Bạt
Một trong những thầy cũ của tôi, đỗ hai bằng tiến sĩ và là một học giả uyên thâm vì lý do khiêm tốn không muốn tôi nêu danh họ ở đây, trong khi thấy tôi tìm tài liệu viết cuốn sách nầy đã bảo tôi hãy cố gắng vạch ra cái mà ông gọi là triết lý của Tình Thầy Trò. Thưa Bạn. Triết lý tình sư đệ. Mấy tiếng lớn quá, làm tôi ngại. Chắc bạn cảm thấy nội dung của nó rộng và dài bao la, thăm thẳm. Trước hết bạn cảm thức rằng nó là một mối tình. Rồi bạn thấy trong đó đủ thứ thành tố: Chẳng hạn lòng yêu thương trong sạch, lương tâm chức nghiệp, các đức từ nhẫn nại, cần cù, quảng đại đến công bình, liêm chính v.v...
Bạn cũng thấy những điều kiện như thông minh, học rộng, biết nhiều, kinh nghiệm, phương pháp làm việc, lãnh đạo chỉ huy. Rồi còn lòng biết ân, cung cách đối xử có ân có hậu. Tôi chưa kể bao nhiêu hoài bão, mộng đồ thầy gởi nơi trò, bao nhiêu tin tưởng, trung tín, quyết tâm hành động trò gởi nơi thầy. Nới rộng tầm ảnh hưởng của Tình Thầy Trò ra, bạn thấy sao nó còn dính líu đến gia đình mật thiết. Chồng hay vợ được người bạn trăm năm tốt là do kẻ phối ngẫu với mình được giáo dục tốt. Cha mẹ muốn con nên thân với đời, muốn hòn máu của mình làm rạng rỡ dòng họ mình, cha mẹ lại đem con giao cho thầy. Nhiều cha mẹ chỉ cho con thể xác, còn chính thầy lại cho nó tâm hồn và nghề nghiệp nữa chứ. Còn quốc gia không cần tình sư đệ sao? Quốc gia có cần công dân tốt không? Khám đường có muốn giảm bớt thân chủ không? Quân đội chẳng cần binh tướng can đảm sao? Công sở làm sao bớt thứ sâu dân mọt nước, thứ thiếu khả năng lẫn tư cách, thứ làm việc tắc trách, vô lương tâm, thứ ở không, sanh nạnh, trốn trách nhiệm, chàng ràng, lớn trên nạt dưới? Các đảng phái chắc cần lãnh tụ anh minh và hệ thống cán bộ tốt chứ? Các tôn giáo không cần người hành đạo, truyền giáo chết sống cho lý tưởng siêu nhiên sao? Nhân loại tiến bộ cái gì nếu không bằng văn hóa, triết học, khoa học, kỹ thuật v.v... và các túi khôn của loài người nhờ ai chuyền từ thế hệ nầy qua thế hệ khác. Thưa bạn. Trả lời cho hết các câu hỏi trên bạn chỉ nói hai tiếng: Thầy Trò. Mối tình giữa hai đơn vị đó vô cùng phức tạp như vậy. Nếu người ta gọi tình vợ chồng là một triết lý thì bạn cũng có quyền gọi tình Thầy Trò là một triết lý. Triết lý xét về nguyên ngữ bởi gốc Hy-Lạp có nghĩa là yêu sự khôn ngoan. Dựa vào định nghĩa cổ điển nầy của triết lý thì bạn lại càng có quyền kêu Tinh Thầy Trò là một triết lý hơn nữa, vì ai giúp yêu sự khôn ngoan, ai cung cấp sự khôn ngoan và ai tìm, ai nhận lãnh khôn ngoan nếu không phải là Thầy trò.
Thật không đáng ngạc nhiên khi thấy tự nghìn xưa thầy trò gặp nhau là bàn luận triết, lý: Từ triết lý tôn giáo, triết lý luân lý, triết lý siêu hình đến triết lý luân lý, triết lý tâm lý, triết lý xử thế và triết lý xã hội. Những thầy trò trong lò triết lý phản động là những thầy trò lý tưởng được nối kết keo sơn bằng mối tình gần như thần thánh. Thi dụ thì vô số. Chẳng hạn bạn có thể kể trường hợp của Đức Thích-Ca, Đức Giê-Su, Khổng-Tử, Socrate, Platon, Aristote v.v... và các môn đồ của họ. Từ bản chất công việc giữa thầy trò đòi buộc một mối tình. Nếu không vậy thì thầy trò sẽ thành những con buôn, học vụ thành thương mãi, nhà trường thành thương trường hay siêu thị mát và trường thi thành hội chợ không hơn không kém. Mối tình giữa thầy trò là điều kiện nhất thiết, tối cần chứ không phải là điều kiện giả tạo, phụ tùng. Có hai tính thiêng liêng trói buộc thầy trò thì từ đó mới dễ dàng có lương tâm chức nghiệp, có các đức hy sinh, nhẫn nại, tha thứ, biết ơn, thân nghĩa. trung tín. Có thể đối chiếu nó với tình vợ chồng để thấy khía cạnh tất yếu không có được của nó.
