← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XVII TÌNH THẦY TRÒ CỦA BOULE VÀ TEILHARD DE CHARDIN-(Không bỏ Thầy mà khéo cãi Thầy có thể nên đại sự.)

Nếu Alain đã tập cho Maurois hiểu triết lý, xô Maurois vào lâu đài văn nghệ, định tạo Maurois thành Balzac thứ hai; thì chính Boule đã dẫn dắt Teilhard trên đường khoa học qua nẻo cổ sinh vật học, để Teilhard thành một nhà khoa học, một triết gia, một nhà siêu hình, một thần học gia, một tiên tri và một nhà nhiệm bí lỗi lạc của thế kỷ 20.

A.- BOULE LÀ AI?

Marcellin Boule sinh năm 1816 tại Mont Salvy Cantal và qua đời cũng tại đó năm 1942. Ông vốn là một nhà cổ sinh vật học trứ danh của Pháp. Từ năm 1902 đến năm 1936 ông là giáo sư tại học viện Muséum. Học viện nầy không thuộc đại học ở Paris. Nó giống như Collège de France, trực thuộc bộ giáo dục Pháp và tự trị về tài chánh. Thủy-tổ sáng lập của nó là Guide la Brosse theo lệnh của vua Louis XIII năm 1635. Vốn nó là vườn ương trồng, nghiên cứu các loại cây y dược. Năm 1739, chính Buffon quản trị nó. Trong Muséum, người ta nặng nề nghiên cứu giảng huấn khoa vạn vật học mà các giáo sư nổi tiếng hồi thế kỷ 18 là các ông Thouin, Jussieu, Fourcroy, Rouelle v.v...

Năm 1794, cách mạng Pháp gọi nó là Bảo-Tàng-Viện quốc-gia về vạn vật học. Trong thời kỳ nầy các giáo sư lỗi lạc dạy cho nó phải kể Becquerel, Cuvier, Lamarck v.v... Bây giờ thì Muséum gồm nhiều vườn ương trồng, cơ quan triển lãm, thí nghiệm, thư viện v.v...

Trong Muséum có lối 20 ghế giáo sư đại học mà những vị thực thụ được Bộ Giáo-dục bổ nhiệm qua sự giới thiệu của Hội đồng viện và Hàn-lâm-viện khoc học. Boule là một trong những giáo sư thực thụ trong đó chuyên trách khoa cổ sinh vật học.

Năm 1920 Boule tự mình thành lập một học viện lấy tên là học viện cổ sinh vật học nhân bản. Công trình trứ danh của ông là những khám phá về địa chất ở Massif Central, những nghiên cứu về loài vật có vú và nhứt là về con người thời tiền sử.

Từ năm 1893 đến 1940, Boule với tư cách khoa trưởng môn nhân loại học, thành lập các tạp chí Annales de Paléontologie và Archives de l'Institut de Paléontologie Humaine.

Từ năm 1888 đến 1889, trong cuốn Essai de Paléontologie Stratigraphique de l'Homme, Boule tỏ ra là người đầu tiên nối kết lại các hiện tượng địa chất, cổ sinh vật và khảo cổ học của đệ tứ thời đại.

Năm 1913, Boule giới thiệu mẫu người Néandertalien khám phá tại La Chapelleaux-Saints và năm 1921, ông xuất bản đầu tiên cuốn "Người hóa thạch". Đó là mấy nét đại cương về thầy của Teilhard. Boule tuy là một ngôi sao khoa học nhưng nếu sánh với học trò của ông thì cũng y như Albert le Grand sánh với Thomas d'Aquin vậy: Trò vượt thầy quá xa và độc đáo của những vĩ nhân là càng nổi danh hơn thầy càng biết ơn thầy.

B.- TEILHARD DE CHARDIN LÀ AI?

Về vĩ nhân nầy, viết một cuốn sách một hai ngàn trang cũng chưa thấm vào đâu. Chúng tôi hy vọng sẽ cho ra đời sau tác phẩm bạn đang cầm trên tay đây, cuốn "Teilhard! Ông là ai?" tóm lược đời sống, học thuyết của Teilhard. Ở Việt-Nam đã có những công trình giới thiệu Teilhard đáng lưu ý, đó là cuốn "Khoa học và đức tin" của Bác-sĩ Nguyễn-Văn-Ái, một phần trong cuốn "Mối tình màu hoa đào" của Nguyễn-Mạnh-Côn và bản dịch một tác phẩm cột trụ của Teilhard tức cuốn "Le milieu pin". Dịch bản nhan đề là "Cảnh vực thần linh" mà dịch giả là Trịnh-Hùng và Triệu-Bá-Vi.

Dưới đây tôi chỉ bàn vài nét chính yếu về đời sống và học thuyết của Teilhard thôi để từ đó nói về tình Thầy trò giữa ông và Marcellin Boule.

C.- CUỘC ĐỜI CỦA TEILHARD:

a) Hiện tượng Teilhard:

Trong cuốn "Tư tưởng của Teilhard de Chardin", tiến sĩ Émile Rideau ở phần dẫn nhập có những cảm nghĩ đại khái như sau:

"Các sử gia ở thời đại ta chắc chắn sẽ nói nhiều về hiện tượng Teilhard. Teilhard là trung tâm đam mê cho mọi giới và mọi quốc gia nặng về nghiên cứu. Từ hữu thần đến vô thần đều phải tìm hiểu Teilhard. Giữa cơn lốc của tư tưởng giới xưa nầy, vũ trụ bị coi là phi lý, đời người là kiếp lưu đày, chết là hết chuyện. Cuộc sống bị văn chương, phim ảnh bôi lọ. Chính con người bị đủ thứ ngạo nghễ. Hành động của con người còn hy vọng gì không. Nó có thể cao cả, dựa trên kết quả vĩ đại nào hay chỉ là vô ích, tuyệt vọng. Người ta còn hỏi lịch sử nhơn loại có cần tiếp diễn nữa chăng. Người ta lại gay gắt hỏi nữa là trong cái ổ ong loài người làm việc quần quật nầy, hết các cái gọi là khoa học, kỹ thuật, phát minh, khám phá, hết các thú vị của đời sống, của sáng tác, tất cả có ý nghĩa gì không, có giá trị vĩnh cửu không hay sẽ chịu số phận của một làn sóng quên lãng giữa đại dương. Có thể vừa hữu thần, tin tưởng quyền năng Thượng-Đế trên vũ trụ và lịch sử, vừa lo phát triển con người và xã hội toàn diện được không? Người ta có thể vừa yêu Thượng-Đế vừa yêu thế gian không? Phàm sử có liên quan gì đến thánh sử chăng? Có Thượng-Đế không? Linh-hồn bất tử không? Có hậu kiếp không?

Trước các thắc mắc, băn khoăn, xao xuyến nầy, người ta cố gắng tìm câu trả lời trong Teilhard. Vậy Teilhard là ai, học thuyết Teilhard thế nào mà thế kỷ 20 coi ông quan trọng đến thế."

b) Tiểu sử Teilhard:

Pierre Teilhard de Chardin là một Linh-mục, một nhà khoa học, một nhà cổ sinh vật học, một triết gia, một nhà siêu hình học, một thần học gia, một nhà tiên tri và là một nhà nhiệm bí học trứ danh của Pháp.

Sinh ngày 1-5-1881 gần phía Tây Clermont-en-Auvergne trên núi Puy-de-Dôme, qua đời ngày 10-4-1955 tại Nữu-Ước, chiều lễ Pâques, thọ 74 tuổi. Ông là con thứ tư trong 11 con của ông Emmanuel Teilhard de Chardin (1844-1932) và bà Berthe de Dampierre d'Harnoy (1853-1936). Lúc thơ ấu được thân phụ dạy học cho đến khi vào trung học Dòng-Tên Mongré gần Villefranche-Sur-Saône. Mấy năm ở trung học nầy là mấy năm ông quyết định về đường lối của ông. Năm 1844, ông vào đệ tử viện Dòng-Tên tại Aix-en-Provence. Trong thời gian nầy ông thụ huấn triết gia lỗi lạc Blondel mà luận án tiến sĩ nhan đề L'action: Hành Động, đã ảnh hưởng mạnh trên tinh thần Teilhard. Điều nầy bạn ông là Claude Guénot đã xác nhận như vậy.

