chúng ta đều đã đạt được điều mình muốn,” hắn nhắc lại.
“Tôi không hề muốn Gareth Tench phải chết.”
“Cô muốn hắn bị trừng phạt.”
Cô bước lên vài bước về phía Cafferty. “Đừng cố gắng ngụy tạo rằng tôi là người hưởng lợi từ cái chết của ông ta.”
Cafferty tặc lưỡi. “Cô phải bắt đầu tận hưởng thắng lợi nho nhỏ này đi, Siobhan ạ. Tôi nghiệm ra rồi, cuộc đời không mấy khi được như vậy đâu.”
“Tôi đã sẩy chân, Cafferty, nhưng tôi là người biết cách sớm đứng dậy. Anh đã đụng độ Rebus suốt những năm qua, nhưng từ giờ anh còn có một địch thủ khác lúc nào cũng ở sát sau lưng đấy.”
Cafferty cười khúc khích. “Người đó là cô, phải không?” Hắn tựa lưng lên cây gậy. “Nhưng cô cũng phải công nhận rằng, Siobhan, chúng ta đã lập thành một đội ăn ý. Hãy hình dung về viễn cảnh hai ta thâu tóm toàn bộ thành phố này - liên tục trao đổi thông tin, cảnh báo kịp thời và đổi chác… Công việc của tôi sẽ thuận lợi hơn còn cô thì sẽ chóng leo lên được cái thang danh vọng thăng quan tiến chức ấy. Nếu mà nói về chuyện ấy, chẳng phải đều là điều chúng ta muốn?”
“Điều tôi muốn,” Siobhan nói khẽ, “là không còn dính dáng gì tới anh cho đến khi tôi đứng trong bục nhân chứng trước tòa còn anh ngồi trên ghế dành cho bị cáo.”
“Chúc may mắn,” Cafferty vừa nói vừa cười khúc khích rồi tiếp tục chơi. “Trong lúc chờ đợi, muốn đấu một ván với tôi không? Tôi chưa bao giờ giỏi trò này cả…”
Nhưng khi tên trùm ngoái ra sau tìm cô thì Siobhan đã bước ra tới cửa.
“Siobhan!” hắn gọi. “Còn nhớ lúc chúng ta đứng trong văn phòng trên gác không? Và cả bộ dạng lúng túng của thằng nhỏ Carberry nữa? Tôi đã thấy trong mắt cô…”
Cô kéo cánh cửa mở ra, nhưng cảm giác hiếu kỳ bỗng nổi lên. “Cafferty, anh đã thấy gì?”
“Cô bắt đầu tỏ ra thích thú.” Đầu lưỡi của hắn ngọ nguậy giữa hai vành môi mỏng dính. “Tôi dám chắc lúc đấy cô đã bắt đầu cảm thấy thích thú.”
Tiếng cười sằng sặc của Cafferty vẫn vọng theo Siobhan khi cô đã bước hẳn ra ngoài.
Đường Pentonville rồi đến phố Upper… quãng đường xa hơn ông tưởng. Ông ghé vào một quán cà phê đối diện ga tàu điện ngầm Islington và Highbury để bỏ bụng một phần bánh kẹp và xem qua tờ Tin buổi tối. Không ai trong quán nói tiếng Anh và phải chật vật mãi họ mới hiểu nổi khi ông gọi đồ ăn. Dù vậy, món bánh kẹp mới ngon lành làm sao…
Cảm giác hai gót chân bắt đầu phồng rộp ngay khi ông tiếp tục cuộc hành trình. Rời đường Thánh Paul ông rẽ vào Highbury Grove. Đối diện mấy sân quần vợt ông trông thấy con đường mà ông đang tìm. Tìm được tòa nhà ông muốn tìm. Thấy số căn hộ và chuông cửa. Không thấy có tên chủ hộ ghi bên cạnh. Ông vẫn quyết định thử bấm chuông.
Không ai trả lời.
Ông nhìn đồng hồ rồi nhấn chuông các căn hộ còn lại đến khi có người trả lời.
“Gì vậy?” một giọng nói vang lên từ hệ thống liên lạc nội bộ.
“Chủ hộ số chín nhận bưu kiện,” Rebus đáp.
“Đây là hộ mười sáu.”
“Tôi tưởng có thể gửi lại ở chỗ anh.”
“Không được đâu.”
“Vậy tôi cứ để ngoài cửa nhé?”
Tiếng người chủ hộ chửi thề nhưng rồi vẫn có tiếng mở cửa và rồi Rebus bước vào. Ông lên tầng tìm căn hộ số chín. Có một khe nhòm. Ông áp tai lên lớp gỗ. Lùi lại ngắm thật kỹ. Gỗ chắc đặc, với nửa tá khóa và một bản kim loại quanh diềm cửa.
“Ai lại đi sống ở một nơi như thế này?” Rebus thầm tự hỏi. “David, cũng nhờ có ông…” Đây là câu nói nổi tiếng thông dụng của chương trình truyền hình mang tên Qua lỗ khóa. Khác biệt là ở chỗ Rebus biết chính xác ai sống ở đây: dựa trên những gì đã tình cờ lượm lặt được và trực tiếp tự nguyện cung cấp bởi David Steelforth. Rebus miễn cưỡng gõ cửa rồi trở xuống cầu thang. Ông xé nắp bao thuốc lá và lèn nó vào khe cửa chính, để cánh cửa không sập lại. Rồi ông bước ra bên ngoài và chờ đợi.
Ông vốn là người giỏi chờ đợi.
