- 8 - TIẾNG SÚNG KHỞI NGHĨA ĐẦU TIÊN
Một hôm vào mùa hạ năm 1915, tại tòa Lãnh sự Đức, ở Vọng Các, có thết một bữa ăn thân mật trong vườn hoa Sứ quán.
Dự tiệc, ngoài hai ông sứ thần Đức và Áo là chủ nhân, chỉ có hai người Việt-Nam bận Âu phục, một người thông ngôn và nữ bí thư của lãnh sự Đức. Tất cả 6 người trong lúc ăn uống, nói chuyện mưa gió phong tục, tập quán của dân bổn xứ hai bên, chứ không đá động gì đến quốc gia đại sự.
Ấy vậy mà hai người khách dự tiệc, hai người Việt Nam, lại là hai nhà cách mạng bôn ba hải ngoại: cụ Mai Sơn và cụ Đặng tử Kính, đồng chí của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, ở Quảng Đông mới tới Xiêm (Thái Lan).
Hai nước Đức và Áo hồi ấy còn là đồng minh và cuộc chiến tranh Pháp Đức đã bước qua năm thứ nhì. Người Đức muốn liên lạc với nhà cách mạng Việt Nam để ngầm giúp, hầu mong có thể gây lên một cuộc khởi nghĩa ở V.N. hầu làm khó dễ cho chính phủ Pháp. Người Pháp sẽ lo lắng đối phó với tình hình thuộc địa sẽ yếu thế ở ngay trong nước, quân đội Đức sẽ có cơ hội thắng lợi.
Tòa lãnh sự Đức đa tỏ ý muốn gặp Kỳ ngoại hầu Cường Để song nhằm lúc cụ Cường Để đi viếng Âu châu, không có mặt ở nước Tàu, còn cụ Phan bội Châu, người thứ nhì cầm quyền điều khiển các nhà cách mạng ở hải ngoại, thì lại mắc vòng lao lý: cụ đang bị giam cầm ở Quảng Đông, vì Long Tế Quang bắt cụ, toan bán cho Pháp.
Từ ngục thất, cụ Phan bội Châu được báo tin tòa lãnh sự Đức muốn tiếp xúc với đảng cách mạng, cụ bèn cử hai cụ Mai Sơn và Đặng tử Kính thay mặt các đồng chí mà đi Xiêm nói chuyện.
Sau các cuộc mật đàm, khi ở tòa lãnh sự, khi ở nhà riêng các bạn hữu ông đại sứ, để tránh tai mắt của gián điệp, hai cụ Mai và Đặng đã hiểu rõ thâm ý của nước Đức: muốn giúp phong trào cách mạng nổi lên ở Việt Nam, nhưng giúp một cách kín đáo, không chánh thức và để cho hai ông lãnh sự Đức-Áo lấy tư cách cá nhân mà giúp trong giai đoạn đầu, nếu cuộc nổi dậy chống Pháp có thể thành công, tức khi đã khắc phục được một phần lãnh thổ rồi, nước Đức sẽ công khai nhìn nhận tân chính phủ V.N. và viện trợ vật chất một cách mạnh mẽ.
Hai đại diện cách mạng Việt Nam đã trình bày hết thực lực của V.N. ở hải ngoại cũng như ở trong nước và thiết tha yêu cầu Đức giúp đỡ.
Sau các cuộc mật đàm, đến tiệc thân thiện để kết thúc câu chuyện.
Hai vị lãnh sự Đức, Áo mời hai cụ Mai và Đặng đi tản bộ trong vườn rồi kín đáo đưa tặng hai cụ một số tiền lớn 10.000 ti-cô (tiền Xiêm) gọi là tượng trưng cho cuộc sơ giao và nhấn mạnh rằng đó là do tự động của cá nhân hai ông.
Số tiền một vạn đồng ti-cô hồi ấy là một số tiền rất lớn vì công dụng của nó đã giúp cho các nhà cách mạng mở được một cuộc tấn công đầu tiên ở vùng Cao Bằng và nếu thành thì chắc là đại cuộc đã tiến triển thuận lợi để đi tới giải thoát xứ sở.
Số 10.000 bạc Xiêm đem về Quảng Đông. Các nhà cách mạng hồi ấy chia ra ba khuynh hướng mỗi phe đưa ra một chương trình hoạt động.
Phe Tán Thuật (Nguyễn Thiện Thuật) muốn do đường Đông Hưng đánh về Móng Cáy.
