← Quay lại trang sách

CÂY CẦU

Cây cầu đang trong giai đoạn thi công thì sập.

Khi sự kiện bi thảm ấy xảy ra cô đã không được tận mắt nhìn thấy.

Các báo cáo ban đầu cho biết có khoảng 20 thi thể công nhân được tìm thấy tại hiện trường. Nhưng con số các nạn nhân do các nguồn tin đưa ra đều không thống nhất bởi số lượng thương vong ngày càng tăng, chúng dao động ở mức từ 37 đến hơn 60 người thiệt mạng, từ 97 đến hơn 200 người bị thương. Hầu hết nạn nhân là công nhân địa phương làm việc tại công trình, các kỹ sư và cả người dân buôn bán quanh đó. Ngay sau khi xảy ra tai nạn, nhiều công nhân đang thi công ở gần đấy đã xông vào đống đổ nát để dìu những người bị thương ra ngoài. Nhiều người tình nguyện xếp hàng tham gia hiến máu nhân đạo. Những người lái đò ngang dùng đò của mình để đưa những người bị thương đến bệnh viện.

Trong lúc công tác cứu hộ đang tiến hành khẩn trương, một ủy ban điều tra tai nạn cấp quốc gia được thành lập tức thì.

Tuy nhiên, trước khi có kết luận chính thức về trách nhiệm của các bên trong vụ việc này, người ta thấy đã có nhiều ý kiến qua lại giữa Hội đồng nghiệm thu nhà nước, Chủ đầu tư, Tư vấn giám sát và nhà thầu chính. Thậm chí đã có dư luận đổ hết lỗi cho trời mưa làm cho đất bị mềm và có hiện tượng sụt lún đất do gần bờ sông. Trái với thông lệ trước đây, lần này, có vẻ như vấn đề đã được đem ra mổ xẻ một cách công khai trên báo chí.

Tất cả những điều đó, thật ra, anh biết cô chỉ biết về sau này khi cô tình cờ xem bản tin cuối ngày trên truyền hình. Rồi ngay sau đó có lẽ chưa bằng lòng với mẩu tin quá ngắn gọn ấy, cô đã sục sạo trên internet tìm đọc gần hết các bản tin, các bài tường thuật khác có liên quan và vào cả trang Google để lấy thông tin về những vụ sập cầu trong quá khứ ở các nước nhiệt đới. Còn ngay vào thời điểm xảy ra thảm họa, cô và anh đang ở một nơi khác, xa nửa vòng trái đất, trong một thành phố cổ kính.

Tháng Chín, trời cao và trong và mát như một miếng thạch. Hai hàng cây bên đường xao xác gió. Những chiếc lá trên cành sẽ chuyển sang màu vàng rồi màu đỏ rồi rụng từ tháng Mười trở đi. Nhưng vào lúc này, dưới ánh nắng dịu ngọt, chúng đang phô bày một màu xanh mịn màng gợi cảm nhất.

Họ đứng trên một cây cầu gỗ đã được trùng tu lại, đoạn gần nhà thờ của một dòng tu nữ. Thật xa, phía sau lưng họ, là đường cao tốc. Những bãi đất hoang. Những chiếc xe nối đuôi nhau chạy im lìm. Con sông dưới chân họ đến đoạn này thì mở rộng ra sau khi đã phải tự thu nhỏ mình lại cho thật gọn đến mức có thể để luồn lách, uốn éo rất lâu qua những dãy nhà ngói nâu xanh bóng rêu. Một chiếc ca nô chở khách du lịch chạy ngang, nước bị rẽ bắn bọt tung tóe ra hai bên mạn. Một đứa bé gái ngồi trên ca nô vẫy vẫy tay chào họ, một vài người giơ máy ảnh chụp nhà thờ, công viên đầy ắp màu vàng, đỏ, tím và hàng cây liễu. Anh nói cảnh tượng đẹp y như được phóng to ra từ một tấm bưu thiếp. Cô không đồng ý, phải ví nó là thành phố Venice thu nhỏ thì mới chính xác.

