Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào
Mỗi ô ảnh là một thằng ăn cướp Hoa Kỳ, nếu không quan năm đại tá thì cũng là quan ba – mà những người chiến thắng Mỹ là chúng ta càng phải nhớ rằng: đại tá phi công Hoa Kỳ là ngang cấp bậc một thiếu tướng quân bộ viễn chinh Hoa Kỳ. Và như thế là ta bắt sống đến cả tướng giặc phi công nó kia đấy nhé! Phi công Mỹ nào ta tóm được, cũng đều có đi đạo cả, tức là đứng về nguyên tắc và lý thuyết mà nói, thì chúng đều là người phải kính sợ đức Chúa Giời, tôn trọng cuộc sống do sự sáng chế của Chúa. Trong túi thằng giặc bay nào ta tóm được cũng có một bản cầu kinh vẽ hai tay cầu Chúa. Hai bàn tay vẽ thì cầu kinh vẽ hai bàn tay thật của mỗi thằng thì toàn là để cắt bom phá, bom bi, tên lửa và chúng giết người Việt Nam gồm cả những người Việt Nam cùng thờ chung một đức Chúa với lũ chúng. Nó lại giết người cả vào chủ nhật là ngày Chúa bảo con người ta phải nghỉ cái bàn tay, dù bàn tay ấy đang hàng ngày làm việc gì. Vậy là ngày chúa nhật 19-11-67 đó, cả miền Bắc hạ 17 máy bay Mỹ. Và riêng Hà Nội bắn rơi những 12 chiếc. Đây là một vẻ đẹp tân thời của người Hà Nội, của trời Hà Nội, của đất Hà Nội, của nước hồ Hà Nội. Trong bảng lập công của các thành các tỉnh miền Bắc diệt diều hâu Mỹ mới đó Hà Nội còn bị xếp loại thứ mười sáu, thì nay đã được cả nước nâng lên hàng thứ tư. Mỹ càng leo thang vào Hà Nội thì Hà Nội càng thăng cấp, và các tỉnh gửi điện mừng thủ đô chiến thắng là … “Hà Nội đại diện cho cả nước mà diệt giặc…”. Lần này Hà Nội không cần giải tù qua phố thủ đô như năm ngoái nữa, mà Hà Nội cho đăng luôn ảnh bọn phi công Hoa Kỳ vừa tóm được. Tít bài chạy suốt chiều ngang bảy tám cột trang đầu báo và ảnh cỡ 4 x 6 nối liền mấy chục ảnh căn cước, trông đúng là một lũ tù dây. Ưng, Khuyển, Phệ Hoa Kỳ một dây hiện hình. Cái trận đánh của Hà Nội đạt con số trên 200 chiếc được nêu ngay ở quanh hồ Gươm, thượng ngay biển báo công ở các gốc sấu, biển nền đỏ tươi và con số “200” kẻ trắng đậm nét, thấy nó quý như một loại thượng hạng “Thăng Long” mới nhất – chất khói đậm đà gợi đến hương vị thâm thuý nhất của đất nước. Cho tới lúc tôi viết đây, riêng thủ đô Hà Nội ta đã làm gọn của nó 229 chiếc. Và riêng năm 1967, Hà Nội đứng đầu các tỉnh thành dũng sĩ diệt Mỹ phản lực trên toàn miền Bắc.
Tôi gặp thằng (quan tư) Mích Kên tại một nhà thương, tôi không muốn dùng chữ bệnh viện. Đẩy cửa kính, giữa buồng bệnh trắng lốp lặng tờ, mà cảm thấy như sắc của sự im lặng phải là một thứ màu gì trăng trắng. Trên giường sắt sơn trắng, trên đệm trắng của nhà thương, thẳng cẳng nằm dài một người cứng đờ cánh tay. Cánh tay phải giơ lên kia cũng trắng bệch, cứ giơ mãi như thế để tan loãng vào cái trắng nhờ của buồng bệnh thắp đèn hơi thủy ngân bóng hình ống. Giữa cái thế giới bệnh bạch lôm lốp ấy, lờ đờ một đôi mắt nhiều lòng trắng và rậm lông mày. Với một bộ râu xồm đen kịt. Không phải, thằng Mích Kên ta bắt sống trên hồ Trúc Bạch, làm gì có râu, mặt nó lên ảnh căn cước ở báo ngày hôm sau trông nhẵn thín kia mà. Mặc dầu mình không phải là chuyên viên đi hỏi cung tù Mỹ, nhưng để cho khỏi ngờ ngợ nữa, tôi đã dùng lại câu cổ lệ mở đầu của sự lấy khẩu cung:
- Tên?
