← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III TÌNH THẦY TRÒ CỦA PLATON VÀ ARISTOTE-(Thầy thiên vị được tiểu lợi mà hổng đại cuộc)

1.- Tình trò của Platon đối với thầy Socrate của ông là tình tuyệt thế, không ai còn chối cãi được nữa. Platon trong cuốn Phédon đã tự thú một cách chân thành rằng khi Socrate chết ông khóc không phải khóc cho Socrate mà khóc cho ông, khóc cho phận bạc của mình đã mất đi trên đời nầy một người cha, một người thầy, một người anh, một người bạn đời. Rồi nhìn toàn bộ sự nghiệp văn chương của Platon, người khó tánh đến đâu cũng phải nhận rằng ông đã dùng tài đức kế nghiệp Socrate một cách xứng đáng nhứt. Quả thực thầy nào thì tớ nấy. Socrate là một hiền triết hành động điều mình dạy hơn là viết nó ra. Hậu thế sở dĩ biết được nhiều về Socrate là nhờ Platon. Cũng y như Đức Jésus sở dĩ được biết nhiều là nhờ các thánh sử gia môn đồ biên soạn bộ Phúc âm vậy. Có thể nói Platon là tinh hoa, là định nghĩa, là hiện thân của Socrate. Có được trò như vậy, Socrate còn mong gì hơn nữa. Mà có được người làm cho mình hiểu biết được đại triết gia Socrate, cái nôi khôn ngoan của nhân loại như Platon, thì loài người con đòi hỏi gì hơn nữa.

2.- Nói đến tài của Platon thì gần như nói một chuyện thừa. Từ 20 tuổi ông đã tỏ ra là một triết sinh xuất sắc của một tôn sư trước Socrate là thầy Cratyle. Đến chừng gặp Socrate, nhờ khiếu thông minh, đạo đức, ông hút gần hết tinh hoa của ông hoàng hiền triết ấy. Socrate chết rồi, lối năm 387, ông lập lại hoa viên Académus một học viện mang tên hoa viên nầy, được coi là viện đại học đầu tiên của nhân loại để phổ biến học thuyết của thầy mình. Nếu Khổng Tử vừa dạy học vừa du thuyết, chiêu dụ hết minh quân nầy đến bạo chúa khác trong phạm vi nước Tàu, thì Platon không kém mà còn có thể hơn Khổng Tử ở chỗ ra khỏi xứ Hi-Lạp, sang Mégare gặp Euclide, qua Cyrène gặp Théodore, về Ý Đại Lợi gặp chính khách Archytas, đến Syracuse tìm Dion, em rể bạo vương Denys. Nếu Khổng Tử kiệt lượng ở đất Khương, đất Trần thì Platon cũng thiếu điều bỏ mạng ở Egine vì ông đại sứ ở Sparte đem bán ông cho người ta làm tên nô lệ. May nhờ bạn là Anniceris bỏ tiền chuộc lại tự do cho. Còn nói đến tác phẩm thì còn lại gần 30 cuốn của ông không đủ nói lên ông là nhà văn lớn, triết gia lớn sao? Tôi nói còn lại, hiểu là có nhiều tác phẩm của Platon bị thất lạc. Các cuốn đáng lưu ý trong mấy chục kiệt phẩm trên là những cuốn: Cộng Hòa, Luật Pháp, Chính trị, Bữa tiệc,Biện hộ cho Socrate, Phédon, Ngụy biện v.v. Trong làng triết cổ kim người ta hay kể bốn tên tuổi coi như vua triết là Platon, Aristote, Descartes, Kant. Nhưng kỳ thực thì chỉ nên kể Platon và Descartes thôi. Như vậy cho đến bây giờ Platon vẫn còn cầm cương nầy mực cho Triết kể cả triết hiện kim.