Từ 1-7-1901, Teilhard theo đệ tử viện các Linh mục Dòng-Tên dời qua đảo Jersey. Lúc ở đây, Teilhard bị khủng hoảng tinh thần vì băn khoăn không biết phải tiếp tục đi tu hay hoàn tục theo đuổi khoa học. Sau cùng ông quyết định đi tu mà không bỏ khoa học nghĩa là dùng khoa học phục vụ Thượng Đế và nhơn loại. Từ năm 1902 đến 1905, ông vào Đại-chủng-viện Dòng-Tên đảo ở Jersey và đậu cử nhân văn chương ở Đại học Caen. Từ 1905 đến 1908, tại một trung học Dòng-Tên ở Le Caire, ông làm giáo sư Lý-hóa. Năm 1911, ông thụ phong Linh-muc sau khi đã học bốn năm thần học ở Anh. Từ 1912 đến 1914, thụ giáo nghiên cứu, khảo cứu, khảo cổ, khám phá về cổ sinh vật học với giáo sư Marcellin Boule tại học viện Muséum ở Paris.

Từ 1914 đến 1915, bị động-viên, làm y-tá, đặc trách khiêng những chiến sĩ bị thương hay tử thương. Có người hỏi sao ông quá can đảm giữa chiến trường bốc khói như vậy, ông cười và nói: "Nếu tôi chết thì chỉ đổi trạng thái và vậy là tất cả".

Năm 1920, ông đổ thêm cử nhân khoa học. Năm 1922, dưới sự hướng dẫn của giáo sư Boule, đổ tiến sĩ khoa học với luận án nhan đề: "Loài có vú của hạ tầng đệ tam kỷ". Sau đó, ông làm giáo sư địa chất học và cổ sinh vật học tại đại học Công-giáo Paris. Từ 1923 đến 1946 ông thường trực ở Trung-Hoa thỉnh thoảng về Pháp, sang Mỹ, tháp tùng các đoàn khảo cứu qua Abyssinie, Birmanie, Java v.v... Chính năm 1923 là năm Teilhard khám phá nền văn minh cổ thạch khí của Ordos.

Đáng lưu ý nhất là năm 1929, ông khám phá nhiều di tích chứng minh được bộ Hóa-Nhân "Sinanthropus pékinensis" tức bộ xương hóa thạch của con vật cách đây 300 ngàn năm tìm được ở Bắc-Kinh chính là con người chứ không phải con khỉ. Nhờ công trình của Teilhard mà bộ Hóa-Nhân được các nhà cổ sinh vật học coi như gạch nối giữa bộ hóa thạch nhũ Australopithécus chưa được là con người với các bộ hóa thạch Néanderthal, Cromagnon quả thực là con người. Thuyết tiến hóa của Darwin nhờ Teilhard mà áp dụng được riêng cho loài người. Năm 1946, ông từ Trung-Hoa trở về Paris. Năm 1951, ông gia nhập Hiệp-hội Wennergren tại Nữu-Ước.

Nên nhớ là từ 1931, Teilhard đã được coi là nhà thông thái thuộc hạng quốc tế. Tiếc thay từ 1946 trở đi ông bị giáo hội cấm xuất bản về triết học và thần học. Có thể nói gần hết những gì ông viết về hai khoa nầy, trong 40 năm trước ngày qua đời, ông không được xuất bản. Bị công kích tứ phía nhứt là trong giới Công-giáo vậy mà ông kiên nhẫn theo đúng luật Dòng-Tên, nghe lời giáo hội, tiếp tục viết mà không ấn hành. Sau khi ông chết rồi, tác phẩm của ông được xuất bản hằng loạt, tiêu thụ như gió gây chấn động tư tưởng khắp thế giới, kể cả thế giới sau bức màn sắt. Có lần ông được mời dạy Collège de France mà dòng tu của ông cấm rồi ông cũng tuân phục. Năm 1950, ông đắc-cử một ghế trong Viện-Hàn-Lâm Khoa-Học của Pháp. Mấy năm sau cùng đời ông Teilhard sống ở Nữu-Ước, tiếp tục nghiên cứu và sáng tác.

c) Tác phẩm của Teilhard:

Tuy bị hiểu lầm, bị cấm viết, Teilhard một mặt tuân phục bề trên không xuất bản, mặt khác cứ tiếp tục biên soạn, sáng tác. Vì đó, khi nằm xuống rồi, ông để lại một đống tác phẩm đồ sộ mà tiếng vang của nó đi bốn biển. Sau đây là mấy tác phẩm chính yếu của Teilhard:

La messe sur le monde

Le milieu pin

Le phénomène humain

Le coeur de la matière

Le christique

L'apparition de l'homme

La vision du passé

L'avenir de l'homme

L'énergie humaine

L'activation de l'énergie humaine

Hymne de l'univers

Tập I: Construire la terre

Tập II: Réflexions sur le bonheur

Tập III: Pierre Teilhard de Chardin et la politique africaine

Tập IV: La Parole attendue

Lettres de voyage de 1923 à 1955

La genèse d'une pensée

Place de l'homme dans la nature

Lettres d'Égypte de 1905 à 1908

Écrits de temps de la guerre de 1916 à 1919.

Người ta còn đang sưu tầm các thư từ, văn thư giao dịch và những văn phẩm rải rác đó đây của Teilhard để xuất bản dần dần. Hiện nay những bài báo, những tác phẩm viết về Teilhard đã đến mức quá bề bộn, gần như không liệt kê xiết.

D.- PHÂN TÍCH CÁC NGUỒN ẢNH HƯỞNG NƠI TEILHARD:

Dưới đây là những nhận xét của Émile Rideau trong cuốn "La Pensée du Père Teilhard de Chardin" về con người và đời sống của Teilhard.

1.- Di truyền và tâm tính:

Sức khỏe vững chắc. Cơ thể quân bình, chịu đựng dẻo dai. Không đau lặt vặt. Càng cao tuổi càng giữ được nhiệt tâm. Trí tuệ thông minh, nhanh lẹ, sáng tạo, thực tiễn, tổng hợp hơn là phân tích. Nhìn lô-gích và nhất trí. Thích tìm hiểu, giải thích. Mãnh tin nơi khả năng hiểu biết của tinh thần. Giàu bẩm phú nghiên cứu khoa học, triết học. Ưa chứng nghiệm hơn lý luận trừu tượng. Tưởng tượng dồi dào. Bộ óc là chân trời và chân trời sáng kiến tấp nập. Cảm giác phong phú. Đổ dồn đến thực tế mà nội tâm luôn thâm trầm. Hoạt động kinh khủng. Tháo vát không tưởng tượng. Ý chí sắt đá. Tự chủ bên trong và bên ngoài làm gì thì đến nơi đến chốn. Bình thản trong đau khổ. Cương quyết mà vẫn tuân phục thượng cấp. Biểu lộ tâm tính cao nhã. Bản ngã vững chắc và phán đoán độc lập. Tâm hồn sôi sục yêu thương sự vật và con người nên Teilhard luôn đặt những vấn đề. Con người tốt tự nhiên nên người ta nói Teilhard là "Thiên tài của tình bằng hữu". Bạn bè của ông đông vô số. Từ nhỏ đã khát vọng cái gì tuyệt đối, tuyệt mãn, tuyệt vời. Lòng tự nhiên ưa thích mạo hiểm, tò mò, tìm hiểu. Đam mê chân lý. Độc đoán trong quyết đoán vì quá say mê sự thật. Nội tâm băn khoăn vì vô số vấn đề lớn, còn ngoại thân thì khuynh ngoại triệt để, thành ra con người Teilhard có được cái thế quân bình đặc biệt thuận hợp cho những công trình to tát.

2.- Ảnh hưởng gia đình:

Chịu ảnh hưởng sâu đậm của mẹ về lòng đạo đức. Chịu ảnh hưởng sâu đậm của cha về tính chất quân bình nền tảng và về ham thích khoa học. Khí hậu gia đình êm ấm, nên từ nhỏ hình như không gặp những khủng hoảng, nhứt là về mặt tình dục. Mãi đến khoảng 30 tuổi mới gặp những thắc mắc. Hoàn cảnh địa phương xung quanh theo truyền thống, ít xao động về những vấn đề rắc rối trong xã hội, nên Teilhard ít chịu ảnh hưởng những trào lưu đòi cái tiến, đấu tranh. Có lẽ nhờ vậy mà Teilhard yên tâm hướng về những vấn đề khoa học, siêu hình.