Phe Mai Sơn muốn do đường Long Châu tràn về Lạng Sơn.
Sau chót, phe thứ ba do cụ Hoàng Trọng Mậu lãnh đạo, chủ trương đánh đồn Tà Lùng của Pháp ở tỉnh Cao Bằng.
Sau nhiều cuộc bàn cãi gay go, rút cuộc kế hoạch thứ ba đắc thắng vì có nhiều người tán thành song cũng đã gây chia sẽ ngấm ngầm trong nội bộ đảng cách mạng, làm giảm mất tình đoàn kết là sức mạnh cần thiết trong các công cuộc lớn.
Cụ Hoàng Trọng Mậu cử ông Đinh Hồng Việt đảm lãnh việc quân sự. Ông Đinh Hồng Việt còn có tên là giáo Trung nữa, là con cụ tổng đốc Đinh duy Trinh tỉnh Nam Định (Bắc Việt). Giáo Trung có một người em lấy Trương như Cương, thượng thơ bộ lại ở triều đình Huế. Ông Cương sinh ra một người con gái gả cho Hoàng thân Bửu Đào tức vua Khải Định sau này (thân phụ của Bảo Đại). Nhưng một năm trước khi lên ngôi, Hoàng thân Bửu Đào đã bỏ vợ, để lấy người khác.
Tóm lại, Giáo Trung đáng lẽ là cậu vợ của vua Khải Định.
Năm 1906 ông xin nghỉ dạy học ở Nam Định, tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.
Khi Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, ông trốn sang Tàu tính theo các nhà cách mạng mưu toan đại sự, song ông bị bắt ở vùng biên giới và bị kết án 6 tháng tù. Tù tội cũng không làm nhụt được nhuệ khí của ông. Hết hạn tù ông lại trở về con đường cũ. Lần này ông đi thoát sang Vân Nam rồi hoạt động cùng các nhà cách mạng đã xuất ngoại trước ông.sứ » ở Vọng Các, tức làm trung gian cho đảng cách mạng giao thiệp cùng các Việt Kiều ở Xiêm và các người ngoại quốc.
Đến tháng 3 năm 1915 đảng cách mạng quyết đánh đồn Tà Lùng chiếm cứ tỉnh Cao Bằng làm căn điểm xuất phát cuộc tổng khởi nghĩa.
Bộ tham mưu đặt tại nhà một người Tàu tên là A Nông tại Long Châu ; nhà này còn là nơi chưa võ khí của đảng cách mạng Việt-Nam nữa. Nhà cầm quyền địa phương Tàu hồi ấy cũng biết các cuộc toan tính này song nhắm mắt bỏ qua, chờ nếu phe cách mạnh thành công thì nước Tàu là nước được hưởng những quyền tối huệ. Hơn nữa trong quân đội khởi nghĩa sẽ kéo về giải phóng lãnh thổ Việt-Nam có cả người Tàu nữa. Ông Hoàng Trọng Mậu nhờ một vạn bạc của lãnh sự Đức viện trợ mà có tiền mộ lính Tàu, trả lương cho họ 10 đồng một tháng: ông còn mộ cả lính Thổ (dân thượng du Bắc Việt).
Toán lính xung phong được giao cho Giáo Trung chỉ huy gồm 100 người: 50 người Việt đi tiền đạo và 40 người Tàu cùng 10 người Thổ đi hậu tập. Ngoài ra còn một người Việt sống lâu năm ở vùng biên giới lãnh việc chỉ đạo vì anh em này rất am tường những đường mòn băng qua rừng già.
Võ khí của đoàn xung phong gồm có 10 súng trường, 40 súng lục, 20 cái rựa, (búa chặt cây trong rừng), 60 trái lựu đạn.
Đêm 12 rạng ngày 13 tháng 3 dương lịch, người chỉ đạo đi dọ đường vào 3 giờ và 4 giờ sáng đoàn quân khởi nghĩa tới Tà Lùng.
« Ách cha là ; Chiu viu! »
Câu cảnh cáo ấy vừa thốt ra ở cửa miệng anh lính khố đỏ Lê Luân ; anh gác đồn Tà Lùng, đứng trên pháo đài ở hướng Tây Nam, vừa nhận thấy tiếng động như có chân người đi từ phía ngoài tiến tới gần đồn.