Cô rứt những mẩu nho nhỏ từ chiếc bánh mì ăn dở, vo viên trong tay rồi ném cho bầy vịt háu ăn đang chầu chực bên dưới. Những con vịt này là một phần không thể thiếu của quang cảnh. Chúng đã quá quen thuộc với sự có mặt nhốn nháo của khách thập phương, đôi khi người ta còn bắt gặp chúng chạy lúp xúp theo sau để xin ăn, dạn dĩ như thú nuôi trong nhà. Cô nói với anh cô thích những con vịt cổ xanh hơn. Trên mặt nước mùa thu bàng bạc, chúng có một nét duyên ngầm quyến rũ. Ao của ông nội cô hồi đó cũng có một bầy vịt cổ xanh như vậy. Sáng sáng cô lẽo đẽo theo ông ra vườn, sung sướng nhất là mỗi khi cô được ông chỉ cho nhặt những quả trứng vịt đẻ trong bụi rậm. Cô hết mân mê quả trứng trong tay rồi lại đưa lên mũi ngửi, nghe tim đập hồi hộp; cô vừa thích thú vừa cảm thấy sờ sợ; cô biết là qua lớp vỏ mỏng manh đó, cô đang giữ trong tay mình một mầm sống bé bỏng và dễ vỡ. Cho đến tận bây giờ, ông nội cô không còn nữa nhưng những quả trứng ngày ấy vẫn còn ở đâu đó trong một góc của trái tim cô. Chúng chưa kịp nở.

Anh rủ cô đi dạo bên dưới hàng cây liễu. Hôm ấy, họ thất vọng vì không tìm thấy một quả trứng nào trong những đám cỏ dại bên bờ sông. Đến một đoạn hàng rào thấp bằng gỗ trước lối vào tu viện, họ nhờ một người đàn ông chụp cho họ tấm ảnh đứng bên cạnh một đôi ngỗng trắng. Ông ta cẩn thận bấm những hai lần. Lần bấm sau đã cho ra một tấm ảnh khá nét. Trong tấm ảnh đó họ thấy đằng sau lưng một trong hai con ngỗng trong tư thế như định bỏ chạy. "Tại sao chỉ có một con bỏ chạy vậy?" cô hỏi. Anh nghĩ đó là con nhạy cảm và thông minh nhất trong hai con, nó bỏ chạy khi cảm thấy bị đe dọa và trong nhiều trường hợp thay vì bỏ chạy, nó có thể tấn công người ta để tự vệ.

