← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV TÌNH THẦY TRÒ CỦA ARISTOTE VÀ A-LỊCH-SƠN CẢ-(Cãi thầy đôi khi cũng... nguy hiểm)

1.- Gomberz trong cuốn "Những nhà Tư tưởng Hi Lạp" quyển III, trang 21 nói: "Thực vô cùng bất ngờ, kỳ lạ thay trong lịch sử là một bá chủ hoàn cầu lại là học trò của bá chủ tư tưởng". Bá chủ trước là A-Lich-Sơn đại đế là con vua Phillipe, vua sứ Macédoine sinh năm 33 - qua đời năm 323 trước tây lich. Trí óc thông minh tuyệt vời. Sức khỏe thuộc loại hạng vương. Năm 343, ông được Aristote làm quân sư, truyền dạy cho từ khoa học, địa lý, lịch sử, vạn vật học đến đạo đức học và chính trị. Nhưng về hai môn sau chót nầy kể như A-Lich-Sơn không theo lời thầy cho mấy như ta sẽ xét sau.

2.- Óc vô biên của A-Lịch-Sơn coi xâm lăng, chinh phạt nhờ một thứ đam mê có phải do Aristote uốn nắn không? Ai cũng biết A-Lịch-Sơn chết yểu hồi 33 tuổi. Ông kế vị cha là 13 năm đánh giặc và đánh giặc. Ông hết làm rung chuyển Âu Châu bằng lưỡi gươm thần tướng bách chiến bách thắng thì làm cho Á Châu tán tởm kinh hồn mỗi khi xuất hiện bóng dáng ông, cùng con ngựa Bucéphalus. Ngay từ thơ ấu, A-Lịch-Sơn đã tỏ ra có máu cầm quyền và chinh phạt. Đây là hai bằng chứng cụ thể:

a) Phụ vương của A-Lịch-Sơn mua một con ngựa thuộc loại bất kham mà ai cũng cho là hoàn toàn bất trị tên Bucéphalus. Từ nhà vua đến các võ thần thấy con ngựa man rợ quá, thất vọng định bỏ đi. A-Lịch-Sơn không đồng ý, xin vua cha cho phép trị con ngựa và cam kết nếu trị không được sẽ bỏ tiền ra trả tiền mua ngựa. Vua cha và các võ tướng cười rộ lên, trong bụng khinh A-Lịch-Sơn là con nít nói nhảm.

Vua Philippe vì yêu con gượng gạo đồng ý. A-Lịch-Sơn liền nhanh như gió chạy lại nắm đầu con ngựa quay về phía mặt trời. Con ngựa vốn sợ bóng của nó nên khi bị chóa mắt vì ánh sáng trở thành bớt hung hăng. Thỉnh thoảng nó vẫn còn gầm gừ, A-Lịch-Sơn không thúc vô hông nó như ai nấy thường làm mà vỗ về, mơn trớn nó rồi trước bao cặp mắt ngạc nhiên xung quanh, ông nhảy phóc lên lưng ngựa như một tay kỵ mã lành nghề. Con Bucéphalus y như bị thôi miên, ngoan ngoãn nghe lời A-Lịch-Sơn. Vua Philippe thấy vậy chạy lại ôm con, mắt rưng rưng ngấn lệ vì xúc động và âu yếm nói với A-Lịch-Sơn: "Hỡi con! Con phải có một giang sơn xứng đáng cho con hơn chứ xứ Macédoine nầy không đủ cho chí cả của con".

