← Quay lại trang sách

- 5 - DỐC SỎI : ĐẤT THIÊNG KHÍ HÙNG

Dốc sỏi: một địa danh còn ghi lại trong lịch sử Biên Hùng.

Nơi đây, một buổi sáng tinh sương, người ta thấy 9 cái cọc đã trồng từ hôm trước, mỗi cọc cột một tử tội, 7 người bận quần áo xanh còn 2 người bộ bà ba màu nâu.

Một tốp lính « khố xanh » tất cả 12 người, bồng súng chĩa vào 9 tử tội ngạo nghễ nhìn thẳng vào họ trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Lính « khố xanh » là danh từ lính Việt trong quân đội thuộc địa Pháp hồi bấy giờ. Họ bận quần áo kaki vàng, thắt dây lưng vải xanh, trước bụng có miếng vải vuông màu trắng, nên mới gọi là lính « khố xanh ».

Phút chót của 9 tử tội đã đến. Viên « ách » (thượng sĩ) người Pháp chỉ huy tốp lính giơ tay lên cho lịnh bằng một tiếng: « Phơ ». Cánh tay của y hạ xuống thì 12 phát súng nổ đều ở 12 họng súng. 12 viên đạn ghim vào thân của 12 tử tội từ phút này đã thành những tử thi gục đầu xuống ủ rũ, đẫm máu.

Viên « ách » cầm súng lục đi tới gần đám tử thi bắn vào màng tang (thái dương) mỗi người một phát cuối cùng cho chết hẳn.

Xong xuôi, một đám tù nhơn được lịnh đến cởi trói cho tử thi, bỏ chiếu từng người chôn xuống 9 cái hố đã đào sẵn gần đó.

Đám tù này từ khám đường Biên Hòa đã được dẫn tới Dốc Sỏi từ chiều hôm trước để chặt cây cối cho quang đãng, trồng 9 cái trụ thật vững và đào 9 cái hố.

Dốc Sỏi ở ven một khu rừng, cây cối xanh tươi, hoang vu, vắng vẻ. Dốc Sỏi đã được sửa sang cho thành pháp trường.

Khi ấy vào đầu năm 1916, chín tử tội kia là chín nhà ái quốc Việt Nam ở đất Biên Hùng, đã đổ máu đào đền nợ nước sau khi mưu toan việc lớn không thành. Cuộc khởi nghĩa của chín nhà ái quốc dầu thất bại song đến ngày nay còn ghi lại 2 câu vè nhắc nhở hậu thế nhớ mãi chín liệt sĩ của giống nòi:

Ai về Bến Cá, Tân Uyên

Nhớ rằng Dốc Sỏi đất thiêng khí hùng.

Nằm về phía Bắc tỉnh lỵ Biên-Hòa, do đường Phan-Đình-Phùng ngày nay đưa tới, vùng Dốc Sỏi ở sát ranh với phi trường của tỉnh lỵ.

Hồi 1916, vùng nầy còn là rừng già, ít người lui tới vì cọp beo thường bắt gia súc làng lân cận mà đem về đây ăn thịt. Sau nầy thực dân Pháp khai phá vùng Dốc Sỏi nhưng cũng còn vắng vẻ âm u. Cho đến khi nước nhà độc lập, nơi đây mới thành một vùng làm ăn trù mật. Hai tiếng Dốc Sỏi chỉ còn phảng phất trong tâm trí người dân địa phương.

Các ông già bả cả của thế hệ trước có nhớ tên của chín nhà ái quốc đã tạo ra « khí hùng cho đất thiêng Dốc Sỏi ». Đó là: ông Năm Hi, ông Ba Hầu, ông Hai Lựu, ông Tư Lào, ông Năm Lẹt, ông Hai Sô, ông Ba Vận, ông Bảy Phát, ông Hai Danh.

Các cụ kể vanh vách từng tên một vì nhớ nằm lòng. Còn họ của chín liệt sĩ, thì không cụ nào biết, vì lúc sanh thời thuở trước người ta ít chú ý đến họ, chỉ thường gọi nhau bằng tên thử và tên tộc chỉ ít người được biết mà có khi biết sai lệch là khác. Tiếc thay không còn hồ sơ vụ án 9 liệt sĩ Biên Hùng nên không đủ danh tánh ghi trong sử sách.

Trong 9 liệt sĩ ấy có ông Năm Hi là một nhà túc nho, am thông kinh Dịch ; lúc bị bắt vào tay Pháp, ông đã xin duy trì cái áo dà của tu sĩ mà ông thường bận hàng ngày. Cái áo ấy ông bận ra tới pháp trường và mang theo xuống lòng đất mẹ.

Các cụ kể rằng ông Năm Hi là người được uy tín nhất trong đảng cách mạng ở Tân Uyên (Biên Hùng) và các đồng chí đều nghe theo quyết định của ông. Khi các bạn ông bị bắt gần hết, ông còn ở ngoài, xét không thể hoạt động được nữa, bèn ra mặt để cho Pháp bắt vào khám đường cùng anh em trọn hai chữ thủy chung, sống chết có nhau.

Ông Năm Hi được coi như Khổng Minh của đảng hay vị tham mưu trưởng, theo danh từ ngày nay.