3.- Dấu vết học đường:

Tại Mongré (1892-1898) hấp thụ giáo dục cổ điển vững chắc. Kỷ luật tinh thần và luân lý trang nghiêm. Khí hậu không xao xuyến và chế độ chính trị, trung thành với Giáo-hội. Lòng đạo đức nơi Teilhard luôn đi lên lúc ngồi trên ghế nhà trường. Về mặt nầy Teilhard hơi khác những Augustin, Pascal, Kierkegaard và Foucauld là những người đã từng qua tuổi trẻ giông tố.

4.- Khuôn Dòng Tên:

Hấp thụ đúng mức tinh thần của thủy tổ Dòng Tên là Ignace de Loyola: chết sống cho Đức Giê-Su và quyết liệt truyền bá chân lý. Teilhard sống đúng tinh thần của cuốn Exercices spirituels của Ignace. Khắc khổ tu luyện và cởi mở khoáng đạt. Teilhard suy nghĩ nhiều cách dung hợp tự do và tuân phục, đức tin và khoa học. Thu hút hàng loạt giáo sư lỗi lạc, Teilhard tỏ ra xuất sắc trong các khoa văn học, triết lý, khoa học, thần học. Bộ óc nuôi dưỡng bằng Tô-ma thuyết cổ điển, vững chắc. Về thần học, chú trọng nhứt thuyết nhập thể và nhiệm thể. Nhìn triết lý kinh viện Teilhard thấy nó thiếu đáp ứng cho nhiều vấn đề nhân thế. Ông gọi nó là "Kinh viện học lạnh lạt". Đa số thầy và bạn xung quanh Teilhard quá nghiêng về trật tự, cổ tục. Khí hậu đó làm Teilhard bực mình. Ông cũng thấy Giáo-hội sao cứ lo chống đỡ, binh vực mình mà không lo làm cho mình hấp dẫn. Nơi Teilhard nổi lên đòi hỏi: Phải làm cái gì mới. Chính Teilhard là một thứ tiên tri của công giáo nghị Vatican hai.

5.- Thiện rút ra từ ác:

Nhờ đệ nhị thế chiến mà Teilhard tiếp xúc với nhiều hạng người. Nhiều cánh cửa vấn đề cũng mở ra cho ông. Teilhard ý thức ý nghĩa của một vũ trụ đang hình thành, của vật chất có bàn tay thần thánh nhúng vào.

6.- Ảnh hưởng của khoa học:

Nhờ lăn vào khoa học, Teilhard tu luyện óc quan sát, phân tích, tổng hợp, óc phán đoán và thực nghiệm. Ông cũng ý thức được sự huy hoàng, phức tạp và phong phú của vũ trụ, nhứt là nắm được ý nghĩa của một thế giới khách quan, toàn nhất. Sâu sắc hơn là khoa học đã khắc tạc cho Teilhard nhu cầu giải thích một cách hợp lý các tương quan luân lý, tất yếu và toàn nhất của vạn vật. Óc triết lý độc đáo của ông đưa ông đến chỗ phổ quát hóa toàn diện của sự toàn nhất. Nhờ chuyên môn về địa chất học và sinh vật học, Teilhard nắm được ý thức thời gian và ý thức lịch sử trong những chiều rộng lớn nhất của chúng. Sinh vật học cũng gợi cho ông sự can thiệp của linh thiêng vào vật chất. Từ đó ông lượng giá các giới người, các chủng tộc và các giai cấp trí thức.

7.- Ảnh hưởng của xã hội học:

Xã hội học đưa Teilhard đến ý thức thống nhứt của các dân tộc và ý thức tập đoàn của nhân loại. Sự kiện ông du khảo nhiều nước, nghiên cứu địa lý, tôn giáo, phong tục, tâm tính của nhiều dân tộc, tạo cho ông tinh thần coi nhân loại là đại đồng. Biên giới từng quốc gia xóa mờ trong đầu óc ông. Ông chỉ nhắm nhân bản thuyết đại đồng. Ông là người thu hút được tinh hoa của các nền văn minh từ Âu-Mỹ đến Đông-phương, bằng phương pháp tiếp xúc trực tiếp và nghiên cứu tận nguồn.

8.- Vòng đai bằng hữu:

Bạn bè của Teilhard đông vô số. Ta chỉ liệt kê một số tên tuổi thôi:

1) Édouard Le Roy (1870 - 1954) môn đồ của Bergson và giáo sư của Collège de France trong tình thâm giao với Teilhard đã giúp cho ông nhiều về các khoa sinh vật và xã hội học.

2) Auguste Valensin (1879 - 1953) là cố vấn về đạo đức lẫn nghiên cứu.

3) Pierre Charles và Joseph Maréchal là những bạn giúp Teilhard có đầu óc thoát trừu tượng, bám vào sự kiện cụ thể.

4) Bên Anh, Rousselot là người hướng dẫn Teilhard đào sâu Thomas d’Aquin về hữu thể học.

5) Từ 1920 - 1925, Paul Doncoeur trong tình bạn đã thúc đẩy Teilhard say mê nghiên cứu vũ trụ và thần học về nhập thể của Đức Giê-Su.

9.- Teilhard đọc ai?

Đọc Bergson. Nhất là cuốn L'Évolution Créatrice. Teilhard coi như sách gối đầu giường. Rồi đến bộ Les Deux Sources, ông đọc trong thời giặc 1939. Nếu đọc Bergson, Teilhard thoát được óc định kiến, ngã về hướng siêu hình khoa học của lịch sử vũ trụ thì đọc Blondel, ông vững tin khi phải dứt khoát các trói buộc phàm thể trước sự lựa chọn con đường thiên triệu. Trong chiến tranh 1914, Teilhard đọc Apologia của Newman. Ông cũng đọc Dieu ou Rien của Sertillanges và đã từng viết một bức thư nhiệt liệt ca tụng tác giả nầy. Ông cũng đọc qua loa Péguy, Gide. Ở Pháp ông đọc một số ngòi bút hiện sinh. Tại Mỹ ông đọc nhiều sách thuận hoặc chống học thuyết của ông.

E.- CÁC CHẶNG ĐỜI CỦA TEILHARD THEO ÉMILE RIDEAU:

Theo dõi các chặng đời, các khúc quanh của đời sống Teilhard bạn thấy thiên tài vĩ đại nầy ngày càng trưởng thành, càng tiến phát trên đường sự nghiệp bất hủ của ông.

Từ 1908-1912: Hoc thần học, Teilhard ý thức về chiều sâu, về hữu thể, về toàn nhất của vũ trụ.

Năm 1913, bị khủng hoảng về vấn đề nam nữ song Teilhard chống trấn áp cơn khủng hoảng.

Từ năm 1915-1918: Là chiến tranh. Ngay từ 1916, Teilhard bắt đầu viết những tác phẩm quan trọng về liên kết giữa vũ trụ và Đức Ky-Tô.

- Năm 1924: Bắt đầu viết về những vấn đề lịch sử hiện nay của con người.

- Năm 1930: Sau khi thoát cơn khủng hoảng thiêng liêng, Teilhard ý thức tầm quan trọng của con người trên đà tiến hóa. Ông tiến sâu vào lịch sử vũ trụ.

- Nam 1935: Teilhard nặng về tầm quan trọng của tập thể và hiện tượng xã hội hóa. Ông dấn thân vào việc canh tân lịch sử cho một vũ trụ cần thiết lập.

Từ 1945 - 1951: Mấy năm sau cùng của đời Teilhard là những năm của thị kiến một cái gì siêu nhân loại tập thể. Nó chống hẳn cái bi quan của hiện sinh thuyết. Như vậy là bạn thấy Teilhard đi từ trừu tượng đến cụ thể, từ siêu hình đến lịch sử, từ quá khứ sang hiện tại, từ hiện tại về tương lai, từ lý thuyết qua thực hành tức là từ suy tư đến dấn thân.