Bạn tưởng tượng vợ chồng mà không có ái tình thì hôn nhân là thương mãi nữa, hôn thú là khế ước kinh doanh, vợ chồng là tay áp phe, việc tính giao là nhục dục, con cái là kết toán lời hoặc lỗ tùy nuôi sướng hay khổ. Mà như vậy thì không có cái gì ghê tởm cho bằng.
Từ chỗ phân tích những thành tố của Tình Thầy Trò, ý thức nó là một triết lý, chứng minh tính chất cần thiết của tình yêu giữa Thầy và trò, bạn có thể rút ra những định luật nào chi phối Tình Thầy Trò không?
Trước hết cần nhắc lại là Thầy trò được chi phối bởi nguyên lý tình yêu. Nguyên lý bao trùm chóp bu ấy gồm các định luật tối thiểu sau đây:
A.- Về mặt trí tuệ:
1) Luật khả năng: Thầy có khả năng, kiến thức, đức độ và khả năng truyền thụ vào tim óc trò những gì cần giáo dục họ. Trò có khả năng hấp thụ vì nếu không vậy thì thầy đủ tài đức đến đâu giáo dục kết quả cũng chẳng bao nhiêu.
B.- Về mặt ý chí:
2) Luật nỗ lực: Luật nầy chi phối thầy lẫn trò. Giáo dục là việc dài khơi, không thể hoàn tất trong một sớm một chiều. Nó đòi cố gắng liên tục.
C.- Về mặt lương tâm:
3) Luật đức hạnh: Công tác sư phạm đòi buộc đủ thứ đức độ: chân thành, quảng đại, hiền dịu, can đảm, khiêm tốn, công bình v.v...
D.- Về mặt tình cảm:
4) Luật tình thương: Luật nầy được coi là nguyên lý bao trùm các định luật khác. Thầy trò mà không thương nhau thì việc giáo dục coi như đi đời nhà ma.
E.- Về mặt xử thế:
5) Luật tư cách: Luật nầy trói buộc từ thầy đến trò. Tiếng tư cách gồm các khái niệm lịch sự, cao nhã, chừng mực, đứng đắn, tự trọng, tế nhị, v.v...
6) Luật tri ân: Trò trọn đời biết ơn thầy. Thầy không nhớ ơn trò sao nếu trò thể hiện được chí nguyện mà vì lý do nào đó thầy không đạt được.
F.- Về mặt hành động:
7) Luật hữu hiệu: Thầy phải dạy những gì thiết dụng và thể cách áp dụng sao cho đắc lực. Trò học rồi phải hành, phải ứng dụng vào đời sống thực tế.
Đấy! Thưa bạn, cái gọi là Triết lý tình sư đệ, đại khái gồm tối thiểu 7 định luật nền tảng đó. Toàn là những định luật không có gì mới lạ. Chúng ẩn tàng trong vấn đề thầy trò từ xưa đến nay và mãi mãi. Ở đâu nghe thầy trò lủng củng với nhau là một vài luật ấy bị vi phạm.
Chẳng hạn, thầy bị trò khinh vì dạy dở đó là vì thầy không tôn trọng luật khả năng. Còn lỗi luật nào mà trò bị thầy trách là dạy trối chết song cứ ngu si đần độn? Cũng luật khả năng bị chà đạp chứ gì? Thầy bị trò khinh vì tác phong bê bối: đó chẳng phải là luật tư cách bị vi phạm sao?
Ở đâu mà thầy trò làm việc đắc lực, giáo dục êm đẹp, là ở đó đa số hay toàn thể 7 định luật trên được áp dụng. Tuy gọi là tình thầy trò, thuộc về cái gì thiêng liêng, tình cảm, không thể quan niệm máy móc được, song trong thực hành nó gần như máy móc. Nghĩa là hễ thực hiện đúng 7 luật tối thiểu trên thì Tình Thầy Trò nếu không khả quan cũng không đến đỗi tệ. Làm ngược lại là nó trả đũa ngay. Trước khi là một nghệ thuật nghĩa là được áp dụng tuyệt xảo do bẩm phú hay do điêu luyện cao độ, thì nó là một kỹ thuật nghĩa là hễ theo nguyên tắc đúng, phương pháp tốt, điều kiện cần và đủ thì đương nhiên có kết quả tốt.
