- 15 - CẬU HỌC SINH « CHIÊU HỒN NƯỚC » TRƯỚC MẮT THỰC DÂN
Trường Bưởi năm ấy thật là nhiều chuyện. Hết để tang cụ Phan châu Trinh, lại đến đi đưa đám cụ Cử Can, cả hai việc đều được học sinh trường này hăng hái tham gia.
Tên Tổng giám thị mũi lõ, tên thực dân hạng nặng ở trường Bưởi, đã được lịnh của Hiệu trưởng, bảo coi chừng, theo dõi những học sinh, ngăn cản mọi cuộc lễ truy điệu nhà cách mạng họ Phan mới tạ thế ở Saigon. Vì đã có nhiều trường trung học từ Nam tới Trung, Bắc, kế tiếp nhau tổ chức những cuộc lễ để tưởng nhớ nhà ái quốc đáng kính, thần tượng của thanh thiếu niên còn giữ được truyền thống dân tộc.
Tổng giám thị trường Bưởi căm tức lắm khi thấy các học sinh đến trường với cái băng đen đeo ở cánh tay: các anh em để tang cụ Phan Châu Trinh đấy, khác gì khiêu khích bọn thực dân trong trường, từ Hiệu trưởng đến phó Hiệu trưởng, Tổng giám thị. Vậy mà chúng khôn ngoan không dám làm gì học sinh vì không muốn gây ra lớn chuyện. Mặc dù thái độ ấy, chúng cũng phải khổ tâm mệt trí với một lễ truy điệu do học sinh tổ chức.
Năm ấy là 1926.
Qua năm sau lại có một cơ hội nữa cho thực dân nhận định bầu máu nóng của thanh thiếu niên Việt Nam: cụ Lương Văn Can tức cụ Cử Can, Hiệu trưởng cũ của Đông Kinh Nghĩa Thục, từ trần ở Hà nội ; sinh viên trường Cao Đẳng (hồi ấy chưa thành Đại học) và học sinh trường Bưởi nghỉ học, đi đưa đám rất đông.
Cái trường Bưởi dịu hiền mọi ngày đón ngọn gió mát mẻ của hồ Tây, hồ Trúc Bạch thổi qua nay bước vào một giai đoạn sôi động, hòa nhịp tiếng nói dân tộc vào bản nhạc ái quốc mà thanh thiếu niên toàn quốc bắt đầu cử lên vang động từ Nam ra Bắc.
Trường Bưởi mà thực dân Pháp đã đặt cho cái tên là Trường Trung học Bảo Hộ (Collège du Protectorat) để nhấn mạnh vào ý chí của chúng muốn « bảo hộ » muôn năm nhân dân đất Bắc, – trong hai năm 1926-1927 trường Bưởi không còn muốn bị « bảo hộ » nữa và đã manh nha một lý tưởng gỡ dây xiềng xích cho đồng bào.
Trong số thanh niên hăng hái mó tay gây lên phong trào ấy có Phạm Tất Đắc, một thư sinh chưa đủ 18 tuổi, học năm thứ tư ngang với lớp đệ tứ trung học ngày nay.
Truy điệu cụ Phan Châu Trinh
Đưa đám tang cụ Lương Ngọc Can.
Sau hai trái bom ấy, Phạm Tất Đắc lại tung ra một trái bom nổ chậm: trái bom « Chiêu Hồn Nước ».
Trong không khí đã hơi lắng dịu của Hà thành một buổi sáng ngày kia, thanh thiếu niên kháo nhau: « Anh đã đọc CHIÊU HỒN NƯỚC chưa » Rồi hết người nọ đến người kia kéo nhau đến nhà in Thanh Niên ở phố Hàng Bông để mua cuốn sách mới in ra, mua mau vì sợ hết mất. Họ đọc say sưa thích thú như học sinh đọc « chưởng » hay đọc những tiểu thuyết đồi trụy của những cây bút bán dâm hôm nay.
Một cuốn thơ mỏng, vỏn vẹn chưa đầy 50 trương, với tên tác giả: Phạm Tất Đắc.