- Giôn Xi Ni Mích Kên, thiếu tá (cái đám này, nghiệm ra, nói chung, càng bị cầm tù càng thích xưng cấp mỗi khi xưng danh, xưng mãi cho tới lúc nào nó thấy mỏi miệng nó và nhàm tai những người giam nó thì nó mới hết đụng đến cấp bực nó). Tôi được đẻ ra trên tàu ngầm, nhưng nhận Pa Na Ma là quê vì bố tôi chỉ huy tàu ngầm đóng ở căn cứ Pa Na Ma.
Vậy là đúng mày rồi. Mích Kên cũng không to lắm, không cao lắm, nhưng vẫn đủ để ấn tên lửa và cắt bom. Tôi chưa biết nên bắt đầu hỏi nó bằng câu gì, tôi đi đi lại lại quanh đầu giường sắt nó, mắt bỗng hạ vào cái bảng bệnh án Mích Kên treo ở đầu giường ghi mạch nó có ngày từ 80 đến 120, nhiệt độ nó có ngày từ 37 lên 38. Bác sĩ đã dặn khẽ tôi là thằng quan tư Kên này còn mệt, cần cho nó an dưỡng, nên bớt cho nó những câu hỏi hóc búa, chưa nên cho nó phải động não suy nghĩ nhiều. Thế này là chệch mất kế hoạch của tôi định hỏi chuyện thằng Kên rồi. Bởi vì trong chuyến gặp này, tôi đinh ninh rằng thế nào tôi cũng phải quăng được vào giữa mặt thằng giặc bay kia một cái sự thực này: “Cả lò nhà mày, cả họ nhà mày, đúng là một bọn ăn cướp nhà nghề. Mặt bọn kẻ cướp biển chuyên nghề. Ông nội mày đã từng làm đô đốc ở Thái Bình Dương. Bố mày hiện giờ là đô đốc ở Đại Tây Dương. Còn nhà ngươi thì làm thiếu tá phi công hải quân của hạm đội VII. Gia phả nhà anh thật không còn nghi ngờ gì, quả là cái truyền thống đi ăn cướp biển đã ba đời”. Tôn trọng lời dặn của bác sĩ, tôi đành tạm cất đi mấy câu đó. Lại phải tìm một câu khác một cách khác để vào chuyện với thằng quan tư Kên phạm tội ác đánh phá nhà máy nhiệt điện Hà Nội trưa ngày 26 tháng mười 1967. Ồ, mẹ thằng thiếu tá Mích Kên này giàu lắm, có cơ man nào là cổ phần công ty than đốt. Còn bố nó đô đốc loại tướng giặc biển đeo những bốn sao đang chỉ huy hạm đội VI. (Xin nói thêm là đô đốc Hoa Kỳ to nhất cũng chỉ đeo tới năm sao, và tên đô đốc Hoa Kỳ chỉ huy hạm đội VII đậu ở vịnh Bắc bộ thì chỉ có ba sao thôi).
Hôm thằng tư Kên bị tên đạn thủ đô Hà Nội hạ xuống thì thằng đô đốc bố nó đang ở thủ đô Luân Đôn nước Anh. Thằng tư Kên là con một của đô đốc. Theo đài Hoa Kỳ thì thằng đô đốc bố được biết tin ngay, và vẫn theo lời của đài Hoa Kỳ thì “đô đốc không bình luận gì về tin con bị mất tích ở Bắc Việt”. Và theo một nguồn tin khác, thì đô đốc bốn sao có đánh điện cho đô đốc hạm đội VII ba sao hỏi thêm chi tiết cụ thể về việc điều động con y vào tọa độ lửa Hà Nội. Liền sau đó thì đô đốc bố rời Luân Đôn đi luôn Hoa Thịnh Đốn. Chả hiểu người đô đốc bố này đã thúc giục Giôn Xơn xúc tiến việc xin trao đổi tù binh Hoa Kỳ tại chiến trường Việt Nam ra sao nhưng nhân tiện đây, tôi cũng xin gợi thêm một ý này. Là theo tục lệ cổ xưa thời cũ của Việt Nam người bố ruột có thể xin ở tù hoặc chết chém thay cho con đẻ được; nếu thấy cần giữ cho dòng họ mình khỏi tuyệt tự. Về thằng con là thiếu tá tội phạm Mích Kên, thì sự sống chết hiện giờ của nó trên đất Bắc Việt Nam này là do thái độ nó: nếu nó nhận được cho rõ vấn đề Hoa Kỳ đích thị đã xâm lược Việt Nam, thì cuộc sống quyết liệt nhưng cũng rất rộng lượng ở Việt Nam vẫn không hẹp gì mà không mở một cửa sinh cho thằng quan tư chết hụt đó. Nhưng mà tôi muốn nhắn người đô đốc bố rằng ông hãy nên nghĩ tới ông nhiều hơn là nghĩ tới con ông mà, lúc nó được lệnh sang chiến trường Việt Nam, ông đã ân cần dặn nó; “Sang đánh Việt Nam phải cẩn thận đó”. Tôi nghĩ rằng ông dễ có thể vì tật bệnh vì tai nạn cháy tàu mặt biển, hoặc vì hầm đạn chập dây điện nổ mà chết không kịp nhìn lại cái mặt đứa con một bị cầm tù ở Việt Nam. Đã có nhiều sự bất đắc kỳ tử xảy ra gần đây cho các hạm đội Hoa Kỳ. Ai dám bảo là ông không chết trước thằng con một lái máy bay của ông. Thật là một điều khá tội nghiệp cho một người đô đốc bố, khi mà trên cái kỳ hạm đô đốc kéo cờ đám ma to lại treo thêm mũ rơm gậy tre thằng con bất hiếu là Mích Kên đang nằm ườn ra trên giường trắng kia kìa!