F.- NGÔN NGỮ CỦA TEILHARD:

Gần như trong lịch sử văn học, triết học, khoa học thế giới, chưa có ai trước tác mà chuyên môn tạo danh từ mới, đặt các thành ngữ mới bằng Teilhard. Ông sáng tạo tân ngữ để diễn các loại ý mới lạ đến đỗi năm 1951, chính ông phải soạn một cuốn ngữ vựng cho các tân ngữ ấy. Công việc bỏ dở, về sau bạn bè và người đồng chí hướng với ông tiếp tục.

1.- Sử dụng những tiền trí từ một cách tuyệt xảo:

Muốn diễn những ý của ông, Teilhard hay dùng những danh từ, động từ hay tĩnh từ có những tiền trí gốc tiếng Hi-Lạp, La-Tinh. Ông ngụ ý rằng các tiền trí từ nầy tự chúng đã nói cho độc giả một cái gì rồi? Các tiền trí từ thường được ông dùng nhứt là:

In, Inter, Intra, Intro: chỉ cái gì ở trong. Ab, Ex, Extra, De: chỉ nguồn gốc, tiểu trừ, phân chia v.v... Per: chỉ phương diện. Sub, Super: chỉ cái gì ở trên cao.

2.- Số lượng danh từ và tân ngữ chuyên môn đến ngộp mắt:

Trong cuốn La Pensée du Père Teilhard de Chardin, Émile Rideau gom hằng triệu tiếng được Teilhard dùng dưới các đề tài: Hữu thể và thực tại, quả quyết và phủ nhận, không gian, di động, hình thức, phẩm chất và đối tượng, sự sống, tư tưởng, Thượng-Đế. Mà đó chỉ mới là những danh từ chính yếu thôi. Các danh từ nầy chứng minh tầm bao la của các tác phẩm của Teilhard. Còn các tân ngữ độc đáo mà ông chế ra để diễn những ý độc đáo của ông thì không biết cơ man nào kể hết. Chẳng hạn như:

Biogénèse - Sinh nguyên thuyết

Biosphère - Sinh vật cầu

Christogénèse - Sinh hóa Ky-Tô

Christosphère - Ky-Tô cầu

Hominisation - Nhân hóa

Socialisation - Xã hóa

Planétisation - Hành tinh hóa

Bởi vậy muốn hiểu Teilhard ngoài vốn kiến thức căn bản về khoa học, triết học, thần học, còn phải biết một số tối thiếu về các ngữ tố La-Hi.

3.- Bút pháp của Teilhard:

Cũng theo Émile Rideau, bút pháp của Teilhard có những đặc điểm sau đây:

1.- Sáng sủa, rõ rệt: Tư tưởng được diễn tả trong như pha lê. Lời tiết kiệm mà không gây tối tăm. Nhiều người hiểu Teilhard không được là cái ý cao và lời khó chứ khi hiểu lời, hiểu ý chí thì cách ông diễn tả là tuyệt.

2.- Tư tưởng diễn tiến: Tư tưởng diễn tiến từng đoàn, từng tiết trong chương. Dài ngắn cân đối. Các ý xoay quanh một ý mẹ, tạo nhất trí cho đoạn văn phụ. Vì đó khi đọc ông, bạn cảm thấy ngay sự nối kết và lo-gích, sức mạnh và kiềm chế, gắt gao và quân bình.

Sự khai triển của Teilhard trung tín với chuyên môn tức là theo những luật của sinh vật học mà ý tưởng phát triển và tiến đến già giặn.

3.- Yêu tha thiết điều mình viết: Nhất trí và dính liền của tư tưởng phát xuất từ chỗ Teilhard yêu mãnh liệt điều ông viết. Ông đam mê về thị kiến vũ trụ. Ông viết là ông dấn thân. Vì đó văn của ông cho người đọc sức sống động. Ngòi bút ông tuôn nhựa sinh lực. Vốn là nhà văn từ bẩm sinh, Teilhard đam mê viết và thấy khoái trá khi cầm bút.

4.- Môn nào văn nấy: Bút pháp của Teilhard thay đổi tùy loại môn mà ông đề cập: Hồi ký khoa học, tiểu luận vũ trụ hoc, thần học, tu đức, thư tín v.v...

Viết môn nào ông có giọng văn thích hợp nấy. Chẳng hạn về những bức thư Ai-Cập (1905-1908) của Teilhard, Henri de Lubac phân tích bút pháp như sau: "Thiên phú cầm bút mà người ta nhận thấy trong những Bức thư chiến tranh và Bức thư du lịch, đã khởi sự xuất hiện trong những bức thư Ai-Cập... bất cứ đề tài nào nét bút cũng vững chắc, ghi chú cũng chính xác, phát xuất từ bộ óc linh động và quan sát bén nhọn." Cũng y như Claudel trong Connaissance de l'Est, nhờ mô tả tỉ mỉ, sự chính xác khoa học đượm màu sắc nên thơ.

5.- Văn của Teilhard đầy hình ảnh: Hoặc dùng chính những tiếng gợi hình hoặc dùng thí dụ, Teilhard làm cho cái ý trừu tượng của ông mang hình ảnh đọc dễ hiểu và hấp dẫn. Chẳng hạn ông viết: "Hành động của Tạo-hóa nhào nắn chúng ta như một cục đất sét mềm dẻo". "Chúng ta hãy tưởng tượng trong chiều sâu của đại dương, người thợ lặn đang tìm cách ngoi lên. Hay là chúng ta vẽ trong trí hình ảnh trên hông núi phủ sương mù có một lữ hành đang tiến lên đỉnh chan hòa ánh sáng."

6.- Nhạc dưới ngòi bút Teilhard: Nhờ khéo sử dụng cân đối của những trường cú và chọn lọc tiếng kỹ lưỡng, văn của Teilhard làm cho người đọc nghe du dương. Thí dụ điển hình nhứt là văn trong cuốn Thánh lễ trên vũ trụ.

7.- Tiến-bộ của bút pháp: Hình như càng cao tuổi, viết nhiều, Teilhard càng sử dụng ngòi bút tinh xảo. Dĩ nhiên tư tưởng nhờ chân lý mà lôi cuốn song cũng do nghệ thuật cao độ của bút pháp mà Teilhard nhét được sâu trong tâm hồn người đọc những ý tưởng tân kỳ của ông.

8.- Con người Teilhard trên đường tìm chân lý: Trên đường tìm chân lý, Teilhard gặp vô số gian truân mà luôn tỏ ra can trường.

1) Gian truân ngay từ còn ở Trung học: Teihard băn khoăn không biết có nên đi tu hay ở ngoài đời theo đuổi khoa học. Vượt khủng hoảng nầy, ông quyết định vừa làm Linh-mục vừa chết sống cho khoa học.

2) Gian truân khi tuổi độ 30 thì thử thách trong nội tâm về vấn đề tính dục. Một bên là lý tưởng độc thân của một Linh-mục và khoa học, một bên là gia đình hạnh phúc, phải chọn bên nào. Teilhard can đảm theo con đường thứ nhất.

3) Gian truân khi phải vừa thực hiện các bổn phận tu đức của một Linh-mục vừa nuốt không biết bao thư viện, vừa lặn lội hết nước nầy sang nước khác, vừa làm việc lao động khảo cổ, vừa trầm lặng suy tư và liên tục trước tác.

4) Gian truân khi bị Dòng tu nghi kỵ, cấm dạy trường nầy bắt dạy trường khác. Theo đúng tinh thần tuân phục của Ignace, thủy tổ của Dòng, Teilhard vâng lời Bề Trên tuyệt đối.

5) Gian truân khi bị Tòa thánh ra lệnh cho Dòng cấm Teilhard xuất bản sách. Thời gian kéo dài ba bốn chục năm. Nô lệ dư luận, vô số người nổi lên công kích Teilhard là rối đạo, lạc đạo, loạn dòng giáo gian, tu bịp, sái trí, khùng gàn v.v... Teilhard phải làm việc trong đêm trường tăm tối, khủng hoảng của tâm hồn. Biết bao lần ông bị cám dỗ dứt bỏ dòng tu. Trong nhiều bức thư ông trình bày tâm sự đắng cay của ông cho các người bạn tri kỷ. Nhưng rồi ông nhứt định chung thủy với công giáo, với dòng tu và âm thầm tiếp tục chí hướng của mình.