b) A-Lịch-Sơn còn biểu lộ khí phách hiên ngang từ thơ ấu trong trường hợp nầy nữa. Đó là ông cầm ly rượu tạt vào mặt Attlas, người chú bà vợ hai của phụ vương. Vua Philippe đã gây sóng gió trong gia đình bằng cách bỏ bà vợ lớn là Olympias để cưới một bà vợ nhỏ trùng tên với nữ hoàng Cléopâtre của Ai Cập. Giữa tiệc cưới tưng bừng, Attlas đứng lên yêu cầu tất cả khấn vái thần linh cho Cléopâtre sinh một hoàng nam kế vị vua Philippe. A-Lịch-Sơn cảm thấy ô nhục vừa cho mẹ mình vừa cho mình, cơn lôi đình nổi lên, ông tạt vào mặt Attlas ly rượu đổ tung tóe. Bị mất mặt đến tàn tệ, vua Philippe toát gươm ra tính hạ sát con, nhưng có người cản, ông dằn được nộ khí, ngồi thừ xuống tủi nhục, hối tiếc tràn lan trong tâm hồn.

Khí phách đội trời đạp đất ở đời có từ xuân xanh đó, A-Lịch-Sơn đem áp dụng 13 năm trời trong cuộc trường chinh gần như vô tiền khoán hậu. Ông hạ thành quách Hi Lạp, Ai Cập. Ông quật ngã Ba Tư. Ông xua quân tràn ngập Ấn Độ. Một mình có đến hai thủ đô là Suse và Babylone. Chỉ ba mươi mấy tuổi đầu mà dưới chân có cả một đế quốc bao la, làm mưa làm gió từ Âu sang Á như thần Mars hiện hình.

3.- Nhìn chung cuộc đời A-Lịch-Sơn, ngoài các chiến công hiển hách, ta thấy ông đã chịu ảnh hưởng gì nơi thầy Aristote của ông. Tuy về đường chính trị và trong mấy năm sau cùng, sống trụy lạc dâm đãng, A-Lịch-Sơn đi lệch lạc đường lời của Aristote song phải nhận rằng chính Aristote đã ẩn hình trong con người của A-Lịch-Sơn, suốt đường đời oanh oanh liệt liệt của vị đế vương trẻ tuổi nầy. Trước khi chứng minh ảnh hưởng đó, ta cần biết đại cương về tôn sư của A-Lịch-Sơn là hiền triết Aristote. Ông sinh tại Stagire năm 384 và ly trận ở Chalcis năm 322 trước công viên. Từ bé ông hấp thụ giáo dục gia đình vững chắc bởi người cha là Nicomaque một ngự y của vua Macédoine. Tinh thần khoa học manh nha trong đầu óc ông từ ấu thời do ảnh hưởng thân phụ vốn là y sĩ lỗi lạc. Tinh thần nầy chi phối suốt cuộc đời trí thức của ông và ông đã lưu truyền nó trong A-Lịch-Sơn. Trương truyền rằng ông rất xấu tướng, đi cà nhót, cặp mắt ngó như diều hâu, hai môi đóng khít lại và ăn mặc tươm tất chứ không như nhiều triết gia khác. Khi A-Lịch-Sơn vừa chào đời thì vua Philippe buộc ông hứa sau nầy làm quân sư cho A-Lịch-Sơn. Những gì tinh hoa ông thu hút ở thầy Socrate hồi 17 tuổi và ở Thầy Platon trong vòng 20 năm, ông nổ lực dồn nhét cho A-Lịch-Sơn. Có lần vua Philippe nói với A-Lịch-Sơn rằng đã chọn cho con một bực thầy xứng đáng và các ân huệ nhà vua ban cho Aristote rất công bình. Tỉnh Stagire, nơi chôn nhau cắt rún của Aristote khỏi bị vua Philippe tàn phá mà còn được trùng tu diễm lệ là do vua Philippe muốn tri ân công lao thầy của con mình. Người xứ ông coi ông như thần tượng do bộ óc quán tuyệt của ông nên ông có biệt danh là: "Stagirite". Sau ngày A-Lịch-Sơn bắt đầu cuộc vạn lý trường chinh, Aristote nhớ trò quá, buồn thui thủi trở về Nhã Điển, lập gần đền thờ Thần Apollon Lycéum một học viện lấy tên thần nầy là Lycéum. Học viện nầy cũng giống như Académus của Platon, lò rèn bộ óc ông ngày xưa. Nơi đó, ông hoặc ngồi trên ghế đá các môn sinh ngồi quanh nghe giảng, đối thoại hoặc ông vừa đi dạo với các đồ đệ vừa giảng bài. Vì đó người ta thường hay gọi trường của ông là trường người đi dạo hay tiêu dao "École Péripatéticienne". Ông dạy học 13 năm đào tạo môn sinh lên đến số ngàn. Ông khác Socrate và Khổng Tử ở chỗ vừa dạy học trò vừa dạy con cái tận tình. Ông có hai con, một gái lấy tên vợ ông là Pythias, một trai lấy tên ông là Nicomaque. Ông đã biên soạn một tác phẩm trứ danh để dạy con về đạo đức. Đó là cuốn "Đạo đức học cho Nicomaque". Chưa nguôi sầu thảm vì cái tang của Thầy Platon, ông nát lòng thêm vì cái tang của trò A-Lịch-Sơn đại đế. Thế lực A-Lịch-Sơn xuống dốc rồi, các nhà cầm quyền Nhã Điển tìm cách trả thù các bậc trí thức thân Macédoine. Ông nghĩ thành Nhã Điển đã đầu độc rồi Socrate, không nên để cho nó phạm thêm tội thứ hai đối với triết học nên tức tốc ông lìa bò Nhã Điển, sang đảo Eubée, trú tại làng hẻo lánh Chalcis. Sau đó một năm tức tháng 8 năm 322, ông qua đời để lại một sự nghiệp văn chương, khoa học, triết học, đạo đức hoc tuyệt vời vĩ đại.

