← Quay lại trang sách

- 14 - THI SĨ VIỆT CHÂU « TẠM GÁC THI VĂN KHOÁC CHIẾN BÀO »

Trong giới Phật giáo Hòa Hảo ai là không biết thi sĩ Việt Châu, một nhà thơ trẻ tuổi mà danh tánh một thời đã vang dội ở miền Tây, với chức bí thư của Đức Huỳnh giáo chủ.

Người ta nhớ đến Việt Châu cũng như nhớ đến Đức « Thầy ». Một sự tình cờ của Định Mạng đã đưa Việt Châu tới gần vị Giáo chủ để mà thành bí thư tín cẩn của « Thầy » đi theo sát « Thầy » như bóng theo người, cùng chung là việc nước trong những giờ phút nghiêm trọng của miền Nam năm 1945.

Lúc sanh thời, Huỳnh giáo Chủ rất tâm đắc với Việt Châu. Những khi đi thăm tín đồ ở Cần Thơ, Long Xuyên. Người đều kêu viên bí thư đi theo và trên đường trường nắng gắt, thầy trò xướng họa với nhau, xuất khẩu thành thi, thật là tương đắc. Hai thầy trò xuất khẩu những vần thơ thanh tao, hùng tráng, mô tả cảnh đẹp của miền quê đất nước ; hai thầy trò cùng rung cảm trước cảnh gấm vóc của non sông.

Bây giờ thi sĩ Việt Châu không còn nữa.

Đời của nhà thơ trẻ tuổi ấy ra sao chúng ta cũng cần biết rõ.

Năm 1942, tuần báo « Tiểu thuyết Thứ Bẩy » ở Hà Nội đăng một bài trường thi với nhan đề « Lông Ngỗng Gieo Tình » ký bút hiệu Việt Châu. Đây là một truyện lịch sử bằng thơ, nói lên mối tình đau thương của Mỵ Châu Trọng Thủy.

« Lông Ngỗng Gieo Tình » đã làm cho văn giới từ Bắc vào Nam hỏi nhau: « Việt Châu là ai? » Bài thơ dài ấy thật là tiếng kêu bi đát, nói lên cái hại của ái tình mù quáng, nhắn nhủ thanh niên chớ có sa ngã vào cạm bẫy trên tình trường. Nhà bình phẩm văn học Vũ Ngọc Phan đã không tiếc lời ca tụng, khi bài trường thi ấy được xuất bản thành sách.

Đối với Trung, Bắc, nhiều người chưa biết Việt Châu, thì tác phẩm này đã giới thiệu một tài hoa trẻ tuổi với hai địa phương ấy.

Nhưng độc giả trong Nam đọc thơ Việt Châu thì tác phẩm này đã giới thiệu một tài hoa trẻ tuổi với hai địa phương ấy.

Nhưng độc giả trong Nam đọc thơ Việt Châu từ lâu rồi, từ khi còn tờ báo « Lục Tỉnh Tân Văn » của ông Nguyễn văn Của.

Sanh ngày 7 tháng 3 năm 1918, Việt Châu tên thật là Nguyễn Xuân Thiếp, con một gia đình nho phong làng Tân Thạnh, tỉnh Long Xuyên.

Thân phụ là cụ Phương Sơn, một nhân vật của phong trào « Đông Kinh Nghĩa Thục ».

Nguyễn xuân Thiếp là con thứ ba của cụ.

Thông minh khác thường từ thuở nhỏ, 5 tuổi đã đọc rành quốc ngữ, 7 tuổi thuộc làu nhiều thơ văn cổ điển. Nguyễn xuân Thiếp đi học trường làng, tánh tình rất dạn dĩ tự nhiên. Bởi vậy năm lên 9 tuổi, cậu học trò ấy đã đọc một bài chúc từ trước mặt đông đủ các nhân vật quyền chức sở tại nhân dịp lễ phát phần thưởng.

Theo nền nếp nho phong, cụ thân sinh bắt Thiếp học thêm chữ Hán ; do đó mà lớn lên Thiếp có dịp làm y sĩ, đem y đạo ra cứu thế độ nhân.

Mười tuổi đã làm thơ bát cú, tứ tuyệt, nhà thơ tí hon ấy lắm khi thi hứng dồi dào, xuất khẩu thành thi mà lại là thơ có niêm, luật đàng hoàng. Cái mới khó, mới lạ. Ai cũng khen là một thiên tài. Năm 1928-1929 đâu có các thi, văn đoàn, bút nhóm nhiều như ngày nay, có đâu những tài hoa bộc phát được đưa ra ánh sáng dư luận.

Nhưng không bao lâu, mới 16 tuổi, Nguyễn Xuân Thiếp đã có duyên văn trên báo chí, bước vào làng thơ với bút hiệu Việt Châu: Tờ « Lục Tỉnh Tân Văn » dưới bút quyền của cụ Nguyễn chánh Sắt đã mở một « Phụ trương Văn Chương » giao cho Việt Châu phụ trách. (Hồi ấy chưa có danh từ Văn Nghệ).

Trên văn đàn của tờ báo, Việt Châu quy tụ một số bạn trẻ thành một nhóm lấy tên là « Văn Đàn Đốc Vang Thượng » theo địa danh của làng anh. Các bạn trẻ ngày nay đua nhau lập thi văn đoàn, bút nhóm này nọ, có ai nhớ đến thi sĩ Việt Châu hồi 16 tuổi, năm 1934 đã có sáng kiến đầu tiên lập một « văn đàn » cho tuổi trẻ trau giồi văn nghệ?

Sau « Lục Tỉnh Tân Văn » Việt Châu viết bài cho mấy tờ báo khác ở Saigon như tuần báo « Mai» của Đào Trinh Nhất, trong đó Việt Châu giữ mục «Trường thơ». Tuần báo « Văn Chương » có mục « Trường Văn Trận Bút » giao cho Việt Châu phụ trách.