Anh kể cho cô nghe một câu chuyện cổ của Nhật Bản. Chuyện về một chàng trai nghèo sống bằng nghề hầm than trong núi đã có lần cứu thoát một con hạc bị sập bẫy săn bằng cách trả cho gã thợ săn một số tiền ít ỏi, mà chàng đã dành dụm từ lâu với ý định mua một cái đệm để nằm trong mùa đông giá rét. Chàng trai không hề biết rằng con hạc được phóng thích đó chính là một nàng tiên. Để tạ ơn cứu mạng, nàng tiên đã kết nghĩa vợ chồng với chàng trai. Họ đã sống bên nhau thật hạnh phúc. Cuộc đời của người thợ hầm than từ đó cũng hoàn toàn đổi khác, đẹp như một giấc mơ. Có lửa ấm, có thức ăn ngon, mọi thứ trong nhà đều tươm tất, sạch sẽ. Trong một lần dọn dẹp, người vợ trẻ tình cờ nhìn thấy một khung cửi đóng bụi. Nàng hỏi xin chồng sử dụng và căn dặn trong lúc nàng dệt, không một ai được nhìn. Sau đó, nàng mang khung cửi vào gian phòng sau nhà rồi đóng kín cửa. Ngày qua ngày, tiếng dệt cửi cứ vang lên đều đặn. Chàng trai mang thức ăn đến cho vợ, đặt trước cửa và kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng tuyệt nhiên thức ăn không hề được đụng đến một chút nào. Chàng càng lúc càng lo lắng. Nhiều lần đã toan mở cửa bước vào, nhưng nhớ lại lời vợ dặn, chàng bèn từ bỏ ý định. Cuối cùng đến ngày thứ tư, nàng mới từ trong phòng bước ra, trông nàng lúc này có vẻ như gầy yếu đi và chiếc cổ của nàng thì dài ra một cách khác thường. Chàng trai lo lắng cho sức khỏe của vợ nhưng nàng trấn an chồng, nói chàng lấy chiếc áo mà nàng vừa dệt xong mang ngay ra chợ bán, chắc chắn sẽ được giá rất cao. Quả nhiên, khi vừa trông thấy chiếc áo, người ta bèn trả ngay cho chàng 100 đồng vàng và dặn dò lần sau nếu có sẽ mua với giá gấp đôi. Cầm mớ tài sản kếch xù trong tay trở về, chàng trai hí hửng kể cho vợ, rồi trong lúc cao hứng chàng nói về ước mơ của mình, về hạnh phúc gia đình, về sự thanh nhàn, về một mái nhà khang trang với đàn con xinh đẹp. Chỉ cần có thêm 200 đồng vàng nữa, giấc mơ ấy sẽ trở thành hiện thực. Người vợ trẻ ngồi nghe lặng lẽ. Nàng nói nàng chỉ có thể dệt thêm một lần nữa mà thôi và cũng như lần trước, chàng không được nhìn vào trong lúc nàng đang dệt. Tiếng khung cửi lại vọng ra từ sau cánh cửa. Chàng trai không hề biết rằng những âm thanh ấy đã yếu đi rất nhiều so với trước. Chàng ngồi bên ánh lửa, uống rượu sake, chờ đợi. Hết ngày thứ tư mà tiếng dệt cửi vẫn không ngớt. "Sao lại thế nhỉ?" Chàng đứng lên, len lén ngó vào bên trong. "Ồ!" chàng kêu lên kinh ngạc. Trước mắt chàng bây giờ không phải là người vợ trẻ xinh đẹp mà là một con hạc đang gò lưng trên khung cửi. Nó tự rứt lông trên người để dệt. "Áo thiếp đã dệt xong. Chàng hãy cầm lấy và mang ra chợ bán. Đôi ta không thể sống chung với nhau được nữa vì chàng đã nhìn thấy tất cả. Chàng còn nhớ không, thiếp chính là con hạc ngày xưa chàng đã ra tay giải thoát." Nói xong, con hạc dang đôi cánh đã trụi hết lông bay vút lên bầu trời xanh thẳm mặc cho chàng trai khóc than và cất tiếng gọi vô vọng.

Anh dừng ngang ở đó. Như thể chỉ chờ có vậy, cô hỏi chen vô: "Anh không thấy vô lý sao?"

"Vô lý chỗ nào?"

"Một con chim tự nhổ hết lông của mình thì làm sao có thể cất cánh bay đi được?"

***

Ban đầu cô được giao trông coi thư viện cùng với Pamela, một cô gái Philippines làm việc bán thời gian. Pamela, 28 tuổi, tốt nghiệp một trường mỹ thuật, trước khi vào làm cho trường đã có một thời gian đi giữ trẻ và sau đó, dạy vẽ cho những đứa trẻ thiểu năng. Ngoài vẽ, Pamela còn có thể chơi một vài ngón đàn guitare. Tuần hai buổi chiều cô và Pamela có nhiệm vụ hướng dẫn cho bọn trẻ con các lớp chọn sách đọc, kể chuyện, vẽ hoặc bày những trò chơi.