- “Xin ông một điếu thuốc lá”.
Mích Kên nhìn tôi chằm chằm, sau khi nói tiếng Pháp như thế.
- “Vâng, thưa ông tôi có sang châu Âu nhiều lần, và có ở Pháp liền năm năm, mỗi năm ở Pháp sáu tháng”.
Nó nói thong thả, tay trái ôm chặt lấy bụng dưới, tay phải gãy xương bó bột pờ-lát giơ thẳng lên trần giời như bất cứ phi công nào lại hàng trước mũi súng trường của tự vệ phố, tự vệ làng ta.
Tôi cắm một điếu thuốc Điện Biên vào mồm thằng giặc. Nó cám ơn. Tôi bật diêm châm vào mặt nó, nó nghển nghển đầu xin cám ơn. Tôi đặt cái gạt tàn thuốc lá lên ngực nó đầy lông rậm dày như cái ức một con thú dữ nào. Nó rít khói thuốc, cái tàn trắng dài ra gần một đốt tay mà chưa chịu gạt tàn. Ngoài cửa phòng bệnh đã khép hờ, mặc dù không nghe thấy tiếng ai nào đi lại, nhưng tôi ngờ là có thể vẫn có bác sĩ quân y ngoài hành lang. Và bác sĩ có thể sẽ vào phòng rất kịp thời, nếu tôi bắt đầu hỏi nó những câu mà bác sĩ đã dặn là nên tránh. “Lúc này không nên làm tăng mạch máu nó, và tăng nhiệt độ nó”. Thưa bác sĩ, tôi vẫn nhớ, tôi chưa dồn nó tí nào cả. Tôi chỉ đang ngồi im mà nhìn thằng quan tư Kên hút điếu thuốc và đẩy khói ra hai lỗ mũi. Bất giác lại nhớ tới câu ba lơn chán chường của bọn phi công Hoa Kỳ tại câu lạc bộ căn cứ Tắc Li hoặc Khò Rạt bên Thái Lan cả nước ngày nay đã biến thành cái hàng không mẫu hạm cạn của Mỹ. Mỗi lần bay đi rồi thoát chết mà trở về được “hàng không mẫu hạm Thái Lan”, chúng thường đùa mà không cười với nhau rằng: “Đời bay thuê của chúng ta có hai cách chết một là chết nhanh, hai là chết chậm. Đánh vào Hà Nội cũng dễ chết, mà nghiện thuốc lá thì dễ bị ung thư mà chết. Nhưng chết vì khói thuốc lá lâu dài có lẽ thích hơn chết đánh phụt một cái vì khói tên lửa của Khu Sáu”. Khu 6 tức là mật hiệu của chúng mỗi khi nhắc đến thủ đô Hà Nội. Những người tài hoa trí dũng của “Khu Sáu” chúng ta nên nhớ thêm rằng gần đây địch còn nói lóng gọi Hà Nội mình là “ải lửa” là “tọa độ chết”, là “khách sạn Hin Tơn” nữa kia đấy. Chao ôi, giặc bay Hoa Kỳ đã chán ngấy Hà Nội quá lắm rồi – Hà Nội mà lưới lửa tên lửa mỗi lần thổi rồng lửa bay lên nền trời xanh xanh Thăng Long, lại hệt như hạ bút viết chữ tháu lá bùa thiêng khoanh đứng lại, và đốt luôn các thứ “con ma” “thần sấm”, lôi tuột xuống các thứ tướng uý tá quỷ sứ ma vương Hoa Kỳ.