3.- Sở dĩ ở trên ta xét các điểm son rực rỡ của Platon là cố ý nói khi bàn về chút khuyết điểm sau đây trong đạo Thầy trò của Platon và Aristote không phải ta phủ nhận cái bề dầy vĩ đại của bộ óc Platon, của triết thần, văn thánh của Platon. Chút khuyết điểm nào? Đó là việc Platon khi chọn người kế quyền mình điều khiển học viện Académus, không chọn môn đồ xuất sắc nhứt, tài đức nhứt là Aristote mà lại chọn Spensippe, con của bà Potoné, chị mình kêu mình bằng cậu. Có phải Platon nặng óc gia đình trị kiểu ta thấy ngày nay không? Không phải ta tuyệt đối không nên dùng người ruột thịt: nếu ruột thịt tài đức ta dùng có cái lợi là vừa có người đắc lực vừa có người tín nhiệm. Dĩ nhiên về mặt lãnh đạo, người ta không vì lẽ đó mà có đầu óc đóng khung gọi là óc nhồi sọ, trói buộc mình trong thế giới bằng một bụm tay của máu mủ, bạn bè, miền xứ, đạo đảng v.v... Huống hồ gì trong trường hợp của Platon, Spensippe là kẻ bất tài vô danh trong khi Aristote là môn sinh đầy đủ đức tài, có thể thay thế thầy mình tiếp tục phát triển học viện Académus. Chính vì Platon tỏ ra không sáng suốt như vậy nên Aristote buồn rồi bỏ Académus, du lịch bên Á Châu. Sau đó ông trở về Nhã Điển lập nên trường Lycéum và trường nầy có nhiều điểm chống đối trường Académus.

4.- Có thể người ta trách Aristote tại sao một người như ông mà vì một chút bất bình đâm ra hờn vặt, bỏ trường phái của thầy đi lập trường phái để chống đối. Nếu quả thực Aristote hờn vặt mà hành động như vậy thì Aristote vẫn được biện minh vì dù sao ông cũng là con người trong tình trạng tức nước vỡ bờ. Người chịu trách nhiệm vẫn là Platon không sáng suốt tiên kiến điều đó. Nhìn toàn bộ việc làm của Aristote sau ngày thầy của ông chết, người ta thấy ông không phải là kẻ thù vặt. Có thể nói một chút tức khí thúc đẩy phản ứng của ông thôi. Mà đối với nhân loại, phản ứng ấy có lợi vô số. Thiệt thòi là thiệt thòi cho Platon không khéo tận dụng một môn đồ vĩ đại như Aristote để kế nghiệp mình tiếp tục phát triển học thuyết của thầy mình là Socrate trong Académus. Ai không tức, ai không lấy làm chua chát, đau ngầm tận xương tủy khi biết rằng Aristote trong vòng hai mươi năm trời không rời Platon, tỏ ra là một môn sinh lỗi lạc nhất của Platon, đọc thiên kinh vạn quyển đọc đến đổi Platon đặt cho biệt danh là "Người mê đọc" con người như vậy sau cùng bỏ trường phái của thầy để lập trường phái khác... Hình như không có bằng chứng lịch sử nào để ta thấy Aristote tỏ ra chống đối thầy mình hiểu theo nghĩa xung đột tình cảm. Đó là một điểm vàng son. Trong một tiết sau, khi bàn về tình sư đệ giữa Aristote và A-Lich-Sơn đại đế, tôi sẽ xét một số vấn đề về triết tỏ ra thầy trò Platon, Aristote khác biệt nhau. Ở đây tôi chỉ muốn nhấn mạnh điều đáng tiếc là vì quá nặng tình cốt nhục mà Platon thiên vị để Académus mất Aristote. Phải như vậy mới đúng luật siêu hình nào đó chi phối các vĩ nhân. Khổng Tử đặt kỳ vọng nơi Nhan Hồi, ca tụng Nhan Hồi mà không mấy trọng Tăng Tử nhưng rồi Nhan Hồi chết sớm, Tăng Tử lại là môn sinh truyền bá đạo lý của Khổng Tử đắc lực nhứt. Platon tuy vì một chút sơ sót mà làm Aristote buồn nhưng ai cũng nhận rằng Platon đã đầu thai trong Aristote. Qua 20 năm trời, Platon đã đầu tư kiến thức của mình trong Aristote và chính Aristote đã truyền bá Platon một cách xứng đáng nhứt chớ không phải cháu của Platon là Spensippe, con người mà Platon đặt mọi kỳ vọng và giao quyền điều khiển trường Académus. Nếu Platon đừng hành động với tư cách Platon huyết tộc mà với tư cách Platon triết gia hay Platon tôn sư thì mối tình thầy trò Platon Aristote diễm lệ, huy hoàng biết bao nhiêu. Chắc dưới suối vàng Platon nghĩ ngợi nhiều về bài điếu văn quán tuyệt mà Aristote khắc trên đá đặt nơi ông an nghỉ nghìn thu.