Xin mở một dấu ngoặc để giải thích qua câu hô trên đây: thời Pháp thuộc, các lính bổn xứ dù là Việt hay Miên, Lào, bị tuyển mộ trong các cơ binh khố xanh hay khố đỏ, đều dùng tất cả các hiệu lịnh nhà binh bằng tiếng Pháp. Nói với viên đại úy, người lính thất học cũng làu làu tiếng « Tây bồi » và gọi đại úy là « Cập tển ». Các khẩu hiệu nhà binh anh cũng biết hô bằng tiếng « Tây bồi » nữa.
« Ách cha la, chiu viu » là âm ở câu: « Halte là! Qui vive! ».
Các cấp người Pháp muốn hiểu thế nào thì hiểu.
Những bóng người tiến tới tuy không rành tiếng Pháp, song cũng cảm thấy câu hô ấy có nghĩa là: dừng chân lại! không tôi bắn nát « Ai đó! Tớ đây mà ».
Ông kết thân với Hoàng Trọng Mậu, Nguyễn cẩm Giang (tức cụ Nguyễn Hải Thần) và được các đồng chí giao cho lãnh chức «Trung gian sứ » ở Vọng Các, tức làm trung gian cho đảng cách mạng giao thiệp cùng các Việt Kiều ở Xiêm và các người ngoại quốc.
Đến tháng 3 năm 1915 đảng cách mạng quyết đánh đồn Tà Lùng chiếm cứ tỉnh Cao Bằng làm căn điểm xuất phát cuộc tổng khởi nghĩa.
Bộ tham mưu đặt tại nhà một người Tàu tên là A Nông tại Long Châu ; nhà này còn là nơi chưa võ khí của đảng cách mạng Việt-Nam nữa. Nhà cầm quyền địa phương Tàu hồi ấy cũng biết các cuộc toan tính này song nhắm mắt bỏ qua, chờ nếu phe cách mạnh thành công thì nước Tàu là nước được hưởng những quyền tối huệ. Hơn nữa trong quân đội khởi nghĩa sẽ kéo về giải phóng lãnh thổ Việt-Nam có cả người Tàu nữa. Ông Hoàng Trọng Mậu nhờ một vạn bạc của lãnh sự Đức viện trợ mà có tiền mộ lính Tàu, trả lương cho họ 10 đồng một tháng: ông còn mộ cả lính Thổ (dân thượng du Bắc Việt).
Toán lính xung phong được giao cho Giáo Trung chỉ huy gồm 100 người: 50 người Việt đi tiền đạo và 40 người Tàu cùng 10 người Thổ đi hậu tập. Ngoài ra còn một người Việt sống lâu năm ở vùng biên giới lãnh việc chỉ đạo vì anh em này rất am tường những đường mòn băng qua rừng già.
Võ khí của đoàn xung phong gồm có 10 súng trường, 40 súng lục, 20 cái rựa, (búa chặt cây trong rừng), 60 trái lựu đạn.
Đêm 12 rạng ngày 13 tháng 3 dương lịch, người chỉ đạo đi dọ đường vào 3 giờ và 4 giờ sáng đoàn quân khởi nghĩa tới Tà Lùng.
« Ách cha là ; Chiu viu! »
Câu cảnh cáo ấy vừa thốt ra ở cửa miệng anh lính khố đỏ Lê Luân ; anh gác đồn Tà Lùng, đứng trên pháo đài ở hướng Tây Nam, vừa nhận thấy tiếng động như có chân người đi từ phía ngoài tiến tới gần đồn.
Xin mở một dấu ngoặc để giải thích qua câu hô trên đây: thời Pháp thuộc, các lính bổn xứ dù là Việt hay Miên, Lào, bị tuyển mộ trong các cơ binh khố xanh hay khố đỏ, đều dùng tất cả các hiệu lịnh nhà binh bằng tiếng Pháp. Nói với viên đại úy, người lính thất học cũng làu làu tiếng « Tây bồi » và gọi đại úy là « Cập tển ». Các khẩu hiệu nhà binh anh cũng biết hô bằng tiếng « Tây bồi » nữa.
« Ách cha la, chiu viu » là âm ở câu: « Halte là! Qui vive! ».
Các cấp người Pháp muốn hiểu thế nào thì hiểu.
Những bóng người tiến tới tuy không rành tiếng Pháp, song cũng cảm thấy câu hô ấy có nghĩa là: dừng chân lại! không tôi bắn nát « Ai đó! Tớ đây mà ».