“Xin ông một điếu thuốc!”. Tôi lại cắm điếu thuốc Điện Biên thứ hai vào mồm thằng tư Kên con tên đô đốc Đại Tây Dương và cháu nội tên đô đốc Thái Bình Dương. Nó gạt tàn thuốc lên ngực lông lá, cánh tay trái cẩn thận gạt nhẹ tàn gio vào cái gạt tàn. Nó khép chặt tay vào nách, theo một thói quen của bọn giặc bay quen sống với buồng lái, ít khoa tay vung chân quá rộng, mà thường là cử động với những động tác khép khít hẹp ngắn. Thằng Kên dè dặt đặt gạt tàn thuốc lên ngực mà thấy càng tiếc nhớ cái gạt tàn sĩ quan Không lực Hoa Kỳ mọi ngày của nó! Úi chà, cái gạt tàn ấy thường cài ở tay ngai trái chiếc ghế bành nhôm mỗi lần bay vừa bom vừa hút, sao nó thoải mái, và lý thú đến cái mức phải văng tục ra một câu để khâm phục cho cái sự tiện nghi Hoa Kỳ! Mà ngay trên hàng không mẫu hạm O Rít Ca Ni của hạm đội VII, ngay ở trong căn cứ buồng hội ý hội báo có điều dưỡng không khí ấy, ngay ở những ghế bành da thú vị đó, cũng vẫn cái gạt tàn thuốc tiện lợi đáng yêu cài ngay ở tay ngai bành da. Lim dim mắt vừa nghe chỉ huy phi đội phổ biến kế hoạch trong ngày phải tiến đánh Hải Phòng, Hà Nội bằng phi thuật gì, vừa hít thuốc Lúc Ki, vừa dụi dụi mẩu thuốc, kể cũng khoái trá thật! Khi thấy rằng chỉ cần có bảy phút là xộc tới mục tiêu rồi; mỗi chuyến bay khoảng một tiếng cả đi cả về và, nếu xong gọn được 3000 giờ bay thì được về hưu với rất nhiều tiền bạc và danh vọng. Có những điếu thuốc Lúc Ki hút chưa quá nửa đã quăng mà đau đáu nhìn vào tấm bản đồ Bắc Việt Nam trước mặt trông như một tranh vẽ trừu tượng nào. Ở đấy rừng nhiều và xanh um, mặt rừng úp xuống đất nước ấy như thế nào, cái đó hình như không quan trọng lắm bởi vì Kên chỉ thấy có cái chỏm cái gáy của dải rừng. Đất nước ấy trừu tượng, người Việt Nam đối với thiếu tá Mích Kên quả là trừu tượng. Nếu không có cái việc bị bắn cháy tàu bay và chí tử nhảy dù xuống hồ nội thành Hà Nội thì có thể là cả đời Mích Kên ta cũng chả hiểu Việt Nam nó cụ thể ra làm sao nữa.
Kên đã từ giã cơn mơ hồi ký, bè giọng ra mà trả lời cụ thể về câu hỏi cụ thể của tôi:
- Vâng, tôi nhận được lệnh đánh Khu Sáu tức là Hà Nội vào lúc 10 giờ sáng hôm đó, tính theo giờ Sài Gòn – tính theo giờ Hà Nội thì là 9 giờ. 12 giờ Sài Gòn kém 10 phút thì tôi rời boong hàng không mẫu hạm. Và sự việc những phút sau như thế nào khi tôi vào bầu trời miền Bắc thì các ông đã biết cả rồi. Vâng thưa ông, tôi bay trên miền Bắc tất cả là 23 lần. Ở miền Nam thì tôi chưa được bay lần nào. Tôi có bay vào và có đánh Hải Phòng sáu lần. Chưa bay vào Hà Nội, trừ cái lần vừa rồi. Đại đội tôi 14 chiếc là đại đội chuyên đánh thứ bom điện tử định hướng. Tôi chỉ huy một phi đội hai chiếc A4 cường kích. Đó là lần đầu tôi đánh Hà Nội.
- Là lần đầu?
- Và là lần cuối cùng.
- Nếu anh được cấp trên cho chọn giữa hai mục tiêu nhà máy nhiệt điện và cầu sắt dài trên sông Hồng, thì anh chọn cái nào?
- Cả hai đều là xấu cả, nghĩa là đều nguy hiểm cả, nhưng có lẽ đánh cầu thì tôi nghĩ có phần còn dễ hơn đánh nhà máy đèn. Nhưng tôi tin rằng nếu chúng tôi có đánh trúng được nhà máy đèn thì các ông vẫn có những cách riêng để giải quyết vấn đề ánh sáng cho Hà Nội.