Việc điều khiển binh sĩ thì có ông Ba-Hầu hồi ấy làm hương hào nên có người gọi là Hương-Hầu. Võ nghệ cao cường ông được anh em thán phục, tuân theo mệnh lệnh răm rắp.

Hồi ấy là năm 1916, nước Pháp đang nguy khổn với Đức trong cuộc đại chiến 1914-1918 sự bại trận của Pháp có thể xảy ra bất thần. Các nhà ái quốc V.N. bôn ba hải ngoại cho rằng giờ giải phóng đất nước đã đến.

Mặc dầu thực dân Pháp với chánh sách nịnh dân của Toàn quyền Xa Lộ (Sarraut) song một số người Việt Nam thức thời ở trong nước cũng không để cho bị đầu độc, ru ngủ…

Trong các làng khắp Trung Nam Bắc có những người giác ngộ, chỉ chờ cơ hội tốt là nổi lên phất cờ khởi nghĩa.

Vùng Tân Uyên có nhiều tay võ giỏi, môn sinh của phái Tân Khánh nổi tiếng thời bấy giờ. Họ đưa các bậc đàn anh lên để mưu toan việc giành độc lập. Họ là 9 nhà ái quốc nói trên mà hai người cầm đầu cùng trong số này là ông Năm Hi và ông Hương Hầu.

Họ lấy trại Lâm Trung làm căn điểm tụ tập quân sĩ. Do đó sau nầy có người gọi phong trào nầy là cuộc khởi nghĩa của « Lâm Trung trại ».

Các đảng viên, ngoài những tráng niên võ giỏi, sức mạnh, hăng say với bầu máu nóng, còn có những nhà giàu ủng hộ bằng tiền gạo nữa. Chẳng bao lâu « Lâm Trung trại » đã có gần 300 đảng viên với 300 khẩu súng mua của lính « săng đá » – (lính Pháp) – hay do đảng viên mua từ Xiêm tải về bằng đường rừng.

Chín yếu nhơn của đảng lấy núi Gò Mọi làm nơi luyện tập binh sĩ và tin rằng nơi đây rừng núi hiểm trở, quân Pháp không thể biết được. Kế hoạch của các ông là đánh lấy đồn lính ở Biên Hòa trước rồi tất nhiên các tỉnh khác sẽ nổi lên hưởng ứng sau. Biên Hòa là căn cứ quan trọng nhứt của Pháp ở Nam Kỳ. Chiếm được Biên Hòa là nắm được then chốt của miền Nam.

Ông Ba Hầu làm hương hào, nhà giàu có lớn, lại không ham phú quý, cầu an, nên gương sáng của ông được nhiều thanh niên ái quốc noi theo.

Cuộc khởi nghĩa bắt đầu bằng cuộc tấn công các trại tân binh ở Tân Uyên, nơi mà thực dân Pháp bắt lính Việt, sắp chở qua Pháp đánh với Đức.

Các tân binh được giải thoát liền gia nhập cuộc khởi nghĩa.

Bước đầu thắng lợi, chưa kịp khai thác thì có hai tên phản đảng là Nghĩa và Mạnh, hai tên đã đi lính cho Pháp đến chức « quản » nên tiếc địa vị mà lẻn trốn khỏi Tân Uyên, lên cấp báo cho đồn lính. Ở Biên Hòa chưa hề hay biết gì cuộc khởi nghĩa ở Tân Uyên. (Đường giao thông hồi ấy chưa thuận tiện).

Pháp bèn huy động chủ lực, chia làm sáu cánh quân kéo tới Tân Uyên.

Đảng cách mạng không dè có sự phản phúc của hai tên Nghĩa và Mạnh ; yếu tố « bất thần » chưa kịp khai thác đã bị quân Pháp sử dụng mà quật lại mình.

Ông Ba Hầu cấp tốc hỏi ý kiến bộ tham mưu thì ai cũng đòi « quyết chiến ».

Tân Uyên đã bị quân Pháp bao vây. Chưa tiện hy sinh toàn lực trong một cuộc xáp chiến mà sự thất bại nghiêng hẳn về phía mình, ông Ba Hầu cho lịnh tản binh vào rừng. Xong xuôi rồi, bộ tham mưu còn 9 liệt sĩ rút qua một ruộng mía, tính tìm nơi hiểm trở để tổ chức kháng pháp. Lại một lần nữa có cuộc nội phản, quân Pháp biết khu ruộng mía mà 9 ông đang rút lui: chúng phóng một trận hỏa công, đốt cháy ruộng mía, tính giết chết 9 ông. Nhưng kỳ thay một phép lạ đã xảy đến ; ngọn lửa đang bốc lên dữ dội thì có trận gió lớn thổi mạnh ngược lại về phía quân Pháp. Thế là 9 nhà ái quốc V.N. thoát nạn.

Nhưng chẳng bao lâu, quân Pháp lùng bắt lần lần hết những yếu nhơn trong đảng « Lâm Trung trại ». Cuộc khởi nghĩa kéo dài được đúng một tháng và từ Tân Uyên đã kết liễu ở Dốc Sỏi với chín tử thi: 9 nhà ái quốc đã mỉm cười khinh cuộc thất bại, ngạo nghễ như để lại cho đời sau một bổn di chúc: « Dân tộc V.N. phải trường tồn »:

Ai về Bến Cá, Tân Uyên

Nhớ rằng Dốc Sỏi đất thiêng, khí hùng.