Dưới thời Pháp thuộc, Việt Châu gom thơ thành mấy tập sau đây đem xuất bản

- Xuân Xanh (1933-1935)

- Tình Thơ (1938-1942)

- Lông Ngỗng Gieo Tình (1942)

- Hải Đường Hoa Rụng (1943): một tập trường thi tả mối tình Đường Minh Hoàng với Dương quý Phi.

- Tráng sĩ ca (1944) gồm những thơ hùng tráng.

Sau tập này, độc giả đã ví Việt Châu trong Nam với các thi sĩ đang nổi danh ngoài Bắc. Trong báo « MAI » Đào trinh Nhất đã phê bình như sau:

«Người lục tỉnh đầu tiên có thể chiếm một địa vị ngang hàng với mấy thi sĩ tài danh bực nhứt của chúng ta hiện thời là Việt Châu ».

Muốn thấy rõ tài hoa của nhà thơ trẻ tuổi, chúng ta hãy đọc lại bài thơ tình cảm nhan đề « Bến Lăng Tô » của ông:

Nắng nhạt, sương về trên bến nước,

Những hồn du tử thả lên sương.

Những hồn du tử bâng khuâng nhớ:

Tình ái vô duyên để đoạn trường.

Tôi biết khi cầu sương ngã bóng,

Bao lòng thơ mộng ngả trong mơ.

Nỗi niềm u ẩn lan sóng nước,

Tình ai trôi xuôi chẳng đợi chờ.

Viễn ảnh thuyền tình mơ ảo quá,

Mong gì nữa, hỡi khách sang sông

Chiều nay sông đẹp, sông tươi thế

Mà khách sang sông chạnh não nùng

Thuyền tình hờ hững xa xôi lướt

In bóng lên sương, bóng hững hờ

Thuyền hỡi thấu chăng nông nỗi khách?

…Buồn nghe gió cuốn bến Lăng Tô

Thơ Việt Châu phảng phất cái buồn nhè nhẹ của Thế Lữ, và mối tình man mác của Huy Thông.

Nhưng Thế chiến thứ II bùng nổ, giang sơn đất nước Việt Nam cũng không tránh khỏi cảnh tang thương. Việt Châu tỏ niềm cảm khái trong bài thơ sau đây:

Long trời lở đất súng thần công,

Lưng ngựa thanh gươm, chí vẫy vùng

Hơi độc mờ bay, thây chất núi,

Tiếng bom vang nổ, máu hòa sông

Dũng, Trung, hai tiếng như kêu gọi

Thê, Tử: thường tình hết nhớ nhung

Chiến sĩ khi nhìn gươm đẫm máu

Mỉm cười: song chửa nợ tang bồng?

Biết qua cuộc đời của nhà thơ, bây giờ chúng ta tìm hiểu cuộc đời nhà cách mạng của Việt Châu.

Ngoài 20, tuổi Việt Châu lập gia đình với một thiếu nữ, con một hương chức làng Hòa An (Cao Lãnh).

Tuy đã có cái vốn nho học vững vàng, Việt Châu không bo bo trong những tư tưởng « Khổng Tử viết » mà còn muốn nhìn rộng thấy xa nên trau giồi Pháp văn và say mê thi văn Pháp. Ông cũng không chịu sống theo nếp sống ủy mị của đa số thi nhân thế hệ. Ông chủ trương rằng dầu có là một văn nghệ sĩ đi nữa, sức khỏe cũng rất cần thiết trong thời đại mạnh được yếu thua này. Việt Châu quyết tâm học võ, luyện tập môn quyền thuật.

Đến khi thế lực Pháp sắp suy tàn, năm 1944-1945, Việt Châu thành một thanh niên văn võ song toàn, chờ lúc phải đem bầu máu nóng của cái tuổi 27 xuân xanh ra phục vụ đồng bào, tổ quốc.

Việt Châu với thân hình vững chắc da trắng miệng rộng, giọng nói dõng dạc phải « tạm gác thi văn khoác chiến bào » từ đây – (theo lời của thi sĩ.)

Ông đã gặp được Đức Huỳnh giáo chủ và coi như là một minh chủ. Ông cũng được Người tín nhiệm, nhận làm bí thư. Gần gũi với vị lãnh đạo tinh thần trên 1 triệu tín đồ miền Tây, ông đã có nhiều ý kiến sáng suốt khi tham gia các việc quyết định của Giáo chủ.

Tháng Ba năm 1945, Nhựt đảo chánh Pháp. Tại vườn Ông Thượng Saigon (sân Tao Đàn bây giờ) có một cuộc biểu tình của các đoàn thể mừng nền « độc lập » đã thâu hồi. Các tổ chức lần lượt lên diễn đàn. Trong khi ấy Việt Châu lo cái nạn « dịch chủ tái nô » yêu cầu Đức Huỳnh Phú Sổ cho lịnh tín đồ Phật Giáo Hòa Hỏa hãy dè dặt, theo dõi thời cuộc, chớ vội a dua.

Quân đội Nhựt bắt đầu nghi ngờ Phật Giáo Hòa Hảo song chưa dám động đến một khối người tín ngưỡng đông đến trên một triệu.

Tháng 8 năm 1945 Việt Châu được Đức Huỳnh Giáo chủ phái ra Hà Nội điều tra, xem xét tình hình.

Khi trở về Saigon, ông phúc trình tất cả thực trạng.

Ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, Việt Châu bị Việt Cộng đem xử tử tại sân vận động Cần thơ và vu cáo cho ông theo Pháp chỉ vì ông quyết không mù quáng và giữ vững lập trường quốc gia.