- Anh đánh nhà máy điện trung ương Hà Nội mà lúc này, đèn điện vẫn cháy đều trên đầu giường bệnh của anh, cũng như vẫn cháy đều ở khắp nơi khác của Hà Nội ngoài nhà thương này, thì anh có cảm tưởng gì?
- Thưa ông tôi không buồn mà cũng không vui. Tôi chỉ mong chiến tranh ở Việt Nam sớm kết thúc để tôi được tha về. Bố tôi cũng không cứu được tôi. Ông Giôn Xơn cũng không cứu được tôi. Ông vừa hỏi tôi nghĩ gì về Giôn Xơn? A, Giôn Xơn là người không muốn ai phê bình mình. Ông ta là người chỉ thích dùng máy tính êlếchtơrôních, đặt câu hỏi cho máy tính điện tử rồi chờ câu đáp số trả lời của máy tính… Xin ông một điếu thuốc!
Viên quan tư tù Mỹ định đánh vỗ mặt vào ánh sáng Hà Nội, định tắt ngấm cả đèn điện toàn thành Hà Nội đang nằm hít điếu thuốc mới, mặt trắng bệch, và sợi khói thuốc cứ dâng lên dưới ánh điện tỏa đều. Ánh sáng của Hà Nội không bao giờ tắt, và dưới ánh đèn điện sáng, đang đùn lên một thứ khói của thằng tù. Không còn nghi ngờ gì nữa, thằng này là hung thần Bóng Tối kẻ thù số một của Ánh Sáng. Chả rõ hung thần vừa thở khói vừa nghĩ gì trong đầu óc đen tối của nó – nhưng tôi thì tôi biết rõ những điều tôi đang nghĩ. Khuôn mặt và cả thân hình thằng quan tư Kên lao bom không thành công vào nhà máy đèn kia cứ mờ dần, và trước mặt tôi đã mờ chồng đi, bỗng hiện dần lên cả khu nhà máy đèn Yên Phụ thân mến với sáu cái ống khói cố hữu của nhà máy. Đã có biết bao phi đội Hoa Kỳ lao chí mạng vào Hà Nội với kế hoạch đen tối đòi dập tắt cho kỳ được cái ánh sáng truyền ra từ khu nhiệt điện Yên Phụ. Và đã có biết bao nhiêu là đạn pháo và tên lửa của ải lửa Hà Nội bảo vệ cho bằng được cái khu vực nhà máy đèn này. Ấy cũng là một thói quen rất đáng yêu của người Hà Nội ít lâu nay cứ xong một ngày đánh giặc bay Hoa Kỳ, nhất là sau mỗi trận nó bắn xuống mình bắn lên, ấy là cái việc đầu tiên mà bất cứ người Hà Nội nào cũng đều làm cả, không cần ai bảo ai, không cần phải nhắc nhở nhau: vừa tắt tiếng bom phá bom bi, vừa chớm lên hiệu còi trả động, thì ai nấy đều bật ngay cái núm công tắc điện nhà mình. Đèn tóe sáng! Thế là mặt mày miệng mắt đều như reo lên nỗi vui, nó hệt như lời trong Sáng thế ký “Thế rồi ánh sáng đã bừng lên”. Trong chiến đấu người ta càng yêu thương nhau hơn, càng thấy trìu mến cái khu phố mình, cái cầu trên sông Cái mình đã băng bó lại mấy nhịp kia, và càng thấy quý yêu nhà máy nhiệt điện của mình. Đứng ở bờ đường bên hồ Trúc Bạch mà nhìn khu nhà máy đèn nóc xám, tường xám, phố xám, ngói xám, thấy đó như là người dũng sĩ da sắt xương thép dầy dạn trong khói lửa để giữ vững dòng điện cho ánh đèn Hà Nội “nghìn năm văn vật đất Thăng Long”. Người dũng sĩ nhiệt điện khoác một tấm áo xám tro nghi trang, tà áo tỏa ra đến sát hồ. Trái tim người dũng sĩ điện đèn ngày đêm vẫn đập thình thình. Thủ đô càng chiến đấu giỏi càng sản xuất hăng thì trái tim Yên Phụ ấy càng nhịp mạnh, sáu đầu ống khói càng đều đều, ngày cũng như đêm, thổi lên trời Hà Nội thân mến tất cả cái nhiệt tâm của một nhà máy làm ra ánh sáng. Trông xa, nó giống như một cái tàu bể đang ăn than ở “bến cảng” Trúc Bạch, ngay sau “kho hàng” Ngũ Xã và “cầu tàu” Châu Long ấy. Đã có nhiều chiếc phản lực và thằng phản lực Hoa Kỳ bị chết cháy trên khoảng mù trời máy đèn này. Chính thằng quan tư Kên đang hít khói kia là đã chết hụt trên khoảng trời máy đèn Yên Phụ. Khi bị tên lửa, nó vọt dù ra ngay đúng phía trên sáu cái ống khói máy đèn và, chiếc phản lực của nó thì đâm sầm xuống đống cứt sắt than xỉ nhà máy. Tàu bay nó lao từ hướng Tây vào mà đánh chúi xuống nhà máy đèn, thì đó, xác máy bay nó lại bẹp đầu mà lộn quay về phía Tây. Trong cuộc chiến tranh quyết tâm chống Mỹ, lần nào tôi tua lên hồ Tây, hồ Trúc, lần nào tôi cũng xúc động mà nhìn nhà máy đèn yêu quý của tất cả người Hà Nội chúng ta. Cái nhà máy đèn như một con tàu bể nhiều triển vọng bến bờ, và lại như một lời thách thức quyết liệt, cái thách thức của Ánh Sáng chính khí nhất định chặn đứng lại mọi bạo lực Bóng Đen Hoa Kỳ đang rẫy chết đòi tràn vào.