A.- Aristote là một trong những bộ óc to lớn nhứt mà nhân loại cổ kim có một cách hãnh diện. Tác phẩm của ông đề cập và đặt nền tảng cho gần hết các loại kiến thức của loài người. Không phải vô lý mà người ta nói hình như ông biết hết những gì cổ nhân trước thời ông đã biết. Kỳ công nhất của ông là ông truyền lại cho hậu thế hết tinh hoa của cổ thời, của đương thời và của riêng ông. Chẳng những ông sưu thảo mà còn hệ thống hóa, sáng tạo và đặt ra vô số định luật về các khoa giải phẫu, sinh lý học, vạn vật học, triết học gồm siêu hình học, luân lý học và các khoa sử học, địa chất học.

Hãy kể một số kiệt phẩm của ông:

1.- Những phạm trú

2.- Chống ngụy biện

3.- Tu từ học

4.- Siêu hình học

5.- Organon

6.- Vật lý học

7.- Cổ học

8.- Động vật học

9.- Linh hồn

10.- Đạo đức học cho Nicomaque

11.- Chính trị học

Con người mà bộ óc là một biển học không bờ không bến như vậy lại là thầy của A-Lịch-Sơn. Con người mà từ Don Scott, Thomas d'Aquin, Descartes, Pascal, Kant, Laibuiz, Dante, Goethe đến các ông vua triết hiện sinh đều phải đọc như cơm bữa. Con người đã đẻ ra siêu hình học được lấy làm nền tảng cho toàn bộ thần học của Ki-Tô giáo, con người mà John Dayden gọi là bó đuốc của nhân loại, con người đó lại là thầy của A-Lịch-Sơn.

