- 7 - MATA-HARI VIỆT NAM
Năm ấy, là năm 1911. Tại nhà nuôi trẻ mồ côi của các bà phước ở phố Hàng Bột Hà Nội (sau này gọi là phố Sinh Từ)…
Trong sân, bầy gà con đi theo mẹ kiếm mồi ăn, tiếng kêu cúc cúc. Một đứa trẻ gái chừng trên 10 tuổi hai mắt sáng ngời nhìn theo những con gà nhỏ, không chớp mắt. Hồi lâu nó bỗng để rơi hai giọt lệ tràn xuống gò má. Chú cai vườn đang nhổ cỏ buổi sáng, thấy đứa bé khóc, bèn hỏi:
- Tại sao em buồn! Có chuyện gì mà phải khóc?
- Em khóc vì em thấy bầy gà có mẹ mà nghĩ đến thân phận em mồ côi nên buồn tủi. Em nay không bằng con gà con, không có lấy được một người để nuôi nấng như bầy gà có mẹ này. Em cũng không có anh em, bà con, họ hàng gì cả.
Chú cai vườn trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu. Rồi chú đứng lên sát lại gần đứa bé mà nói nhỏ:
- Em đừng lo buồn. Em không có gia đình, nhưng em còn một gia đình lớn là Tổ quốc, là mấy chục triệu đồng bào. Em sẽ có ngày sống với đời ; em sẽ thấy vui tươi với cái gia đình rộng lớn ở chung quanh em.
Đứa trẻ tuy mặt mũi sáng sủa, thông minh lanh lợi nhưng cũng chưa hiểu nổi mấy câu quá cao ấy đối với tầm óc nó. Chú cai vườn chú ý đến nó từ lâu ; đã nghĩ đến lúc nó lớn lên, khôn ngoan sẽ giúp ích được cho đời. Vì chú cai không chỉ là một người giữ vườn. Chú còn là một cựu đảng viên trẻ tuổi của phong trào Cần Vương, sảy đàn tan nghé, phải nấn náu trong nhà nuôi trẻ mồ côi, chờ cơ hội sẽ thi hành chí lớn.
Từ hôm ấy, chú cai vườn với cô bé có vẻ thân mật hơn.
Chú thường lân la kiếm chuyện nói với cô bé, nhồi những tư tưởng ái quốc vào đầu óc cô. Cô bé sáng dạ, thấm nhuần được lời giáo hóa của chú. Nó cũng nhớ luôn luôn câu nói cuối cùng của chú sau mỗi lần nói chuyện: « Em giữ kín, nếu hở môi nói gì bậy bạ, Tây nó biết thì mất đầu như chơi ».
Ngày tháng trôi qua. Cô bé lớn lên và đến 15 tuổi thì bỏ nhà mồ côi, trốn đi đâu mất.
Chú cai vườn mà không ai biết tên họ là gì, đã xin thôi việc từ năm trước.
Trong khoảng những năm 1914-1917 nước ta có nhiều biến cố: cụ Phan Đình Phùng ở miền Trung phất cờ Cần Vương chống Pháp, vua Hàm Nghi đứng lên đòi lại chủ quyền, Thành Thái rồi Duy Tân cũng không chịu sống dưới bàn tay ác bọc nhung lụa của thực dân ; ngoài Bắc thì Đề Thám khởi Nghĩa, ở nước ngoài cụ Phan Bội Châu, cụ Nguyễn Hải Thần xua binh về đánh các vùng Lạng Sơn, Cao Bằng… Nhưng bao nhiêu thất bại kế tiếp nhau, khiến cho kẻ bi quan đã tắc lưỡi than thầm:
Nhọc lòng xe cát bể đông,
Hao binh mã chẳng nên công cán gì.
Các khám đường mạn ngược tức các tỉnh miền thượng du đầy nhóc những nhà ái quốc, những thanh niên ưu tú của quốc gia đã hy sinh cho nước để rồi sống trong cảnh gông cùm, khổ cực.
Thái Nguyên là tỉnh chứa nhiều phần tử chống Pháp nhứt nên tương đối với các tỉnh khác ở mạn ngược, Thái Nguyên được Pháp phòng thủ kiên cố hơn. Thái Nguyên có một cơ binh hùng hậu gồm cả lính lê dương, lính khố xanh (người Việt) và cả lính dõng nữa (người Thượng) đặt dưới quyền của viên giám binh Bẹt-giê (Berger) có tiếng là con người « thét ra lửa ».
Về hành chánh thì Thái Nguyên được giao vào tay công sứ Đạc (Darles) mà người Bắc đã liệt vào hạng « tứ hung » và đặt ra câu ngạn ngữ: « Nhất Đạc, nhì Be, tam Ke, tứ Bích ». Đó là bốn viên Công sứ (Tỉnh Trưởng) tàn bạo ở Bắc Kỳ: Đạc (Darles) ở Thái Nguyên ; Be (Wintrebert) ở Bắc Ninh, Ke (Eckert) Đốc lý Hà Nội và Bích (Brides) công sứ Lạng Sơn. Không biết trình độ bạo tàn của họ hơn kém nhau ra sao song Đạc cầm quyền ở Thái Nguyên thì thật là một lựa chọn đích đáng của toàn quyền Sa Lộ (Sarraut).