Tôi mở mắt mà mơ trong ánh đèn sáng trưng, và thằng thiếu tá Mỹ Kên nằm chềnh ềnh ra kia, càng nhìn càng thấy nó đúng là một cái đinh ốc, một cái răng cưa, một cái tay của một cơ xưởng khổng lồ chế tạo Bóng Tối. Tôi liền muốn tìm hiểu xem cái thằng Kên này nghĩ gì về tương lai phúc phận nó. Tôi hỏi cái Bóng Tối Hoa Kỳ ấy:
- Nếu trong tình hình nào đó mà được trở về Hoa Kỳ thì người quan tư tàu bay Hoa Kỳ kia sẽ làm nghề gì?
- Tôi sẽ viết sách. Tôi cũng muốn viết sách.
- Viết sách nhưng viết cái gì? Viết về những cái gì? Viết về Việt Nam, về chiến tranh Việt Nam?
- Không, tôi sẽ viết về châu Âu, những kỷ niệm mấy năm vừa rồi của tôi tại châu Âu. Tôi không biết rõ về Việt Nam và cũng không viết về chiến tranh.
- Tại sao không muốn viết về Việt Nam và chiến tranh ở Việt Nam?
- Vì tôi cho rằng tôi chưa biết gì lắm về Việt Nam. Vì tôi nghĩ rằng tôi cũng chưa hiểu gì lắm về chiến tranh.
Thưa đồng chí bác sĩ quân y, có lẽ vẫn đang đi ở hành lang ngoài cửa phòng bệnh này, hẳn đồng chí đã nghe rõ cái thằng quan tư Kên nó trả lời tôi một cách khốn nạn như thế đó! Bác sĩ bảo tôi đừng dồn nó, khá nên gượng nhẹ cho nhiệt độ nó, mạch tim nó, nhưng nó nói như thế mà để im được sao? Trong phòng, sao lúc này lại thấy phảng phất nhiều mùi ête, nhiều mùi phoóc môn, nhiều mùi gây mê phức tạp khác. Chao ôi, lại còn cái mùi hoa sữa dạ hương ngạt thở ấy cứ từ ngoài sân nhà thương mà lùa mãi vào qua khe cửa chớp chỗ cuối phòng. Thưa bác sĩ, tôi xin phép được nói thấp giọng với nó để không ra vẻ dồn nó:
- Hàng không mẫu hạm Pho Rét Tan bị cháy hồi cuối tháng bảy vừa rồi. Có đúng là anh đã suýt chết cháy trên chiếc Pho Rét Tan đó không?
- Vâng, đúng thế. Tôi về với hàng không mẫu hạm Pho Rét Tan từ tháng sáu, rồi cuối tháng bảy, xảy ra vụ cháy tàu. Vừa cháy vừa nổ các hòm tên lửa, cháy cả tàu bay trong khoang tàu, cháy cả người lái tàu bay. Có người tránh nạn lửa nhảy xuống bể thì lại chết dưới bể không ai cứu được. Bạn đồng nghiệp của tôi chết ở bên phải, bạn đồng nghiệp của tôi chết cả ở bên trái. Chung quanh toàn chết và toàn lửa. Tôi là trong số những người may mắn. Tôi được đưa về Sài Gòn. Báo chí và vô tuyến truyền hình Hoa Kỳ đăng ảnh tôi, viết khen tôi, đăng bài ngay trang nhất. Người ta khen tôi học rộng, đọc nhiều, gặp cũng nhiều sự may mắn. Và có Chúa Trời che chở.
- Anh ở Sài Gòn và những đâu nữa?