Phạm Tất Đắc nào đây? Anh em học sinh trường Bưởi nở một nụ cười hân hoan: « Còn thằng Đắc nào nữa? Thằng Đắc học năm thứ tư trường chúng mình đó! »
Thế là một đồn mười, mười đồn trăm, chỉ trong một buổi sáng mấy ngàn cuốn « Chiêu Hồn Nước » không cần đăng quảng cáo, xuất bản không kèn không trống, mà đã bán hết sạch.
Sở Mật Thám của thực dân hay tin đi mua một cuốn. Vì là sách không kiểm duyệt, không nạp bản nên đã qua mặt được tất cả bọn « chó săn » của Pháp (danh từ thông dụng hồi bấy giờ).
Cậu học trò Phạm Tất Đắc âm thầm « làm văn nghệ » – nói theo danh từ văn nghệ hôm nay – và cậu đã thét lên những uất hận tự đáy tim của lớp thanh thiếu niên, những người « trai thế hệ » – tiếng nói chung của đồng bào đang oằn oại dưới bàn tay thực dân tàn ác.
Cũng nhà cửa cũng giang san,
Thế mà nước mất nhà tan hỡi Trời.
Nghĩ lắm lúc đang cười muốn khóc,
Muốn ra tay ngang dọc, dọc ngang
Vạch trời thét một tiếng vang,
Cho thân tan với giang san nước nhà.
(CHIÊU HỒN NƯỚC)
Đã có một thanh niên « làm văn nghệ » mà dám sẵn sàng « cho thân tan với giang san nước nhà » thì cũng phải có một ông chủ nhà in « nâng đỡ văn nghệ » sẵn sàng nghe theo tiếng « chiêu hồn nước »: ông chủ nhà in Thanh niên đứng ra in cuốn thơ của Phạm Tất Đắc rồi thu xếp việc nhà, chờ mật thám đến còng hai tay, đưa lên « xe cây » cho đi nghỉ mát Hỏa Lò. Còn tác giả cuốn thơ ấy cũng biết số phận đang chờ mình.
Việc phải đến, đã đến.
Kẻ « làm văn nghệ » và kẻ « nâng đỡ văn nghệ » đều xộ khám.
Họ vào Hỏa Lò, nhưng tiếng vang của « Chiêu Hồn Nước » không vì thế mà phải im bặt, trái lại còn lan truyền đi khắp nơi như một đám hỏa hoạn, bùng cháy tâm can đến cả hạng người cầu an nhất, muốn sống trong số lương tháng mà thực dân phát cho. Những câu thơ hùng tráng của « văn nghệ sĩ » họ Phạm đã gào thét lên tất cả một lòng quốc hận và đánh đổ những áng văn ủy mị, bi quan của thời bấy giờ: « Tố Tâm »… « Tuyết Hồng Lệ Sử ».
Sức mạnh của VĂN NGHỆ!
Nếu « văn nghệ hôm nay » đưa thế hệ « đang vươn lên » đi vào cuộc đời bê tha, đồi trụy, thì văn nghệ trong « Chiêu Hồn Nước » đã một sớm một chiều đánh thức thanh thiếu niên, đẩy họ đến trước Nghĩa Vụ của họ.
Phải nhắc lại rằng hồi ấy cũng đã có những văn nghệ sĩ đầu độc tinh thần thanh thiếu niên bằng những bài thơ buồn chán « khóc gió than mây » và những tiểu thuyết diễm tình lãng mạn. Nhưng trái bom « Chiêu Hồn Nước » đã đốt cháy những tác phẩm văn nghệ ấy, đẩy chúng vào xó tủ bụi bám rồi chết trong sự lãng quên.
Trong các giới xã hội, người ta thì thầm nhắc đến văn chương « Chiêu Hồn Nước » cũng như ngày nay người ta "nói chưởng ».Giới «văn nghệ già » như Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, tuy không nói ra, nhưng cũng phải ngấm ngầm thán phục cây bút văn nghệ trẻ đã có một sức mạnh « chiêu hồn» thật sự.
Các thanh thiếu niên học đường truyền tay nhau cuốn thơ của Phạm Tất Đắc và thuộc làu những đoạn chánh:
Đồng bào hỡi! Con nhà Đại Việt
Có thân mà không biết liệu đời
Tháng ngày lần lữa đợi thời.
Ngẩn ngơ ỷ lại ở người ai thương!