Đạc nói được tiếng Việt Nam, nói tiếng Việt như người Việt.
Thường đêm tối, ngoài phố phường có tiếng rao: « Ai bánh dầy bánh giò ra mua! » Người ta gọi vào nhà mua ăn thì trời đất ơi! Người bán bánh dầy bánh giò té ra là « Quan Công sứ » trá hình. Đạc đã bận quần áo vải nâu, đội thúng bánh lên đầu, chân đi đất, lo xét dân tình, xem có nhà nào chống Pháp thì…
Nhờ lối trá hình ấy mà y thỉnh thoảng khám phá được nơi ẩn trú của các nhà cách mạng, không thì cũng bắt được một vài sòng bạc đang sát phạt nhau.
Đạc còn nghĩ ra một nhục hình tra tấn các phần tử ái quốc bị bắt: cho đi tắm biển « Măng ». Có lẽ y động lòng sầu xứ, nhớ đến biển Manche là một biển phân cách Pháp với Anh, y mới nảy ra sáng kiến đào một biển « Măng » ở ngay khám đường. Nhưng biển Măng ở đây không lớn, nó cũng không có nước mặn mà chỉ phát ra một hơi thúi, ngửi được. Biển Măng của Đạc là hầm chứa phẩn, từ các cầu tiêu chảy đến.
Nhà ái quốc nào không chịu khai là được bọn lính tra tấn nhận xuống hầm chứa phẩn cho ngập đến cổ. Mệt quá rồi vì phẩn làm bít lỗ chân lông, mặt mày xanh lét, sắp ngộp thở, thì người tù được đưa lên xối nước cho hồi dương.
Những tên gác khám lợi dụng cái biển Măng ấy mà khảo tiền những người giàu có bị bắt tình nghi. Chúng làm tiền trắng trợn nhờ lối tra tấn cực kỳ dã man mà quan thầy chúng tạo ra.
Tỉnh Thái Nguyên nổi tiếng hồi đó vì cái biển « Măng » của công sứ Đạc. Dân còn nhớ mãi một hình phạt nữa do viên Công sứ đặt ra để làm gương cho những người muốn « phiến loạn ». Năm ấy y bắt được một người ăn mày tên Trần Lập Thành mà có người điểm chỉ cho y biết là em ruột Trần Cao Vân y bèn vỗ bàn cười sung sướng: « Trần Cao Vân! Một thằng « giặc » đã giúp Duy Tân phản Đại Pháp. nếu thằng Vân thành công thì em nó làm đến chức Thượng thơ bộ binh giết không còn một người Pha-lăng-sa nào nữa ».
Đạc kêu chúa ngục đến, bắt phải lấy dùi đâm lủng hai bàn chân của Trần Lập Thành, xâu dây kẽm mà cột vào giường trong xà lim ; còn hai tay vẫn phải còng như các tù khác.
Sau cơn đau đớn sống đi chết lại mấy lần khi Trần Lập Thành chịu xong nhục hình ấy rồi, Đạc vào xà lim nhìn nạn nhân một cách khoan khái.
Bao nhiêu tàn ác của công sứ Đạc và giám binh Bẹt-giê (mà trên đây mới kể ra có hai vụ điển hình), đã làm cho nhân dân phẫn uất lòng căm thù sôi lên sùng sục.
Dưới quyền giám binh có mấy hạ sĩ người Việt được y tin cẩn vì khéo chiều chuộng, mua chuộc lòng y bấy lâu nay: Trịnh văn Cấn đóng lon đội, và thường được anh em gọi là Đội Cấn, cùng với Đội Giá, Đội Ban, Cai Nhân,v.v… Dưới chế độ thực dân trong binh ngũ người Việt lên đến chức đội đã là cao lắm rồi. Rất hiếm người làm đến ông Quản hay ông Ách (Adju-dant) nhứt là ở tỉnh nhỏ.
Bẹt giê có ngờ đâu Đội Cấn, Đội Giá, Đội Ban là ba nhà ái quốc V.N. gia nhập quân đội để có ngày phất cờ khởi nghĩa.
Tháng Tám 1917, giờ khởi nghĩa đã đổ, vào hôm cuối tháng. Đáng lẽ các nhà cách mạng còn chờ tổ chức chân đáo cho tới miền xuôi nữa (đồng bằng Bắc Việt) nhưng vì có kẻ làm phản, tố cáo cho Pháp biết âm mưu nên Đội Cấn phải hành động gấp.
Ba thầy đội đánh úp ba địa điểm rồi kéo cờ Việt Nam Quang Phục làm cờ khởi nghĩa.(Lúc này chưa nghĩ ra quốc kỳ phải tạm dùng cờ của cụ Phan Bội Châu dựng lên ở hải ngoại…)
Trong có một tuần lễ, tất cả lính của Pháp bị giam cầm ; những lính dõng và những lính khố xanh gia nhập quân khởi nghĩa, còn Lê Dương và Pháp bị bắt cầm tù.