Nếu sánh thầy với trò về phương diện ai phải giữ các định luật trên hơn thì người ta nói ngay: Thầy. Thầy phải chịu lép hơn trò ở chỗ quyết liệt thể hiện Tình Thầy Trò hơn trò. Đành rằng trò cần Thầy hơn Thầy cần trò song đó là nói nguyên tắc, chứ về mặt thực hành nếu muốn giáo dục hữu hiệu thì Thầy phải ra Thầy trước khi trò ra trò. Vả lại tuy trò nhớ thầy để khôn nhưng khi thụ giáo, tuổi trẻ không đủ khôn để lo cho mình học khôn. Nói cách khác cần khôn là việc của trò còn lo cho trò khôn thì Thầy hai phần, trò một phần. Trong nguyên tắc thì mỗi bên một nửa. Tiếc thay tuổi trẻ dễ làm cho trò lười biếng ham chơi, ngán học, nản chí. Ai cũng biết cứ chung mà nói thì từ trong gia đình đến học đường, có đứa trẻ nào tự nhiên ham học và ưa kỷ luật đâu. Cha mẹ, thầy giáo phải cưỡng áp nó rồi nó dần dần tự chủ và tự điều khiển học hành được.
Có thể nói gần tuyệt đối rằng Thầy mà ra Thầy thì lớp học không đến đỗi tệ. Tôi nói gần tuyệt đối là để trừ ra một số học trò hoàn toàn bất trị. Số nầy thường là thiểu số. Ai đã từng lãnh đạo trường đều kinh nghiệm rằng phần đông lớp nào mang tiếng bê bối kỷ luật, học hành bấp bênh đều tại nhà giáo. Nhứt định là tại nhà giáo. Có thầy cứ ỷ có bằng cấp, cứ ỷ có cái chuyên môn thôi, nghĩa là chỉ áp dụng luật khả năng mà bỏ trôi các luật khác nói trên. Họ vào lớp dạy giỏi mà học trò la ó, cười giỡn, khinh bỉ họ, lười biếng, chán nản v.v..., họ bất mãn, bảo sao họ giỏi mà học trò tệ như vậy. Mà họ giỏi đâu đủ để họ làm ông thầy tốt.
Hơn nữa, Thầy phải chịu lép, chịu lỗ ở chỗ nghề Thầy xem ra là nghề bạc. Bạc tự bản chất của nghề và bạc do lòng người ít biết ơn. Bạc tự bản chất vì hễ làm thầy là cho, mà chỉ lãnh lại tượng trưng thôi. Tượng trưng đây là thù lao theo luật công bằng. Dạy học như đã nói trên, không phải thương mãi nên không nhắm lời lãi được. Trừ trường hợp ai muốn thương mãi hóa nghề làm thầy. Bạc do lòng người ít biết ơn, vì tri ân là một đức tính họa hiếm chỉ cho có trong những tâm hồn cao thượng thôi. Mà người đời được mấy ai cao thượng. Hơn nữa kinh nghiệm còn cho biết ân hay đẻ oán. Người xưa dựa vào kinh nghiệm đó nói chí lý rằng: Thi ân mạc niệm, thụ ân mạc vong. Thầy thi ân thì thầy hay nhớ chớ trò thụ ân thì trò hay quên. Luật ấy hình như là luật muôn thuở. Bởi vậy hễ làm thầy thì nên chấp nhận trước đi rằng nghề thụ nhân là nghề bạc.
Nhưng nếu thầy mà ra thầy khi dạy, đào tạo nơi kẻ thụ giáo, lòng biết ơn tức thực hiện luật tri ân, thiết tưởng nghề dạy học cũng bớt chua chát phần nào. Người ta còn nói phần thưởng cao quí nhất của ông thầy là về già thấy học trò của mình thành công, nên danh nên lợi với đời. Trò có biết mình nên thân do thầy hay không mặc kệ họ. Nếu quả đúng họ nên người do chính mình phần nào là thầy tự nhiên thấy khoái trá vô biên trong tâm hồn. Được trò biết ơn nữa thì niềm khoái trá đến tuyệt đỉnh. Chính nó là yếu tố thần thánh của Tình Thầy Trò, là xương sống của triết lý sư đệ. Bởi vậy người ta nói Tình Thầy Trò là một đền thờ không dành cho gót danh lợi, ích kỷ mà để riêng cho những tâm hồn vươn lên lý tưởng chân thiện mỹ thôi.
HOÀNG-XUÂN-VIỆT