5.- Ta thử xét coi A-Lịch-Sơn đã nhiễm ở thầy mình cái gì? Trước hết ta đừng quên A-Lịch-Sơn là người bản lĩnh. Lúc còn thụ huấn được Aristote hỏi trong tương lai sẽ làm gì? Nhiều bạn của A-Lịch-Sơn đáp rằng sẽ làm việc nầy việc nọ mà việc nào cũng tham khảo ý kiến thầy. Chỉ có A-Lịch-Sơn trả lời khác: "Thưa thầy, nào ai biết được việc gì sẽ xảy ra trong tương lai, đến chừng đó xin thầy hỏi lại". Và chắc trong cơn lốc trường chinh, con người có lần than không còn lục địa nào để xăm lăng cũng như trong cơn yêu dấu nàng Roxana, tù nhân chiến lợi phẩm, trong chính sách đồng hóa thực dân cưỡng bách 10.000 thanh niên Hi-Lạp cưới 10.000 thanh nữ Ba-Tư và mình đứng ra cưới đầu tiên, trong các trường hợp lộng hành tội lỗi đó, chắc tại thầy Aristote không đặt lại câu hỏi nên A-Lịch-Sơn tự động thao túng. Ai dám ngờ mấy năm trời thụ giáo với Aristote, A-Lịch-Sơn không được đào tạo tâm hồn về đạo đức. Nhưng khi chôn mình trong biển máu núi xương, A-Lịch-Sơn đã gây bao cảnh bất công tàn ác và mấy năm cuối cùng của đời ông say đắm hoa nguyệt hẳn là ông đã đi lệch giáo từ của tôn sư. Mười mấy năm dầm sương dãi nắng ra vào chốn tên bay đạn lạc như cơm bữa mà cơ thể ông không mòn rút bằng chỉ mấy năm trước khi băng hà, A-Lịch-Sơn đại đế tiều tụy, xác xơ như con khô hố. Theo sử gia Plutarque trong yến tiệc nọ, một kỹ nữ tên là Thais khiêu khích A-Lịch-Sơn phóng hỏa đốt dinh của Xersès. A-Lịch-Sơn không suy nghĩ gì hết, chụp mồi lửa làm theo ý người đẹp.

Trong cuộc sát phạt Ba-Tư, trên dòng sông Granicas, ông tiến quân đầu, bị một địch quân phóng lưỡi giáo, nhưng nhanh như chớp bạn thân của ông là Cleitus gạt giáo đi, cứu ông khỏi nanh vuốt tử thần trong đường tơ kẽ tóc. Người cứu tinh ấy ông lại dang tay toát gươm hạ sát trong một dạ tiệc tại Sacarmand chỉ vì ông nầy quá chén say rượu nói xúc phạm đến ông.

6.- Nhưng kế bên những vết đen ngòm đó, A-Lịch-Sơn có những nét son nào nói lên tàng tích tôn sư trong tâm hồn ông?

a) Aristote là cha đẻ của câu "Nhân đức đứng mực trung: Virtus in médio stat". Tư tưởng ấy thâm nhập con người A-Lịch-Sơn nên ta thấy trong mấy năm chinh chiến ông thi hành chính sách dung hòa, chinh phục được nhiều giới nhứt là hạng trí thức trong các dân bị trị từ Ba-Tư, Ai-Cập đến Ấn-Độ.

b) Aristote là một triết gia bác học nên đã luyện A-Lịch-Sơn thành một học giả uyên thâm. Tuy là kẻ xăm lăng, nhưng A-Lịch-Sơn đặt gót thống trị đến đâu là gieo rắc văn hóa đến đó. Nếu Aristote đã phổ biến tư tưởng bác học được cho toàn thế giới qua vạn đại thì trong 13 năm chinh phạt, A-Lịch-Sơn cũng đã làm cho Âu-Châu nhứt là Á-Châu tiến bộ khả quan về văn minh và giáo dục. Ông lập tại Ai-Cập một thành phố nguy nga, lấy tên mình đặt cho nó là Alexandrie, đem văn hóa, văn minh Hi-Lạp đổ vào đó.

c) Ông có hoàn toàn tán tận lương tâm không hay suốt đường đời hình bóng tôn sư Aristote luôn đeo đuổi ông? Khi ông biến bạo chúa Darrius thành con chuột bôn tẩu, trốn chui trốn nhủi rồi, thì hoàng hậu Stateira cũng nhiều mỹ nữ khác thuộc hoàng tộc Darrius đã lọt vào tay A-Lịch-Sơn. Song ông giữ đúng lời cam kết buổi đầu là đối xử kính trọng các người ấy. Một Nã-Phá-Luân hay một anh hùng chiến thắng nào khác có đủ tiết độ siêu quần được như học trò của Aristote không?