Nay sóng gió bốn phương càng dội.
Có lẽ nào ngồi đợi mãi sao?
Đồng bào chút giọt máu đào,
Thương ơi, tội nghiệp đời nào sót đây.
Nên mau mau, dậy ngay kẻo muộn,
Mà xót thương đến chốn Nhị Nùng
Xưa kia cũng lắm anh hùng
Dọc ngang trời đất vẫy vùng bể khơi
Xưa cũng có lắm người hào kiệt.
Trong một tay xoay trở sơn hà
Nghìn thu gương cũ không nhòa
Mở mày mở mặt con nhà Lạc Long
Non sông vẫn non sông gấm vóc
Cỏ cây xưa vẫn mọc tốt tươi.
Người xem cũng đáng con người
Cũng tai cũng mắt ở đời khác chi
Cảnh như thế tình thì như thế
Sống làm chi sống để làm chi?
Đời người đến thế còn gì!
Nước non đến thế còn gì nước non
Trong Chiêu Hồn Nước, Phạm Tất Đắc thét lên những tiếng ai oán, bi hùng, đọc lại thì cảm thấy bầu nhiệt huyết sôi sùng sục trong trái tim người học sinh đang tuổi hăng hái:
Nghĩ thân thế thêm mòn tấc dạ,
Trông non sông lã chã dòng châu
Một mình cảnh vắng đêm thâu,
Muốn đem máu đỏ nhuộm màu non sông
Hồn hỡi hồn! Con Hồng cháu Lạc!
Bấy nhiêu lâu đói rách lầm than.
Bấy lâu thịt nát xương tan,
Bấy lâu tim ruột thâm gan vì hồn.
Trong bốn bể bồn chồn dạ ngọc,
Ngắm năm châu không khóc nên lời
Đêm khuya cảnh vắng trông trời
Hồn ơi, hồn hỡi! Hồn ơi! Hồn về.
Hồn hỡi hồn! Giang san là thế!
Giống Lạc Hồng tôi kể hồn hay:
Kể từ hồn lạc đến nay,
Đêm đêm khóc khóc, ngày ngày than than…
Cũng có kẻ trên ngàn đổ máu,
Cũng có người nương náu phương xa.
Cũng người bỏ cửa bỏ nhà.
Cũng người lo nghĩ tuyết pha mái đầu.
Cũng có kẻ làm trâu làm ngựa,
Cũng có người đầy tớ con đòi,
Có thằng buôn giống bán nòi,
Khôn thiêng chăng hỡi! Hồn coi cho tường.
Có mồm nói, không đường mà nói,
Có chân tay, người trói chân tay
Hồn trở về non sông đất cũ,
Mà mau mau giết lũ tham tàn.
Mau mau giết lũ hại đàn,
Túi tham dám chứa bạc vàng của dân.
Hồn trở về, cho dân tỉnh lại,
Không ngu ngu dại dại như xưa ;
Không còn vất vả sớm trưa
Không còn nắng nắng mưa mưa dãi dầu
Hồn trở về, mau mau hồn hỡi!
Hồn trở về, tôi đợi tôi mong!
Hồn về tô điểm non sông!
Hồn về đánh thức con Rồng cháu Tiên.
Trích ra vài đoạn thống thiết trong tập Chiêu Hồn Nước, bạn đọc cũng đủ xét đoán giá trị của nó trong tác dụng tuyên truyền, thức tỉnh đồng bào, cổ xúy lòng yêu nước, chống thực dân.
Cố nhiên Phạm Tất Đắc bị bắt và đưa ra xử trước toà Tiểu hình Hà nội, trong một phiên họp dành riêng xử các vị thành niên: bị can mới 18 tuổi. Trong phòng xử chật ních những sinh viên và học sinh tỏ lòng ngưỡng mộ một bạn đồng niên yêu nước. Cảnh sát phải chận làn sóng người không cho tràn ngập vào tòa án.
Viên chánh án người Pháp, nghiêm nghị trong chiếc áo thụng đen, kêu Phạm Tất Đắc lên trước vành móng ngựa.
- Tại sao anh mỉm cười! Viên chánh án hỏi.
- Đó là thói quen của tôi, Phạm Tất Đắc đáp.