Chơi với trẻ con ở lứa tuổi sáu, bảy là một công việc mất khá nhiều năng lượng và không dễ dàng một chút nào. Năm ngoái cả cô và Pamela phải điên đầu với một thằng nhóc ở lớp Hai. Nó không bao giờ có thể ngồi yên, trong lớp nó làm đủ thứ trò mà trí tưởng tượng của nó cho phép để gây sự chú ý và quấy rối những đứa trẻ khác. Tuy nhiên, nếu chỉ có vậy thì với cô, đó không phải là một thử thách gì ghê gớm lắm. Rắc rối ở chỗ cha mẹ thằng bé tin con của họ là một thần đồng, họ cho rằng những biểu hiện khác thường đó của nó chính là dấu hiệu của một đứa trẻ có năng khiếu đặc biệt. Sau khi cô đề nghị nó cần sự trợ giúp của một chuyên gia tâm lý, nếu muốn tiếp tục học, họ bèn đi gặp Ban Giám hiệu và làm lớn chuyện. Họ nói con họ bị ngược đãi và không được tôn trọng như những đứa trẻ khác. Họ mang theo những bức tranh thằng nhỏ vẽ ở nhà và những đoạn văn ngắn vài câu của nó, tất cả được cất giữ cẩn thận trong một cuốn album. Công nhận tranh vẽ đẹp, những đoạn văn chứa những ý tưởng thông minh thú vị, tuồng chữ thẳng thớm sạch sẽ. Ban Giám hiệu triệu tập các giáo viên đã từng có thời gian dạy thằng bé lại, họ chia sẻ ý kiến với cô, nói trong lớp nó chưa vẽ được cái gì ra cái gì, còn viết thì nhăng nhít, tư duy không mạch lạc. Trong lúc vấn đề có vẻ bị bế tắc thì bất thình lình cha mẹ thằng bé đổi ý, họ quyết định chuyển trường cho nó. Không biết số phận của thằng nhóc đó bây giờ như thế nào.

Sau vụ này, có lần Pamela nói, "Tao sẽ đặt tên con tao là Leonardo."

Nó bị ấn tượng bởi gương mặt baby của nam tài tử cùng tên chăng? "Nghe hay đấy. Thế nếu là con gái?" cô hỏi.

Cô biết Pamela đang cặp với một anh chàng nguyên là giáo viên dạy môn bóng rổ một trường trung học, bây giờ thất nghiệp. Gã cao 1,82 mét, râu quai nón, đẹp như người mẫu. Họ thuê chung một căn phòng nhỏ trước là kho chứa dụng cụ của một xưởng sửa xe. Nệm trải ra sàn xi măng thay giường ngủ, vòi tắm hoa sen, một góc nhỏ tự ngăn lại làm chỗ nấu nướng có bồn rửa bát, một cái bàn với ba chiếc ghế nhựa và vài cái va ly. Trong lúc Pamela ở trường, gã tình nhân còn ngủ vùi. Thức giấc thì gã sục sạo trong tủ lạnh những gì có thể ăn được rồi sau đó lại nằm ườn ra xem truyện tranh và nốc Bell’s cho hết ngày. Pamela muốn có một đứa con nhưng gã từ chối thẳng thừng; trong ánh mắt của gã, Pamela chẳng khác gì một kẻ bị mất trí.

Một bữa Pamela đến lớp, hai mắt đỏ sưng húp. Nó nói là bắt gặp quả tang gã mang một con nhỏ bạn của nó về nhà ngủ. Khóc lóc, chửi rủa rồi đổ vỡ. Hôm sau, Pamela cười toe toét khoe cuối cùng tao cũng được tự do như mày rồi, tao tha hồ đi bát phố, uống rượu với mày, cuối tuần tao muốn làm gì thì làm, không phải lệ thuộc vào ý muốn của thằng nào hết.