Một vài tiếng Việt được thốt ra để đáp lại song không mạnh mẽ bằng vì đám người tiến tới gần đồn không muốn gây náo động…
Những tiếng nói nhỏ cũng vọng đến tai anh lính gác: « Anh cứ lờ đi, chúng mình là người Việt Nam cả, có xa lạ gì đâu, cùng đồng bào cùng máu đỏ da vàng. Anh để cho chúng tôi giết bọn người Pháp, còn đồng bào sẽ bình an vô sự hết ».
Anh lính Lê Luân đâu có nghe lọt tai được câu nói thống thiết ấy. Anh bắn một phát « cắc bùm! »
Tiếng súng vừa nổ, kế liền đến tiếng còi báo động trong đồn rúc lên. Lính đồn được huy động, đứng sắp hàng chờ lịnh của viên trung sĩ Pháp Kentainger, người chỉ huy đồn.
Viên trung sĩ này nghe tiếng anh lính gác trên pháo đài vừa nạp đạn bắn, vừa nói vọng xuống: « Sếp! Pia-rat! Pia-rat! Sếp! Da-na bố cu nhiều! » (Sếp ơi giặc tới! Giặc tới Sếp ơi! Có rất nhiều!)
Đồn Tà Lùng bị công hãm, hỏa lực của quân sĩ cách mạng tập trung vào hai cửa Bắc và Nam. trong đồn cũng bắn ra, tất cả 192 viên đạn kiểu 1886.
Cuộc xáp chiến kéo dài từ 4 giờ đến 5 giờ 15 thì dứt tiếng nổ. Vì trời đã sáng tỏ, quân cách mạng chưa vào được đồn, thấy mòi thất bại nên rút lui, tản mác vào rừng.
Viên trung sĩ Kentainger cắt nửa tiểu đội ở trong giữ đồn và dẫn một nửa ra dọ xét tình hình.
Lúc này viên xếp đoan người Pháp (thương chánh) cũng đem tốp lính của anh ta tới đồn để toan tiếp viện. Viên tri châu Vương quí Đoàn đem lính dõng của ông (lính người Thượng) đến tiếp tay. Song đã trễ quá 1 tiếng đồng hồ. Ai cũng lo bảo vệ sinh mạng, chẳng vội vàng hy sinh vô ích.
Lúc này các lực lượng nói trên chỉ còn có việc đi lùng bắt « đối phương ». Một cuộc bố ráp lớn lao được cử hành lại làng Pia Quang và Po Táp là hai địa điểm có người Việt ở. (Nên biết rằng vùng Thượng du là của người Mán, Mường, Mèo, Thổ). Hai làng này bị lục soát, phá phách tan hoang vì bị tình nghi là đã dung dưỡng « quân giặc cướp » (danh từ để gọi các chiến sĩ cách mạng). Trong một chuồng bò, viên tri châu lôi đầu ra một người Tàu tay còn ôm trái lựu đạn. Anh này lúng túng không kịp liệng lựu đạn để thoát thân.
Do các vết máu trên đường, quân đồn Tà Lùng còn bắt được ba người Thổ nữa và thâu được các chiến lợi phẩm sau đây: 1 súng lục « ru lô », 1 súng lục hiệu Steyer, 220 bì đạn súng lục Mauser, 4 lựu đạn, 1 bao gạo và 1 bao đựng huy hiệu Việt Nam Quang Phục quân.
Đoàn quân xung phong cách mạng không biết bị chết bao nhiêu người, vì đã rút hết về Quảng Tây.
Tòa án quân sự đặc biệt xử 4 người bị bắt. Người Tàu bị bắt lúc ôm trái lựu đạn bị tử hình, còn ba người Thổ bị tù có hạn.
Những người cầm đầu cuộc tấn công này sau hoạt động ở đất Xiêm. Rủi thay ít lâu, Xiêm trở thành đồng minh của Pháp nên các nhà cách mạng V.N. bị trục xuất tất cả 29 người trong số đó có Hoàng trọng Mậu và Giáo Trung hai yếu nhơn chỉ huy đánh đồn Tà Lùng. Khi tàu Pháp chở 29 nhà cách mạng về Saigon một ông tên Địch Sơn trốn thoát lính canh mà nhảy xuống biển tự tử.
Còn 28 ông bị đưa ra tòa án quân sự ở Hà Nội.
Năm cái đầu rơi trong đó có Hoàng trọng Mậu và Giáo Trung.
Nhưng cuộc chiến đấu giành độc lập thất bại trong bước đầu vẫn tiếp tục trong mấy chục năm sau khi tiềm tàng, khi bộc phát, không bạo lực nào dập tắt được.