Bị can luôn giữ nụ cười ngạo nghễ, khinh mạn làm cho cả chánh án, cả biện lý đều tức lắm. Biện lý tiếp lời Chánh án:
- Bị can hãy coi chừng! Nếu còn vô lễ với tòa án, tòa sẽ đình xử, anh sẽ bị trả về khám đường.
Viên Biện lý Pháp không nói rõ, song ngụ ý của ông là khi trả về khám đường Đắc sẽ bị giam kín vào « xà lim », hai chân bị cùm và ăn cơm với muối. Hơn nữa có thể tòa sẽ cho lịnh điều tra bổ túc, bị can sẽ giao qua sở Mật thám tra tấn, như anh đã từng bị tra tấn tàn bạo từ ngày bị bắt.
Phạm Tất Đắc quay về phía tay trái, chỗ Biện lý ngồi, vẫn mỉm cười ngạo nghễ, đáp:
- Tôi đã nói với các ông rằng đó là cái tật của tôi.
Viên chánh án ngắt lời anh, bắt đầu xử vụ án, muốn cho mau kết liễu:
- Anh là Phạm Tất Đắc, sanh ngày 15 tháng 2 năm 1909 tại làng Dũng Kim, tổng Công Xá, phủ Lý Nhân, Hà Nam. Cha anh là Phạm Văn Hạnh, mẹ anh là Lê Thị Giáo. Anh đỗ bằng Sơ học Pháp Việt, vào học trường Bảo Hộ từ năm 1923…
Hỏi hết lý lịch của bị can, ông Chánh án nói đến tội trạng của anh, anh bị khép vào một khoản trong Hình luật canh cải nói về « những việc vận động có tánh chất làm rối sự an ninh công cộng và gây ra những sự rối loạn trầm trọng ».
Ông hất hàm hỏi câu chót:
- Anh muốn nói gì để binh vực cho anh không?
Phạm Tất Đắc dõng dạc nói tiếng Việt:
- Xin tòa cho dịch ra tiếng Việt Nam vì tôi không nói tiếng Pháp.
Viên chánh án giận đỏ mặt:
- Anh vừa nói được tiếng Pháp. Bây giờ anh muốn nói tiếng « An Nam » để tuyên truyền phải không?
Viên Biện lý xen vào:
- Xin toà chú ý đến điều này: Bị can còn muốn dùng chốn tôn nghiêm mà cổ xúy nổi loạn trong đám thanh thiếu niên ngồi đầy nhóc trong phòng xử án.
Luật sư bào chữa cho bị can, một luật sư Pháp, đứng sát bên bị can khuyên nhỏ:
- Anh nên trả lời bằng tiếng Pháp, kẻo làm cho tòa bất mãn, anh sẽ bị xử nặng.
Viên Chánh án quay về phía lục sự bảo ghi chép vào sổ:
- Bị can nhất định đòi nói tiếng An nam, không chịu nói tiếng Pháp, mặc dầu trong học bạ của y, kỳ thi lục cá nguyệt nào y cũng được từ 12 đến 14 điểm về Luận Pháp văn.
Dưới thời Pháp thuộc, học sinh năm thứ tư, sắp thi bằng Thành Chung, đều khá tiếng Pháp lắm, có người viết được bài đăng báo Pháp nữa, mà Đắc lại là học sinh xuất sắc về Luận Pháp văn song cố ý đòi nói tiếng mẹ đẻ. Viên chánh án bảo thông ngôn:
- Dịch ra tiếng An nam cho nó nghe.
Viên thông ngôn dịch xong rồi bị can đáp:
- Tôi xin tòa cho đọc tập sách mà tòa kết tội và vạch rõ ra những đoạn nào phạm luật.
Viên chánh án nghe dịch xong câu ấy, đáp: « Khỏi cần! » rồi nhắc lại điều khoản trong Hình luật mà ông đọc thuộc làu không cần nhìn vào sách vì ông đã xử nhiều vụ như thế này rồi, ông kết thúc:
- Anh còn muốn nói gì nữa để bào chữa không?