Xét theo một nghĩa nào đó, Pamela có lý khi so sánh như vậy. Cha mẹ, anh chị em của cô đều đã bỏ mạng trên đường đi đến giấc mơ Mỹ. Còn cô thì lưu lạc đến mảnh đất này, chẳng còn ai, chẳng có gì để ràng buộc trên cả hai phương diện tinh thần và vật chất. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, đây lại chính là một vết thương nhức nhối trong trái tim của cô, nó hoàn toàn không giống với việc Pamela chia tay với nhân tình. Nhưng, nói cho cùng, làm sao nó có thể hiểu được điều đó?

Đầu năm học, trường thiếu giáo viên, cô được giao cho đứng một lớp. Chỉ còn một mình Pamela trông coi thư viện. Nó có bồ mới, nghe nói là một gã sinh viên khoa kịch nghệ, một cuộc phiêu lưu tình cảm mới của nó lại bắt đầu. Cô dọn về ở chung với Kristie vừa để tiết kiệm vừa cho có bạn. Một căn hộ hai phòng ngủ thuê lại của một cặp vợ chồng người Hàn Quốc, nhìn xuống bãi xe, xa hơn nữa về phía khu đô thị mới là tháp chuông nhà thờ và thấp thoáng một phần của hồ nước. Rất tiếc là không có một cái ban công để cô có thể bước ra ngoài hóng gió và tự do phóng tầm mắt. Bù lại, ở đó mỗi ngày chuông đổ hai lần, vào lúc 12 giờ trưa và chiều vào lúc 6 giờ khi cô chuẩn bị về nhà trong lúc Kristie vẫn còn đánh vật với những giấy tờ trong văn phòng. Có ngày không hiểu sao, chuông nhà thờ không đổ, cô thấy nhơ nhớ như một con nghiện.

Sau một thời gian, cô mới nhận ra điều phiền phức nhất khi chia sẻ căn hộ này với Kristie là thỉnh thoảng cô bị buộc phải chứng kiến Kristie dẫn bạn trai về nhà. Tụi nó bày ra đủ trò, ăn uống, giỡn hớt, xem phim rồi rúc vào trong phòng với nhau. Một, hai lần đầu cô cũng góp mặt với tụi nó, cũng nấu nướng ăn uống và tán gẫu với tụi nó, sau đó tự động lẳng lặng rút lui vào trong phòng. Cô ngạc nhiên thấy mình không thể tập trung được vào bất cứ việc gì lúc ấy, ngược lại, cô thấy tâm trí như đang bị những tiếng động của căn phòng bên ngoài dẫn dắt làm cho rối rắm. Trên bậu cửa sổ, những cánh hoa hồng bạch đã tàn, cành lá úa héo; cô chợt nhận ra mùa khô đang kéo dài một cách bất thường, có lẽ cô sẽ phải che thêm màn quanh phòng để ngăn bớt cái nóng và đặt một cái máy tạo độ ẩm. Đột nhiên cô đâm ra bực mình với Kristie và với chính mình. Cô ghét cái mặt của gã bạn trai của nó, nhất là cái cách gã nhìn hau háu như muốn lột trần truồng cô mỗi khi cô đi lại trước mặt. Có lần ba người ngồi chung bàn với nhau, bàn chân gã dưới gầm bàn thỉnh thoảng cứ như vô tình chạm phải vào chân cô, một cảm giác nóng và ẩm ướt khiến cô rùng mình muốn ói, y hệt như trên tàu điện ngồi vào phải chiếc ghế của một người vừa đứng lên, cô chỉ có mỗi cảm giác ghê tởm.

Cô tập yoga và học phương pháp thanh tẩy tâm hồn.

"Nè mày, tụi tao mê mấy món ăn mày làm lắm nghe. Bữa nào mày chỉ tao làm vài món của xứ mày đi." Kristie nói bằng một cái giọng ồm ồm.