Tại sao cả lũ binh lính đông như kiến cỏ theo ông trong cơn lốc trường chinh, lớp chết như mối bị thui, lớp sốt rét, kiết lỵ mà vẫn thương mến ông hết lòng hết dạ. Huấn từ về lòng nhân ái của chân sư Aristote có thấm vô cốt tủy ông không. Có lần trên đường đi chinh phạt, ông cùng quân sĩ gần chết khát. Có người đem cho một bình nước. Ông để cho mấy binh sĩ gần ông uống trước rồi còn dư lại ông mới uống. Có lẽ nhờ vậy mà ông uống máu họ, họ vẫn không bỏ ông. Theo sử gia Plutarque thì đoàn quân nào của ông sau chiến thắng cũng được ân thưởng bội hậu. Sau khi ông hạ sát Cleitus, người bạn đã cứu tử hoàn sinh cho ông, ông hối hận đến đổi ăn ngủ không yên và niềm hối hận đó ông mang xuống tận tuyền đài.

Lúc bị cô gái giang hồ Thais xúi giục phóng hỏa dinh của Xersès ông quăng lửa lần đầu tiên song rồi cũng chính ông là người đầu tiên dập tắt lửa. Như vậy ánh lửa trong lương tâm môn đồ của Aristote chưa tắt hẳn.

Ông hoàng Ấn-Độ là Porus bị ông quật ngã rồi đáng lẽ bị ông cho chầu trời luôn, nhưng ông còn hỏi muốn được đối xử làm sao. Porus xin được đối xử như một ông hoàng. A-Lịch-Sơn liền cho phục chức, trả lại lãnh thổ rồi coi như chư hầu của Macédoine.

7.- Khi thành danh thành phận rồi, A-Lịch-Sơn còn nhớ công ơn tôn sư không?

Tuy luôn say mộng bá chủ, A-Lịch-Sơn lúc nào cũng không quên mình là một nhà trí thức. Ông luôn học hỏi, sưu tầm, thám hiểm. Ông đã gởi về cho thầy cũ vô số tài liệu về vạn vật học, về sử ký, địa lý, văn hóa, văn minh của các xứ bị chinh phục. Trong mấy năm Aristote nghiên cứu khoa học, chính A-Lịch-Sơn đã cung cấp cho thầy cả ngàn nhân viên phụ tá: Sự kiện gần như cổ kim chưa từng xảy ra giữa thầy trò.

Trò lo cho thầy như vậy và một nhà trí thức làm việc mà được tiếp tay bằng mối tình thâm uyên, kỳ lạ như vậy. Lòng yêu mến Aristote gởi nơi A-Lịch-Sơn thời thơ ấu cao siêu thế nào thì khi đã nên người, A-Lịch-Sơn cũng trả lại Aristote về già bằng lòng quí mến tri ân nồng hậu thế ấy. Chính A-Lịch-Sơn đã từng nói "Philippe đã cho tôi sự sống, còn Aristote đã cho tôi sự thông minh và đạo đức". Trong bảy tướng lãnh mà Nã-Phá-Luân ca tụng nhất thế giới thì A-Lịch-Sơn đứng đầu. Trong bọn đại triết gia mà giới triết coi là triết tổ của nhơn loại thì Aristote đứng bậc hai. Và người ta nghĩ việc ông hoàng thông minh bực hai của nhơn loại là thầy của ông hoàng chinh phục bực nhất thế giới.

Phải chỉ trên đường đời, trong nhiều quyết định quan trọng, A-Lịch-Sơn đừng quên giáo từ của Aristote thì ngôi sao định mệnh của anh hùng cải thế ấy rực rỡ biết bao.