Phạm tất Đắc dõng dạc nói:
- Khi Pháp thua Đức, phải nhường hai tỉnh Alsace Loraine cho Đức, thanh niên hai tỉnh này có bỏ tiếng Pháp mà nói tiếng Đức không? Tôi nói tiếng Việt sao các ông lại bắt bẻ…
- Thôi thôi! ngưng lạị.
Ông Phán già thông ngôn của toà án đã xua tay chận bị can vì ông có kinh nghiệm không để cho bị can « chửi Pháp » giữa tòa án. Nhưng Đắc không ngưng, cướp lời nói tiếp trong khi ông Phán dịch những câu cho tòa nghe.
Bị can nói thao thao một lúc vì lo tòa cho còng tay giải về Hỏa Lò:
- Nếu một thanh niên ở Alsace Loraine viết ra cuốn Chiêu Hồn Nước như tôi, họ có tội không? Chắc anh ta sẽ là một nhà ái quốc chứ? Các ông binh vực cho nước Pháp đô hộ, sắp nhân danh ái quốc kết án một thanh niên Việt Nam phạm « tội ái quốc ». Quân Đức chắc cũng đã xử nhiều thanh niên Pháp phạm « tội ái quốc » như tôi.
Ông Biện lý đập bàn hăm dọa:
- Lần chót tôi cảnh cáo, nếu bị can còn ngoan cố y sẽ bị đưa về khám.
Ông Chánh án điềm đạm hơn, cho dịch những câu bị can vừa nói, rồi thêm:
- Một mình bị can làm sao làm nổi tập thơ này. Lời thơ già giặn lắm. Ba anh có giúp cho anh làm tập thơ này không?
Viên Chánh án dụng ý dọa bị can rằng: « Coi chừng, tòa sẽ bắt cả cha anh như là tòng phạm ». Đắc không nao núng, không chờ viên thông ngôn dịch lời viên chánh án, anh trả lời liền bằng tiếng Việt:
- Ông muốn biết ai là tòng phạm? Tòng phạm của tôi là hai chục triệu đồng bào tôi, là thanh niên toàn quốc.
Thấy bị can nói nhiều quá, ông chánh án không thèm nghe lời dịch nữa, bảo cảnh sát:
- Hãy lôi bị can về chỗ ngồi. Kêu cha của bị can lên.
Rồi ông nghiêm trách ông Phạm văn Hạnh:
- Ông có con không biết giáo dục. Ông đừng quên rằng con ông còn vị thành niên, ông có trách nhiệm về nó.
- Con tôi ở nhà thì tôi có trách nhiệm, còn nó đi học thì trách nhiệm về nhà trường, về chánh phủ.
Viên chánh án thấy người cha bình thản, không run sợ, nên lo ông sẽ tuyên truyền nữa bèn ngắt lời:
- Thôi đủ. Xin ông Biện lý lên tiếng.
Biện lý buộc tội gắt gao rồi Luật sư Pháp binh vực gượng gạo vì ông bị phải một « thân chủ cứng đầu » quá, bào chữa sao nổi.
Phạm tất Đắc bị kết án « gởi lên trại giáo hóa Trị Cụ » ở thượng du, giam giữ đến tuổi trưởng thành: 21 tuổi. Trị Cụ cũng như trại Ông Yệm trong Nam thời Pháp thuộc.
Được vài tháng, thấy Đắc tuyên truyền trong đám thiếu nhi phạm pháp, người Pháp không dám để anh ở Trị Cụ nữa mà đưa về Hànội, giam ở « xà lim B » là chỗ dành riêng cho những phạm nhân « nguy hiểm » – không thể để chung với các tội nhân khác.
Ngày 16 tháng 5 năm 1930, Đắc được trả tự do vì đã đủ 21 tuổi.
Anh về nhà dạy học tư cho các thí sinh thi bằng Thành Chung. Vì bịnh hoạn liên miên do sự tra tấn hồi bị bắt, anh không đủ sức chống với con ma bịnh. Ngày 24 tháng 4 năm 1935 anh từ trần tại Hànội.
« Muốn đem máu đỏ nhuộm màu non sông! »
Trong Chiêu Hồn Nước, Phạm tất Đắc đã thốt ra câu ấy. Máu đỏ của anh không được nhuộm đất nước, nhưng trái tim nóng hổi yêu nước của cái tuổi 26 đã được chôn vùi trong lòng đất nước.