Chả giò, gỏi, gỏi cuốn, chè... Kristie nói rằng thức ăn cô làm có nhiều màu sắc, ít thịt, rất thích hợp với những người ăn kiêng như nó. Nhưng vấn đề là cô không chắc mình làm như thế có đúng hay chưa, cô chỉ tự mày mò học, chứ có ai chỉ dạy cho cô đâu. Khi còn mẹ thì cô quá nhỏ, cô chưa kịp học được gì từ bà. Vì vậy mà bây giờ mỗi lần chế biến những món ăn đó là mỗi lần cô phải vận dụng đến một chút trí tưởng tượng, rất nhiều cảm xúc và tất cả những kỷ niệm thuộc về một thời thơ ấu xa xăm đã bị vùi lấp tận đáy sâu ký ức.

Kristie nằng nặc đòi học cho bằng được, thậm chí còn gợi ý cho cô làm thức ăn bỏ mối cho các quán ăn trong khu phố nữa, một công việc mà theo nó, sẽ mang lại khối tiền.

Đó cũng chính là lúc cô bắt đầu ôm ấp kế hoạch trở về thăm nơi chôn nhau cắt rốn.

***

Cô đã không trở về như dự định.

Mà thay vào đó, trong những ngày này, đột nhiên cô nói nhiều đến đời sống ở một hành tinh khác và ấp ủ cho một chuyến đi.

Rồi một ngày, cô bỗng biến mất.

Bất thình lình. Không tung tích. Như một sợi khói bay lên cao và tan loãng vào trong hư không.

Kristie nói với anh không hề bất ngờ về chuyện này. Nhất là từ khi thấy cô hay đi lại với cái mà, Kristie khẳng định một cách chắc nịch, phải là một hội kín hay giáo phái gì đó. "Ban đầu tớ nghĩ đơn giản chẳng qua đó chỉ là sự lệch lạc nhất thời trong nhận thức và hành vi mà thôi. Khá nhiều người đã có cùng một sự lựa chọn như nó một khi họ chán ngán đời sống hiện thời và tin chắc rằng thực sự có một đời sống khác đáng sống hơn ở một nơi nào đó bên ngoài thế giới."

Kristie với anh hẹn gặp nhau ở quán cà phê này. Trời nắng đẹp, họ không vào trong quán mà ngồi ở bên ngoài để ngắm nghía người qua lại. Đường phố vẫn chưa hết vắng vẻ. Thỉnh thoảng, những con chim bồ câu bay sà xuống đất từng đàn kiếm ăn bận rộn và những chiếc xe chạy ngang qua chậm chạp.

"Có phải là Hội Nhân Chứng Jehovah không? Mà chuyện đó thì có gì liên quan?" anh hỏi.

Gần nửa năm nay, anh biết, cô dành khá nhiều thời gian cho những sinh hoạt thuộc về tâm linh. Đầu tiên là anh thấy cô từ bỏ một vài thói quen ăn uống trước đây như không uống những thứ có chất cồn, không ăn thịt cá. Anh nghe cô nói thao thao về lợi ích của ăn chay và uống nước lọc đối với việc bảo vệ thú vật, môi trường, cũng như giá trị của nó trong việc kéo dài sự tươi trẻ của cơ thể và tạo dựng một trí tuệ minh mẫn. OK, anh cũng quan niệm đó là một lối sống có hiểu biết và trách nhiệm trong một thế giới quá nhiều ô nhiễm, dịch bệnh và xung đột hiện nay. Nhưng có lẽ vấn đề không đơn giản chỉ là một sự thay đổi hình thức sinh hoạt bề ngoài, hơn thế nữa, nó còn là một thứ triết lý sống đang được cô tin tưởng một cách tuyệt đối. Thì đã sao? Vả lại, đó là quyền tự do cá nhân của mỗi người, phải không nào?

"Không phải," Kristie nói.

Hội Nhân Chứng Jehovah mấy lần gõ cửa tìm cô để thuyết phục cô vào hội nhưng lần nào cũng đều bị cô đuổi khéo.

"Cậu có biết con nhỏ Laura không?".