9.- Học thuyết của Teilhard: Sau khi đã biết qua mấy nét đại cương về đời sống và sinh hoạt của Teilhard, ta thử tìm hiểu đại cương học thuyết của ông. Cần nhấn mạnh tiếng đại cương hiểu theo nghĩa sơ lược chứ nếu phải trình bày đầy đủ Taila-thuyết, như tôi đã nói ở trên, cần thể tài những quyển sách mấy nghìn trang. Muốn có cái nhìn tổng hợp trên thuyết đại tổng hợp của Teilhard, muốn nắm được cái: "nhất dĩ quán chi" trong Taila-thuyết, trước tiên ta coi cách các khoa học triết lý, thần học giải quyết những vấn đề con người, xã hội, vũ trụ, Thượng-Đế, hậu kiếp thế nào.

10.- Giải quyết của khoa học, triết lý, thần học:

a) Khoa-học: Cho đến bây giờ các khoa học chỉ lo cắt nghĩa, chứng minh, những sự kiện, đặt giả thuyết, lý luận, chứng nghiệm rồi đưa ra những định luật cho các sự kiện. Khoa học không rớ đến đối tượng của Triết học là tìm nguyên nhân các sự kiện, hay tìm hiểu thái độ sống thích hợp cho con người. Khoa học càng không băn khoăn giải đáp các thắc mắc: Có Thượng-Đế không? Linh hồn bất tử không? Người ta có thể bắt khoa học phục vụ thần học nhưng khoa học bị quan niệm từ bản chất không nhắm mục đích siêu hình học.

b) Triết-học: Từ thượng cổ cho đến hiện kim, triết học chỉ nhắm đối tượng tìm hiểu nguồn gốc sự kiện và thái độ sống thích hợp cho con người. Triết học được dùng yểm trợ thần học, chứ triết học cũng không xen vào đối tượng của khoa học, hay nhiều lãnh vực chuyên môn của thần học. Nhứt là theo Descartes, Triết học không được lẫn lộn với thần học.

c) Thần-học: Cho đến bây giờ đối tượng của thần học vẫn là Thượng-Đế, là các vấn đề linh hồn bất tử hay không, có đời sau hay không, tội phước là gì v.v... Thần học dùng khoa học và triết học chứ vẫn có đối tượng khác biệt đối tượng của khoa học nầy. Nhìn thoáng qua khoa học, triết học và thần học, như vậy ta thấy mỗi môn giải quyết các vấn đề con người, xã hội, vũ trụ, Thượng-Đế. Trong từng lãnh vực riêng, môn nầy thiếu các môn kia. Có môn lại không cần biết đến đối tượng của môn khác là gì.

Ai mê khoa học thì có thể lãnh đạm với triết học hay coi thần học là học thần thoại. Ai mê triết học thì có thể khinh bỉ khoa học là học chuyện vật chất hay nhìn thần học thuần là của Đức tin. Ai mê thần học thì có thể bất kể đời sống vật chất, phàm tục, trốn tránh khoa học hay coi triết học chỉ là cây cầu dùng tạm bợ để vọt lên cõi siêu phàm. Tệ hại nữa là có nhiều chi nhánh của khoa học và triết học lại lui cui giải quyết các vấn đề con người, nhân sinh, xã hội một cách đứt khúc, cục bộ, rời rạt, vá víu. Chẳng hạn triết học của Các-Mác làm xương sống cho chính trị áp dụng vào xã hội thì chặt bỏ vấn đề Thượng-Đế, cẩu thả vấn đề vũ trụ chỉ lo các vấn đề con người và xã hội thôi. Chẳng hạn triết học hiện sinh của Sartre hàm súc yếu tố vô thần của Mác-thuyết, vừa chặt bỏ Thượng-Đế, vừa chặt bỏ thiên nhiên, vũ trụ và chỉ lần quần trong các vấn đề con người xã hội rồi tuyên bố đời người là phi lý, vạn vật phi lý luôn. Ngay chính trị, kinh tế nếu hiểu theo nghĩa khoa học xã hội dựa vào một số nguyên tắc triết lý nào đó thì cũng chỉ là khoa học giải quyết các vấn đề con người và xã hội một cách đứt khúc: chặt bỏ hậu kiếp, bất kể nguồn gốc của sự kiện chỉ lo trị an, phồn thịnh và khai thác thiên nhiên để hưởng thụ.

THUYẾT CỦA TEILHARD TỔNG HỢP KHOA HỌC, TRIẾT-HỌC, THẦN HỌC VÀ GIẢI QUYẾT MỘT CÁCH ĐẠI TỔNG HỢP CÁC VẤN ĐỀ CON NGƯỜI XÃ-HỘI, VŨ-TRỤ, THƯỢNG-ĐẾ.

Sau đây là những nét cương yếu của Taila-thuyết:

A.- THUYẾT TIẾN HÓA CỦA TEILHARD:

Có thể nói thuyết tiến hóa của Teilhard là một thứ thần học xây dựng trên bản chất của khoa học và triết học.

1.- Teilhard quan niệm thoạt kỳ thủy là Thượng-Đế tự tư tưởng, làm công việc vĩ đại đầu tiên là tạo nên Ngôi Lời (Verbum). Công việc ấy xảy ra dính liền một trật với Thượng-Đế tự hữu. Nói cách khác Thượng-Đế tự hữu và tự tưởng nên Ngôi Lời có một lượt với Thượng-Đế. Ngôi Lời ấy sau nầy nhập thể làm Đức Ky-Tô lịch sử, cứu thế và duy thiên "Le Christ historique, rédempteur et eschatologique". Tức là Đức Giê-Su. Ta hãy để riêng vấn đề thần học thuần túy ấy. Bây giờ ta nhìn về phía sáng tạo.

2.- Theo Teilhard từ Thượng-Đế và Ngôi Lời, phát xuất ra toàn năng lượng. Khối năng lượng ấy chuyển biến thành vũ trụ, thành sự sống, thành con người, thành môi trường Thượng-Đế để sau cùng toàn hợp với Thượng-Đế.

3.- Như vậy cuộc tiến hóa của vũ trụ, con người và xã hội đi từ Alpha là Thượng-Đế sau cùng kết thúc trong Oméga cũng là Thượng-Đế. Còn Đấng lèo lái cuộc tiến hóa vĩ đại ấy là Đức Ky-Tô khiến hóa (Le Christ Évoluteur).

4.- Khối năng lượng sơ khai đúng như Einstein chứng minh gồm vô số hạt tử. Các hạt tử sơ cấp chuyển hóa mãi sinh ra những hạt nhân, những nguyên tử sau cùng kết thành vũ trụ khoáng chất. Vũ trụ khoáng chất nầy lại chuyển hóa, làm tách rời ra một hành tinh gọi là trái đất. Sự kiện nầy xảy ra cách nay chừng 5000 triệu năm. Trái đất theo đà tiến hóa chung cũng tiếp tục chuyển hóa, đến một lúc từ những khoáng chất vọt ra sự sống mà hình thức tối sơ đẳng là những cực vi trùng. Các sinh vật nầy chuyển hóa nữa thành những vật đơn tế bào rồi thành những thực vật, động vật đa tế bào.

5.- Theo Teilhard, tiến hóa đến chặng nầy, trái đất bị bọc bên ngoài bằng một sinh cầu (Biosphère) tức là một lớp sự sống. Nó liên tục sinh sinh hóa hóa. Nếu tính từ khi có trái đất đến đây là đã mất gần 5000 triệu năm rồi.

6.- Dòng sinh hóa cứ tiếp tục đến cách đây chừng ít trăm ngàn năm; thoát ra một loài sinh vật thượng đẳng, có lý trí gọi là con người. Sinh vật thượng đẳng nầy có thứ hóa thạch mà khoa cổ sinh vật học tìm được như mẫu Australo Pithecus chẳng hạn. Nhưng phải đợi đến khi khám phá hóa thạch của mẫu Sinanthropus tại Trung-Hoa, nhứt là những khám phá liên hệ đến hóa thạch nầy của Teilhard, người ta mới quả quyết nó là con người bị hóa thạch chớ không phải con thú vật vô lý trí hay là con vượn, con khỉ chẳng hạn.