- Chỉ ở tại Sài Gòn thôi. Ở đó có 48 tiếng là lệnh cấm không được ra khỏi Sài Gòn… Xong được chuyển về Hoa Kỳ, sau đó lại sang châu Âu với danh nghĩa có tính chất thời sự là “người may mắn của đám cháy Pho Rét Tan”. Và sau đó chuyển sang hạm đội VII Thái Bình Dương.
- Anh bảo người ta đăng báo khen anh là đọc nhiều, anh thích tác giả nào?
- Thường là Xít Tanh Bếch, Hê Minh Uê, Xít Tanh Bếch viết những cuốn trước đây hay hơn những cuốn in ra sau này. Ông hỏi tại sao Xít Tanh Bếch sau này viết kém đi, tôi lại cho là tại sau này già rồi nên cỗi.
- Không phải thế đâu. Xít Tanh Bếch đổ đốn ra viết lách tồi tệ đi vì đã lẫn mất phương hướng sự thật lịch sử rồi. Nhân danh cái gì mà Xít Tanh Bếch vẫn còn khư khư treo giữ tấm bằng của giải thưởng Nô Ben? Thật là một sự buồn cười cũng rất bi đát kiểu Hoa Kỳ, khi mà một giải Nô Ben của Thuỵ Điển hòa bình làm ăn lại đi hăng say tuyên truyền cho chiến tranh xâm lược của Mỹ. Tại sao người ta chưa thu hồi một cái bằng sắc đã trao nhầm cho Xít Tanh Bếch – một tên hiếu chiến ca ngợi sự giết chóc của xâm lược Mỹ nay đã lộ nguyên hình?
- … Thưa ông, còn như Hê Minh Uê thì tôi rất thích. Ông bảo ông cũng thích Hê Minh Uê, thế tôi xin phép hỏi ông tại sao Hê Minh Uê lại tự tử?
- Tôi cũng chưa hiểu rõ về những nguyên nhân xa gần nào đã làm cho Hê Minh Uê tự bóp cò súng hai nòng vào họng mình. Nhưng tôi có thể biết chắc một điều này. Là cái người Mỹ tốt Hê Minh Uê đó mà còn sống thì ông ta sẽ bảo thẳng anh rằng ông ta không thích anh đâu, mặc dù là anh vẫn khăng khăng thích Hê Minh Uê vì một sự thời thượng a dua nào đó… Nhưng tôi hãy trở về câu chuyện chiến tranh và hòa bình của anh. Ban nãy anh có nói là mong chiến tranh ở Việt Nam sớm kết thúc để chóng về quê nhà. Thế rồi anh kể đến chuyện anh hút chết ở hạm đội VII cháy hàng không mẫu hạm. Thế rồi đến trưa ngày 26 tháng mười vừa rồi, đạn và tên lửa Hà Nội bắn cháy tàu bay anh ngay trên mục tiêu nhà máy đèn mà anh định bom vào. Đó là cái may mắn lần thứ hai. May không bị thiêu luôn với tàu bay anh lái, anh nhảy dù ra, rơi xuống, có thể gãy cổ chết tươi, và dù không chết tươi thì cũng có thể bị tất cả những người xung quanh hồ sát nhà máy đèn bơi ra giết anh. Nhà cửa và người cùng phố với những người bơi ra vớt anh đó là, không nhiều thì ít, đều bị bom đạn Hoa Kỳ làm đổ nát thương vong. Tại sao người ta không áp dụng ngay với mày cái quyền được giết mày, và áp dụng ngay cái luật sát nhân giả tử đó? Tại sao người ta vẫn trấn tĩnh lại sự giận dữ thiêng liêng của người ta mà tha chết cho anh? Thế là lần thứ ba người quan tư Không lực Hoa Kỳ của tôi đây được thoát chết. Lần thứ ba này anh vẫn được sống sót. Không phải Chúa trời nào đã cứu sống anh đâu mà chính là vì những người Hà Nội chân chính đó đã hết sức tôn trọng phép nước họ đối với tù Mỹ bị bắt sống. Anh bảo không muốn viết sách về Việt Nam vì chưa thấy rõ Việt Nam. Có thể anh cứ bay từ sân bay nổi trên Thái Bình Dương vào bắn trong đất liền, rồi lại hạ cánh xuống boong tàu – sân bay hàng không mẫu hạm, lần bay nào cũng trót lọt cả, nếu sự việc xảy ra cho anh một cách êm thấm như thế, thì đúng là Việt Nam này chỉ là một cái gì rất trừu tượng đối với anh. Nhưng chiến tranh là một cái gì rất cụ thể. Cho nên rơi xuống đất nước miền Bắc, anh đã cụ thể được gặp con người Việt Nam đánh tàu bay Mỹ rất dữ, rất giỏi, nhưng không giết phi công Mỹ một cách bừa bãi. Và cụ thể anh đã được truyền máu, đã được thực sự tiêm thuốc cụ thể của Việt Nam, và ăn cơm thịt cụ thể của Việt Nam. Ngày tháng của anh từ nay trở đi tại chốn này là một thứ thời gian phải tính cụ thể bằng giờ phút của Hà Nội – một Hà Nội quyết tâm đánh Mỹ ngay trên nội ngoại thành mình và ở khắp nơi từ Bắc chí Nam. Đến như thế mà còn bảo là chưa hiểu gì lắm về Việt Nam và chiến tranh ở Việt Nam, đến cái mức ba lần chết hụt giữa cuộc chiến tranh tại Việt Nam, mà còn cho là chưa nhận thức được ra cái điều ấy, thì anh định chờ đến cơ hội suýt chết một lần thứ tư nào đó nữa, thì rồi mới chịu đập vỡ cái cục tối ở trong đầu anh ra hay sao? Tôi cho rằng anh đúng là một mẫu người Hoa Kỳ, theo cái nghĩa Hoa Kỳ là chúa hay khôi hài một cách đen ngòm như thế.