"Không biết mặt nhưng có nghe nói đến tên."

Quả thật, anh đã từng nghe cô nhắc đến tên con người này một đôi lần trong những câu chuyện trước đây. Đó là một cô gái từng có thời kỳ tu tập trên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn với một vị đạo sư Tây Tạng, cô ta được mô tả là có một vài năng lực huyền bí, có thể giao tiếp với thế giới của người chết, nói chuyện với họ và truyền đạt lại thông điệp của họ cho người sống. Có lần cô kể, bằng một giọng trầm buồn, nhờ Laura mà lần đầu tiên cô đã tiếp xúc được với linh hồn của cha mẹ và anh chị em. Cô gái ấy đã tả đúng hình dáng của họ, cha cô có hai chiếc răng bọc vàng hàm trên, mẹ tóc bới cao, gương mặt tròn với một vết nám bên má, "Đó chẳng phải là bằng chứng rành rành là gì? Thử nghĩ xem, làm sao cô ta biết mặt của họ mà tả đúng y hệt như thế chứ?". Theo lời Laura, cha mẹ và anh chị em cô ở trong một gian phòng tối ám, không có cửa và cửa sổ, giống như một buồng giam, nét mặt của họ buồn bã và tuyệt vọng tột độ.

Đầu óc duy lý của anh không thể nào dung nạp những chuyện ma thuật, hoang đường nhảm nhí ấy, anh nghe qua rồi bỏ ngoài tai.

Kristie thì tin rằng cô gái có phép phù thủy ấy chính là đầu dây mối nhợ mọi chuyện. Qua sự dẫn dắt của con người này, cô đã tìm cách để liên lạc với thế giới bên ngoài trái đất, cả ngày cô ngồi thừ trước màn hình internet để thu thập thông tin về các vật thể bay không xác định trong không gian, tìm kiếm các trang web của người ngoài hành tinh để gởi tin nhắn cho họ. Những ngày trước khi biến mất, cô nói bóng gió với Kristie về một ngày tận thế đang đến gần; sẽ có động đất, tsunami và dịch bệnh xảy ra trên toàn thế giới; các nước ở bên bờ đại dương sẽ bị nhấn chìm tận dưới đáy biển sâu; nhân loại sẽ không còn chốn nương thân và tự hủy hoại dần trong đói khát, bệnh tật và thù hận.

Kristie lôi trong túi xách ra một tờ giấy trắng gấp làm đôi đưa cho anh, "Đây cậu xem, tớ thấy cái này trên bàn làm việc của nó."

Đó là một bức tranh vẽ những hình thù kỳ dị bằng bút màu sáp. Anh chăm chú nhìn thật kỹ từng chi tiết, từng nét vẽ để phân tích chúng, anh biết rằng đây chính là thông điệp cuối cùng mà cô cố ý để lại, nếu kiên nhẫn may ra anh có thể giải được mã và hiểu được những gì cô muốn nhắn gởi với những người còn ở lại.

Rồi hoàn toàn bất ngờ, anh nhìn thấy trong mớ rối rắm ấy một hình vẽ với dáng vẻ thon thả quen thuộc mà anh nghĩ ắt phải là một con chim. Một con hạc. Không sai, đích thị là một con hạc. Nó đang xòe cánh bay vút lên trên một cái nền lăn tăn màu xanh, có thể là biển hay bầu trời, anh nghĩ.

Anh bất chợt nhớ lại câu chuyện cổ của Nhật Bản mà có lần anh đã kể cho cô nghe. Toàn thân anh rúng động như bị điện giật.

Anh hít một hơi đầy lồng ngực rồi ngước lên nhìn trời, giả vờ tư lự để che giấu sự xúc động mãnh liệt đang tràn ngập trong lòng. Bên tai anh như vẫn đang văng vẳng câu hỏi của cô, "Một con chim tự nhổ hết lông của mình thì làm sao có thể cất cánh bay đi được?"