7.- Từ biến cố nầy, sinh vật thượng đẳng cứ tiến hóa mãi đến chỗ có lý trí toàn bị. Rồi nhờ có lý trí, con người tự làm cho mình hoàn mỹ, thoát ngoài dòng kìm hãm của vũ trụ, trở lại lèo lái cuộc tiến hóa của vũ trụ. Cuộc tiến hóa riêng của từ sinh vật thượng đẳng đến con người thông minh, Teilhard gọi là dòng trí hóa(Noogénèse). Mặt đất từ khi có con người được bao bọc bằng bầu khí mà Teilhard gọi là Trí cầu (Noosphère).

8.- Thuyết tiến hóa của Teilhard như vậy bạn thấy đã hoàn hảo thuyết tiến hóa của Darwin, vì thuyết sau nầy chỉ cắt nghĩa được tiến hóa của các vật khác chứ không cắt nghĩa được cuộc tiến hóa của con người.

9.- Nếu theo lập trường của Teilhard thì cắt nghĩa được sáng tạo linh hồn từ lúc sinh vật thượng đẳng vốn là khối vật chất mà thoát thành vật vừa mang vật chất vừa mang lý trí. Nếu chấp thuận Thượng-Đế thuần thần tạo năng lượng, sinh hạt tử vật chất thì dễ chấp nhận Thượng-Đế vốn thuần thần ban cho sinh vật thượng đẳng một chút thần của mình. Chính ưu điểm nầy đưa con người lên ưu vị trên cây thang vạn vật. Vì nó được ân huệ có ưu vị, chiếm ưu thế như vậy nên chí lý là gọi nó Nhân-vị.

10.- Nhưng thuyết tiến hóa của Teilhard có phải ngừng ở đây không. Không. Theo Teilhard con người và xã hội loài người còn tiến hóa nữa. Vũ trụ nói chung và trái đất nói riêng đang bị bao bọc bởi một lớp nhân tính. Nó dần dần được nhân hóa (Homonisation). Trên dòng sinh hóa nhân loại (Anthropogenèse) con người năm châu bốn biển không còn chia chủng tộc, giai cấp, biên thùy dân tộc mà được xã hội hóa (Socialisation) thành một cộng đồng phong phú chất người hơn. Người sẽ người theo chân nghĩa của danh từ ấy hơn.

11.- Theo Teilhard, từ chỗ được bao bọc bởi Sinh cầu (Biosphère) rồi bởi Trí cầu (Noosphère), con người được bao bọc bởi một bầu khí thần thánh, linh thiêng là Ky-Tô cầu (Christosphère). Từ đó tiến đến cái mà Teilhard gọi là môi trường Thượng-Đế (Milieu pin). Kết cùng của cuộc tiến hóa vĩ đại là vạn vật, con người sát nhập vào Thượng-Đế. Không thấy ông dùng hai tiếng Thần cầu (Théosphere) và Thần hóa (Théogénèse). Nhưng theo lý luận trên thì có thể hiểu khi nhơn loại lọt vào môi trường Thượng-Đế là được bao bọc bởi bầu khí thần thánh gọi là Thần cầu và việc tiến hóa đến Oméga gọi là Thần hóa.

12.- Điều đáng lưu ý là theo thuyết Teilhard từ khi Ngôi Lời nhập thể tức lúc Đức Giê-Su ra đời cứu thế cho đến mạt thế, thì con người được bao bọc bởi bầu khí của Đức Giê-Su Ky-Tô, gọi là Ky-Tô cầu (Christosphère) và việc con người tiến hóa dưới ảnh hưởng của Đức Ky-Tô gọi là Ky-Tô hóa (Christogénèse).

B.- ĐỊNH LUẬT TIẾN HÓA THEO TEILHARD:

Cuộc tiến hóa vô cùng vĩ đại như bạn vừa thấy mô tả trên, theo Teilhard, được điều khiển bởi định luật nào?

1.- Luật tạo thành: Theo Teilhard, không vật gì xuất hiện mà không được chuẩn bị từ trước.

2.- Luật vũ trụ tiến đến hoàn toàn: Vũ trụ nhứt là từ khi có trái đất, có con người, luôn luôn vươn mình đến chỗ hoàn toàn.

3.- Luật vạn vật đều có ít nhiều tâm linh:

Teilhard chủ trương năng lượng cấu thành vũ trụ có hai loại:

a) Loại tiếp tuyến: (Énergie tangentielle) điều khiển các tương quan vật lý hóa của các yếu tố trong vũ trụ. Đó là đối tượng của các nhà khoa học chỉ lo tìm hiểu giải thích sự kiện.

b) Loại tâm linh: (Énergie psychique), nơi con người gọi là năng lượng linh thiêng, điều khiển vật chất tiến đến phức tạp và hoàn toàn. Bất cứ yếu tố nào trong vũ trụ kể cả một phân tử cũng đều có hai năng lượng đó. Mỗi vật chất đều có mầm năng lượng tâm linh. Nhờ năng lượng nầy mà cuộc tiến hóa của vật chất làm phát sinh con người và riêng con người là sinh vật có tâm linh phong phú nhất.

4.- Luật cực phức: Theo Teilhard thì việc vũ trụ (Cosmogénèse) bị chi phối bởi luật vạn vật tiến về phức tạp đến cực độ. Tất cả đều tiến hóa từ đơn giản đến phiền toái. Năng lượng tỏa ra vô số hạt tử. Hạt tử tiến lên phân tử. Phân tử cấu thành nguyên tử. Nguyên tử chuyển thành mầm sống. Mầm sống biến thành vi khuẩn. Vi khuẩn tiến đến tế bào. Tế bào đi đến thực vật, động vật và con người. Luật cực phức chẳng những chi phối về lượng mà còn về phẩm. Vì đó cả hai mặt của năng lượng là tiếp tuyến lẫn tâm linh đều tiến hóa theo đà luôn mãi phức tạp. Vật thể nào càng phức tạp càng chiếm địa vị ưu thế. Con người mà bộ óc và tâm hồn là điển hình của phức tạp, nên trong vạn vật con người đứng đầu sổ.

5.- Luật ý thức: Từ luật cực phức chi phối tâm linh con người rút ra luật ý thức. Ở trên ta đã biết luật vật nào cũng có ít nhiều tâm linh. Riêng cho con người có luật ý thức là luật thúc đẩy con người càng lúc càng tiến bộ vệ tinh thần, về siêu việt. Cần nhấn mạnh ở đây là luật ý thức đưa con người đến văn minh từ vật chất đến tinh thần. Do đó con người phải vừa tiến bộ kỹ thuật, vừa tiến bộ nhân cách và thánh đức.

6.- Luật mục đích: Theo Teilhard thì suốt dòng sinh hóa của vũ trụ và con người đều có mục đích. Nghĩa là năng lượng nhắm vũ trụ thành. Vũ trụ nhắm địa cầu thành. Địa cầu nhắm sinh thành. Sự sống nhắm nhân thành. Con người nhắm cùng đích của mình là Thượng-Đế tức thân thành.

C.- GIÁ TRỊ CỦA HỌC THUYẾT TEILHARD:

Bạn nghĩ sao về giá trị của học thuyết Teilhard?

Cho đến bây giờ, trước học thuyết Teilhard còn có nhiều thái độ. Nghi ngờ, phản đối, binh vực. Nhưng có điều ai cũng phải công nhận là từ xưa đến nay chưa có chủ thuyết nào gồm khoa học, triết học, thần học để giải quyết các vấn đề con người, vũ trụ và Thượng-Đế mà hấp dẫn bằng Taila-thuyết. Đáng lưu ý nữa là những lò thuốc súng phản đối ban đầu, nhứt là từ phía công giáo, thấy dần dần lắng dịu.