Đội Cấn nắm được chủ quyền hoàn toàn ở tỉnh Thái Nguyên nhưng vì không biết khai thác mau lẹ chiến quả và cũng không biết lợi dụng các phương tiện tâm lý chiến để gây ảnh hưởng ở miền khác trong nước, nên cuộc đắc thắng không được bao lâu.
Một nhân vật quan trọng nhất đã tác chiến bên cạnh Đội Cấn và có nhiều uy tín ở trong nước là ông Lương ngọc Quyến, con trai cụ cử Lương ngọc Can. Ông Quyến nhất định không chịu làm thủ lãnh cầm đầu cuộc khởi nghĩa, chỉ muốn là chiến hữu bên cạnh Đội Cấn. Ông không chịu khai thác dĩ vãng ái quốc, cách mạng của phụ thân ; ông không chịu đoạt quyền của người có công đầu. Vì vậy, Đội Cấn được suy tôn làm Tổng lãnh binh.
Sang đầu tháng 9, quân Pháp từ Hà Nội kéo lên Thái Nguyên phản công, có đủ cả bộ binh và pháo binh ; lực lượng cách mạng không khác nào trứng chọi với đá.
Tỉnh Thái Nguyên bị bắn phá tan tành. Dân quân của Đội Cấn thiệt mạng quan trọng.
Các nhà cầm quân bị thương một số lớn.
Trong khi tan vỡ, người ta thường nhắc tên một nữ liên lạc viên là cô Hai Trà, hoạt động dưới quyền chỉ huy của ông Lương ngọc Quyến.
Những bộ đội dân quân, còn lại chia ra từng toán dưới quyền chỉ huy của từng tướng lãnh, để đánh Pháp. Đội Giá cũng chỉ huy một toán và cũng như các người cầm quân khác, ông được toàn quyền hành động.
Đội Giá từng nghe nói Lương ngọc Quyến có một nữ tướng đưa tin tức rất đắc lực. Cô này lại còn dùng nhan sắc quyến rũ các nhà cầm quân của Pháp để cho quân ta giết hại. Có lần cả bộ đội của Pháp bị phục kích tơi bời chỉ vì kẻ cầm đầu đã nghe tiếng nói mê hồn của cô mà trở tay không kịp.
Đội Giá cần một người như thế để giúp ông vào một việc liên lạc gấp rút. Ông Lương ngọc Quyến bèn gởi cô Hai Trà sang doanh trại Đội Giá.
Sau khi hai bên thi lễ, Đội Gía ngạc nhiên rồi do dự hỏi: « Có phải cô là, cô gì gì… ở Hà Nội mấy năm trước? »
Cô Hai Trà bình thản lạ thường, nói rất tự nhiên: « Dạ! Em đúng là đứa con gái nuôi ở nhà mồ côi của bà phước phố Sinh Từ. Còn ông, nếu em không lầm, thì đúng là ông cai vườn ».
Cả hai người mừng mừng, tủi tủi, cô Hai Trà cố kềm chế sự xúc động. Đội Giá hỏi tiếp: « Cô làm sao lưu lạc đến tận đây? »
Cô đáp: « Em nhớ mãi lời ông chỉ giáo lúc đầu: Em không có Cha Mẹ, không có Gia đình, em còn có cả một gia đình to lớn: đó là Tổ quốc, là 20 triệu đồng bào. Sau này em khôn lớn, bỏ nhà mồ côi, ra tìm những người có tâm huyết để theo hầu và giúp tay vào việc nước. May sao có người bạn gái giới thiệu với ông Ba Quyến và mới có ngày nay ».
Đội Giá không chặn được nước mắt, nói ra một câu trầm buồn:
- Đại cuộc đã hỏng hết. Giặc kéo tới nơi rồi… Thái Nguyên sắp thất thủ. Tôi chắc khó mà sống vì tôi sẽ chết với binh sĩ của tôi. Nếu cô còn sống, nên khôn ngoan bảo toàn tánh mạng, chờ cơ hội khác sẽ có những người nối chí chúng tôi, họ cần đến tay cô giúp sức. Nay tôi muốn nhờ cô một việc liên lạc…
Chưa dứt lời thì một loạt súng nổ vang.
Bản doanh của Đội Gía trúng đạn, bốc cháy và trước mắt cô Hai Trà, viên tướng trẻ tuổi ôm vết thương trên đầu, té xuống bất tỉnh.
Cô Hai Trà lanh bước, lẻn ra ngoài vô sự. Cô cau mày giậm chân uất hận. Nhìn lại đống lửa đang thành nấm mồ nhà ái quốc, cô nhỏ lệ, rảo bước để khỏi lọt vào tay quân thù.
Thái Nguyên thất thủ. Đội cấn và các đồng chí rút vào rừng nhưng cuộc kháng chiến chẳng còn được bao lâu.
Còn cô « Hai Trà » – chẳng biết ai đã đặt tên cho cô gái mồ côi ấy – không biết lưu lạc đi đâu và chỉ còn để lại một tục danh mộc mạc trong dã sử.