Có cả tá khoang đỗ xe riêng dành cho các cư dân khu nhà, mỗi khoang được một cột kim loại dựng đứng bảo vệ. Một chiếc Porsche Cayenne màu bạc chầm chậm dừng bánh, chủ chiếc xe mở cửa bước ra và mở khóa móc trên thanh chắn để cho xe vào bãi. Gã huýt sáo vẻ mãn nguyện trong khi đi vòng sang phía bên hông xe, còn giơ chân đá vào lốp xe một cái hệt như cách mà loại người thô kệch vẫn thường làm. Gã phủi vết bụi nhỏ xíu bám trên tay áo, tung chìa khóa xe hơi lên cao rồi tóm lấy và bỏ lại vào túi. Một chùm chìa khóa khác xuất hiện, và gã lần tìm chiếc để mở cửa chính vào khu nhà. Gã có vẻ ngạc nhiên khi thấy cánh cửa không đóng chặt. Và rồi mặt gã đâm sầm vào cánh cửa, trong khi cả người gã thì bị lôi qua cửa, thẳng xuống cầu thang - không đời nào Rebus để cho gã có cơ hội kháng cự. Ông túm lấy tóc gã và dộng thùm thụp mặt gã vào bức tường bê tông màu xám, những vệt máu lấm tấm nhanh chóng xuất hiện trên tường. Bị bồi thêm một cú thúc bằng đầu gối lên lưng, Jacko ngã nhào ra sàn trong trạng thái mê mụ nửa tỉnh nửa mơ. Thêm một cú thơi vào cổ và một cú nữa vào xương hàm. Cú đầu tiên cho mình, Rebus nghĩ, còn cú thứ hai là vì Mairie Henderson.
Rebus quan sát kỹ gương mặt của gã đàn ông đang nằm sõng soài. Đó là một gương mặt đầy các vết sẹo nhưng rõ là béo tốt. Gã đã giải ngũ một thời gian và hiện đang làm vệ sĩ riêng. Gã khẽ ngước mắt nhìn lên trước khi nhắm hẳn lại. Rebus vẫn đứng nhìn, phòng khi đây chỉ là mánh khóe đánh lừa. Thấy toàn thân Jacko đã mềm oặt, Rebus liền kiểm tra để chắc chắn rằng mạch của gã vẫn đập và đường thở thì không bị tắc nghẽn. Rồi ông kéo đôi tay gã ra sau và siết chặt bằng chiếc còng tay bằng cao su mà ông đã mua.
Trói chúng lại thật chặt và gọn gàng.
Rồi ông đứng dậy, lấy chìa khóa xe trong túi của Jacko và bước ra ngoài, vừa đưa mắt nhìn quanh để biết chắc không ai theo dõi. Tiến về phía chiếc Porsche, Rebus dùng chiếc chìa khóa cào một đường dọc thân xe trước khi mở cửa xe phía tài xế. Tra chìa vào ổ khóa và cứ thế để cánh cửa hé mở như lời mời gọi. Ngừng giây lát để hít một hơi thật sâu, rồi ông lại bước về phía trục đường chính. Ông sẽ lên bất cứ chiếc taxi hay xe buýt nào xuất hiện vào lúc này. Chuyến tàu khởi hành lúc năm giờ từ ga Thập tự Vua sẽ kịp đưa ông về Edinburgh trước giờ ngừng hoạt động. Ông đã mua vé Xe Lửa Đông Bắc khứ hồi với chiều về để ngỏ - đáng nhẽ ông đã có thể bay tới Ibiza mà cũng không tốn đến vậy. Nhưng bù lại, ông có thể lên bất kỳ chuyến tàu nào ông muốn.
Ông đang còn nhiều việc dang dở ở nhà.
Vận may đã mỉm cười với ông: một chiếc taxi màu đen có đèn sáng màu vàng trên nóc. Rebus ngồi vào ghế sau và bảo tài xế dừng ở Euston - từ đó chỉ cần đi bộ một quãng là tới được ga Thập tự Vua. Ông lấy từ trong túi ra một tờ giấy cùng cuộn băng dính. Mở tờ giấy ra và đọc nó - nội dung nghe có vẻ hơi thô nhưng súc tích. Hai bức ảnh của Santal và cũng là Stacey: một bức có được nhờ anh thợ ảnh, bạn của Siobhan, bức kia từ một tờ báo cũ. Ngay trên hai tấm hình là hai chữ tạo bởi những nét mực đen đậm: MẤT TÍCH, được gạch chân hai lần. Bên dưới là đoạn thông tin Rebus đã phải viết đi viết lại tận sáu lần sao cho thật chân thực:
Hai người bạn của tôi, Santal và Stacey, đã mất tích kể từ vụ nổ bom. Sáng hôm đó, họ đã đến Euston trên chuyến tàu đêm từ Edinburgh. Nếu trông thấy hay có bất kỳ tin tức nào về họ, làm ơn hãy gọi cho tôi. Tôi cần biết họ đang an toàn và khỏe mạnh.
Ông không đề tên bên dưới, chỉ ghi lại số điện thoại của mình. Trong túi ông còn có một xấp bản sao của đoạn thông báo này. Ông đăng thông tin về việc cô ta bị mất tích lên hệ thống máy tính của Cảnh sát Quốc gia và cung cấp cả hai nhân dạng, chiều cao, tuổi, màu mắt kèm theo một vài thông tin cá nhân. Tuần tới bản miêu tả nhận dạng của cô ta sẽ xuất hiện ở khắp các trung tâm thiện nguyện dành cho người vô gia cư và cả trên báo Chuyện lớn. Đợi Eric Bain ra viện, Rebus sẽ hỏi cậu ta về vụ mấy trang thông tin trực tuyến. Thậm chí cậu ta có thể giúp ông lập một trang web riêng. Một khi Stacey còn sống tức là vẫn có thể truy tìm được cô ta. Không đời nào Rebus chịu từ bỏ vụ này.
Chưa từng từ bỏ dù cũng đã khá lâu rồi.