1.- Cái nhìn của thần học gia:

Hồi Teilhard còn sống thì Dòng Tên theo lệnh của Tòa-thánh cấm Teilhard xuất bản sách phổ biến học thuyết của ông. Ông chết rồi 10 năm thì Tòa-thánh thu hồi lịnh cấm ấy. Một năm sau ngày ông nằm xuống, bạn bè của ông thành lập hải ủy ban: Ủy ban khoa học và ủy ban tổng quát, gồm toàn những tên tuổi thượng thặng trong khoa học, triết học, thần học để cứu xét và xuất bản các tác phẩm của ông. Tư tưởng của ông từ đó tung ra khắp thế giới như nước vỡ bờ, tràn lan tận các nước theo chủ nghĩa đỏ. Giữa Cộng Đồng Vatican II, Tổng-Giám-mục Nam-Phi Hurley hết lời ca tụng Teilhard. Hàng loạt nhà thần học cự phách của công giáo, đáng kể nhứt là những Henri de Lubac, Daniélou, Émile Rideau, Dietsche, Rabut, Nicolas Corte v.v... viết những tác phẩm công phu đại khái binh vực Teilhard. Taila-thuyết hiện nay được nhiều tổ chức Tin-lành lẫn công giáo rầm rộ hội thảo và có nhiều Đại-chủng-viện đem ra giảng huấn. Tinh thần dấn thân của Cộng Đồng Vatican II nhứt là tinh thần Nhiệm-thể, tinh thần Dân Thiên-Chúa tức là tinh thần mà Teilhard đã tiên báo, trình bày mấy chục năm trước. Hiện giờ nhiều vấn đề thần học nát óc chưa giải quyết được, đa số thần học gia, giáo sĩ lẫn giáo dân tuy chưa chấp nhận hẳn Taila-thuyết nhưng cũng ngấp nghé Teilhard để tìm giải đáp.

2.- Cái nhìn của triết gia:

Học thuyết của Teilhard giải thoát con người khỏi đêm tối lạc mất Thượng-Đế từ Feuerbach, Nietzsche đến Các-Mác. Nó cũng nhấn mạnh cho con người ngược lại chủ trương của Sartre, Canms rằng đời sống không phi lý, kiếp người có mục đích cao cả. Nó đưa triết học vào quỉ đạo của tiến hóa để cùng khoa học và thần học giải quyết các vấn đề to lớn nhất của nhân loại. Nó cung cấp tài liệu khoa học cho triết gia khỏi lần quần trong tháp ngà suy lý và nối giữa triết gia với thần học gia bằng sợi dây tương quan tự bản chất, chứ không để triết học chỉ là đầy tớ của thần học như người ta quan niệm từ thời trung cổ đến nay.

3.- Cái nhìn của khoa học gia:

Mà khoa học thuần túy nếu chỉ đứng trên địa hạt chuyên môn của mình thì đại khái không có gì trách Teilhard được. Trong giới cổ sinh vật học thì ông là tay cự phách quốc tế. Trong làng sinh vật học thì ông là bực trứ danh. Còn địa chất học là nghề riêng ăn đứt của Teilhard.

Có điều nhiều khoa học gia trách ông là khi ông lấy khoa học để dựng nên thuyết tiến hóa, vĩ đại, làm họ ngộp mắt. Chẳng hạn Rostand thì hạ bệ ông sát ván. Nhưng muốn lượng giá ông mà chỉ đứng một trong các chuyến tuyến khoa học, triết học, thần học không đủ. Tối thiểu phải đứng trên cả ba chiến tuyến mới tương đối có thẩm quyền.

4.- Cái nhìn của chính trị gia:

Nếu làm chính trị mà chỉ lần quần trong việc khai thác thiên nhiên về mặt kinh tế, chuyên lo trị an và tìm phồn thịnh cho dân chúng, thì thuyết của Teilhard tạo thêm cho chân trời về nguồn gốc của xã hội, của quốc gia, chỉ cho cùng đích của đời sống cộng đồng. Nếu làm chính trị mà bất kể thần thánh, khinh bỉ hậu kiếp, chỉ lo thúc đẩy con người đấu tranh dựa trên hận thù giai cấp thì thuyết của Teilhard, vừa quan niệm nhân loại tứ hải giai huynh đệ, vừa đề cao cuộc sống trần thế, vừa thúc đẩy con người tiến bộ trong tình thương và treo cho cộng đồng mục tiêu siêu thoát về vĩnh cửu. Đường lối nầy đã được quốc trưởng Senghor áp dụng tại nước Sénégal thay thế chủ nghĩa Mác-Lê. Những nhà ái quốc chân chính của mỗi quốc gia, có thể thu hút trong thuyết Teilhard lửa thiêng phục vụ đất nước mình trong tầm chiến lược cao sâu, bằng cách lồng khuôn vào sách lược quốc gia ý thức hệ toàn bị, giải quyết thỏa đáng các vấn đề thuộc nhận thức quan, vũ trụ quan, nhân sinh quan và xã hội quan.

5.- Cái nhìn tổng kết:

Tóm lại khách quan mà nói thì Teilhard đã có những điểm đáng ca tụng sau đây, mà một hàn lâm sĩ của Viện-Hàn-Lâm Khoa-học Pháp đã nêu trong bộ Larousse du XXe siècle ở mục về Teilhard.

a) Teilhard đã đưa con người là siêu nhiên vào thiên nhiên.

b) Đã đẻ ra một hiện tượng luận mới vừa toàn nhất vừa tổng hợp về con người và vũ trụ.

c) Đã phát kiến luật phức tạp ý thức, vật chất, tiến đến những hình thức hướng tâm phức tạp. Ý thức là động lực thúc đẩy cuộc tiến hóa nầy đến những giá trị cao siêu.

d) Đã tiên báo một viễn tượng tương lai cho con người, sau khi đã được xã hội hóa và sát nhập vào môi trường Thượng-Đế ở chặng cuối cùng của tiến hóa.

e) Đã trình bày vũ trụ tiến đến sự sống. Sự sống tiến đến nhân hóa và tinh thần thoát khỏi chiếc nôi vật chất của nó.

Thuyết Teilhard là nhân bản thuyết cao đẳng ở chỗ chấp nhận con người là chìa khóa của cuộc tiến hóa toàn vũ. Điểm Oméga mà trí cầu chui vào phải là trung tâm điểm có thực. Trung-tâm của các trung-tâm: Tức là Đức Ky-Tô khiến hóa (Le Christ Évoluteur). Đức Ky-Tô phục sinh trong vai trò càn khôn của Ngài. Chính Teilhard đã hiện đại hóa thần học Saint-Paul bằng khoa học và triết học tân tiến nhất.

Tóm lại! Bạn thấy đời sống Teilhard là một cuộc đời ngoại hạng, nhứt là thuyết Teilhard là học thuyết vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Ai chống ai đỡ tùy ý. Teilhard vẫn khiêm nhường nói rằng mình vạch ra một con đường rồi nhiều người khác sửa con đường ấy cho tốt đẹp. Trở lên sở dĩ tôi phải cùng bạn tìm hiểu dài dòng về Boule và Teilhard là để ý thức giá trị của chính họ và giá trị tình Thầy Trò mà họ nêu gương cho hậu thế.

C.- TÌNH THẦY TRÒ GIỮA BOULE VÀ TEILHARD:

1.- Vai trò của Boule trong sự nghiệp của Teilhard:

Nếu nói về thầy thì chắc chắn Teilhard có rất nhiều bực tôn sư, trải qua các giai đoạn học trung học, học đệ tử viện và đại chủng viện. Chính những vị nầy đã đào tạo tinh thần và tâm hồn đạo hạnh cho Teilhard theo phương pháp giáo dục của Dòng Tên vốn đã nổi danh quốc tế. Căn bản tu đức đó làm xương sống cho công trình vĩ đại của Teilhard. Nó thúc đẩy ông chết sống cho lý tưởng. Nó trói buộc ông can trường với chí nguyện. Nó an ủi, ủy lạo ông trong đêm trường khủng hoảng, lắm lúc muốn lìa bỏ Dòng tu rồi cắn răng chịu đựng cho qua cơn bão tố. Câu trả lời sau đây có phải là lời gián tiếp Teilhard tỏ ra lòng biết ơn các tôn sư, trong mười mấy năm trời âm thầm đào tạo chí kiên trì cho ông không? Lúc Teilhard bị Tòa-thánh cấm không cho xuất bản sách, bị nhiều bề trên về đồng nghiệp Linh-mục hất hủi, một người bạn hỏi ông sao không xuất Dòng để hoạt động tự do hơn, ông đáp: "Ngay ý nghĩ xuất Dòng tôi cũng không bao giờ có. Càng gặp truân chuyên tôi càng thấy cần Dòng để tôi hoạt động vững chắc". Mấy lời ấy của một người siêu quần bạt chúng như Teilhard nói lên giá trị giáo dục của những sư phụ đã từng uốn nắn tâm hồn Teilhard. Ngoài các sư phụ ấy, còn có thể kể công lao của một triết gia tên tuổi đã từng đóng góp vào cơ đồ hiển hách của Teilhard, tôi muốn nói Maurice Blondel. Hồi ở Aix-en-Provence, Teilhard đã tiếp xúc, thụ huấn với ngôi sao triết học nầy. Chính luận án tiến sĩ của Blondel cuốn L'Action, là tác phẩm đã gây ảnh hưởng mạnh trên đầu óc Teilhard. Hãy nghe Claude Guénot nói: "Triết lý Teilhard về hành động đã theo chiều hướng triết lý hành động của Blondel". Dĩ nhiên nếu đối chiếu kỹ hai hệ thống triết học thì thấy có dị điểm căn bản nầy: Trong khi Blondel năng phân tích tâm lý hành động của con người, thì Teilhard chú trọng vai trò hành động con người trong quỉ đạo tiến hóa của vũ trụ. Nhưng ở đây muốn nhấn mạnh là công lao của Blondel trên Teilhard trong buổi đầu xây dựng đại sự văn hóa. Sở dĩ nhắc qua các bực thầy đáng kính trên là để ta thấy Teilhard là kết quả giáo dục của cả một hệ thống minh sư. Song một bực thầy giúp Teilhard quyết liệt nhất để ông đẻ ra Taila-thuyết phải kể: Marcellin Boule. Như ta đã biết trước năm 1912 là năm Teilhard bắt đầu thụ giáo với Boule, ông chỉ có vốn học văn hóa, thần học vững chắc thôi. Còn vốn khoa học của ông tuy không phải kém, nhưng chưa đủ để ông hoàn thành dự tính vĩ đại của ông. Các phân tích ở phần trên về học thuyết Teilhard cho ta thấy phân nửa nền tảng của Taila-thuyết là khoa học. Phân nửa kia là triết học và thần học. Có thể nói nếu không có khoa học thì Teilhard, không là Teilhard thế giới đề cập mãi ngày nay. Khoa học nói đây ngoài các môn vật lý, hóa học, nguyên tử học v.v... phải kể: sinh vật học, địa chất học, cổ sinh vật học. Mà ai là người dẫn dắt Teilhard một cách có thẩm quyền và tận tâm trong các khoa học nầy nếu không phải là Boule trong cái lò Muséum tại Paris. Thuyết của Teilhard là thuyết tiến hóa toàn vật và toàn diện. Ông đề cập đến vũ trụ hóa (Cosmogénèse), sinh hóa (Biogénèse), nhân hóa (Anthropogénèse), trí hóa (Noogénèse) v.v... toàn là những vấn đề cần các khoa học trên chứng minh một cách cụ thể. Nếu nói trên đời, một vĩ nhân gặp một minh sư là việc định mệnh thì phải nói trường hợp Teilhard gặp Boule.

2.- Boule đưa Teilhard vô lò Muséum:

Ở trên bạn đã biết Muséum là gì rồi. Nó là một thứ Collège de France mà giáo sư toàn là những nhà nghiên cứu phát minh thượng thặng, mà học viện đa số là những bộ óc chuẩn bị công trình to lớn. Tu nam 1910 hay co le truoc nua, Teilhard da duoc Boule dua vao Muséum. Trong tạp chí Table Ronde (Bàn Tròn), Breuil nói: "Lối năm 1910 hay trước đó ít lâu, Teilhard de Chardin được giáo sư Boule giới thiệu cho tôi tại phòng thí nghiệm cổ sinh vật học của Viện Muséum". Ngay buổi đầu gặp gỡ, Breuil nhận xét: "Theo tôi nghĩ đó là một tu sĩ trẻ Dòng Tên, trí não bén nhọn một cách khả quan, tính tình giản dị và nhất là dễ có thiện cảm". Lọt vào Muséum đối với Teilhard là Kình ngư lọt vào biển cả. Ông được tôn sư là Boule tạo cho đủ thứ cơ hội học hỏi, nghiên cứu và làm các cuộc thí nghiệm, khai quật của một nhà tiền sử học. Nhờ uy tín bảo trợ của Boule mà sau khi thụ phong Linh-mục một năm tức năm 1913, Teilhard được tháp tùng lần đầu tiên theo phái đoàn khảo cổ để khai quật căn cứ tiền sử quan trọng tại Tây-Ban-Nha. Phái đoàn do Breuil cầm đầu gồm bác sĩ Obernaier, Wernert và một số nhà tiền sử học trẻ trong đó có Teilhard. Cũng lối năm 1913, Teilhard là nạn nhân của một cuộc đánh lừa mà người ta hay gọi là (Cuộc đánh lừa của Piltdown). Lúc ấy nhờ sự giới thiệu của Boule, Teilhard liên lạc với nhiều nhà địa chất cổ sinh vật học tại Anh, nhất là với giáo sư Smith-Woodward và tham gia một cuộc khai quật tai Piltdown để tìm một cái răng nanh mà thiên hạ đã biết. Ông cùng phái đoàn bị Dawson đánh lừa một cách khéo léo. Mãi đến năm 1953 ai nấy mới biết là cái răng nanh giả mạo. Thành ra ngày khám phá đầu tiên, Teilhard kể như là gặp thất bại. Người củng cố tinh thần ông, truyền thụ những miếng nghề trong khoa khảo cổ cho ông lại cũng chính là Boule.

3.- Sát cánh tiếp tay Thầy:

Năm 1914, chiến tranh bùng nổ. Teilhard bị động viên với chức vụ y tá. Ngoài những giờ thi hành bổn phận của một quân nhân ông vẫn thường xuyên liên lạc với tôn sư. Chiến tranh không làm gián đoạn những nghiên cứu khoa học của ông. Trái lại đôi khi còn giúp ông nghiên cứu hữu hiệu hơn nữa. Trong thời gian điều khiển Viện Muséum giáo sư Boule đã sưu tầm một số khá lớn hóa thạch loại có xương sống. Boule giao cho Teilhard nghiên cứu hộ các loại có vú ăn thịt. Đây là cơ hội hi hữu đưa dắt Teilhard đến các công trình to tát sau nầy. Ông làm việc ngày đêm kết quả nghiên cứu ngoài sức mong muốn của tôn sư. Năm 1916, cũng dưới sự bảo trợ của Boule, ông nghiên cứu các loài linh trường (Primates) hóa thạch mà Boule sưu tầm ở Quercy. Nhờ công trình nghiên cứu nầy mà Teilhard nghĩ đến đà tiến hóa của linh trường đến sinh vật Sinanthrope như sẽ bàn sau.

4.- Nhờ thầy đỡ đầu đỗ tiến sĩ khoa học:

Nếu một Maurois nhờ Alain bắt đọc Balzac và Stendhal để chuẩn bị thành văn hào bất hủ, thì một Teilhard cũng nhờ Boule trao cho chiếc chìa khóa vào lâu đài của các vĩ nhân. Trong mấy năm, Teilhard nghiên cứu các hóa thạch tiếp tay với thầy. Ông nghiên cứu tới đâu là biên soạn tới đó. Thực ngôi sao chiếu mạng của Teilhard rực rỡ quá. Sách của thư viện tại Muséum là sách hàng núi. Cạnh bên có minh sư. Trước mặt là vô số tài liệu để phân tích, tổng hợp. Thỉnh thoảng tháp tùng phái đoàn khai quật mỏ nầy hầm nọ. Được nung nấu trong lò cứ như vậy, bộ óc của Teilhard vốn thông minh đã đến mức trưởng thành vững chắc. Năm 1919, sau khi giải ngũ, ông được thầy giao cho trách nhiệm đ