Tôi ngừng lại, cắm một điếu thuốc lá đã châm sẵn vào mồm nó vừa được chiêu xong một chén nước.
- Thưa ông, tôi cũng mới định như thế thôi. Thực tình mà nói, tôi thấy cũng khó mà viết được. Tôi không tin rằng cánh tay phải tôi sẽ lành lặn. Tôi tàn tật tay phải thì viết sao được (mắt nó liếc ngang vào cánh tay phải chỉ thiên bó bột).
- Người định làm sách một cách thật nghiêm túc, thì dù có bị ai cưa đi cả tay phải lẫn tay trái, người ta cũng cứ viết được. Đối với người viết sách để làm chứng cho sự sống, làm chứng cho chiến tranh và hòa bình, sự quan trọng không ở cánh tay bàn tay cầm quản bút hoặc mổ máy chữ. Không phải ở cái tay, mà chính là ở cái đầu, ở cái tim, chính là những cái đọng lại nơi tim và đầu mình. Anh là một thằng con nhà giầu, chắc anh không ngọng gì mà anh lại không hiểu rằng có những người triệu phú nước anh chỉ đọc mồm thôi, rồi có hàng chục hàng trăm thư ký phải tức tốc ghi chép ra những lời tầm thường và quỷ quyệt đó. Nếu anh tin rằng anh sẽ bị què quặt suốt đời thì anh càng nên nhớ rằng cái máy chữ Hoa Kỳ tinh xảo vẫn giúp anh được. Một người con nhà giàu như anh và lại có lương tiền tính theo giờ bay như anh hẳn là thuê được ít ra là một cô đánh máy chữ mười ngón rất nhanh, anh nói nhảm có liến thoắng đến mấy, người ta vẫn kịp đánh máy theo.
- Ý định viết sách ở tôi, thưa ông, cũng mới là thoáng nẩy ra như thế thôi. Có lẽ sau này tôi sẽ xin đi làm quản lý ở một công ty nào. Tôi có một vợ, và ba con. Thưa ông, tôi là một người đang thấy cần phải có hòa bình và mong chiến tranh kết thúc. Tôi còn là một người không muốn làm những gì có thể hại đến thanh danh gia đình tôi.
Thế này thì bác sĩ ạ, tôi đành bỏ đó câu chuyện nói chưa hết với thằng Kên. Chỉ nói thêm một câu một chữ nữa về ‘‘thanh danh gia đình” nhà nó là tôi có thể xung thiên lên rồi, là tôi có thể có lỗi với bác sĩ đã dặn tôi là chớ dồn nó. Thằng giặc Kên này lại bàn về thanh danh gia đình của một gia đình ba đời ăn cướp bể! Tôi đã ra về và không quên vứt lên ngực thằng giặc Kên cả chỗ thuốc lá còn lại.
François Chalais, đặc phái viên đài vô tuyến truyền hình Pháp, mấy hôm sau gặp lại tôi tại một khách sạn thủ đô Hà Nội trước đây Tây gọi là Mê Tô Pôn, tỏ vẻ kính trọng cuộc chiến đấu của ta, tỏ lòng khâm phục Hà Nội đánh Không lực Hoa Kỳ một cách ác liệt và tài giỏi. Phăng Xoa Sa Le từ Paris sang Hà Nội quay được rất nhiều về tội ác của Hoa Kỳ ném bom vào giữa nội thành thủ đô ta, ảnh quay đều kèm theo những băng ghi lại mọi kiểu âm thanh sinh hoạt của thủ đô. Lý thú nhất là cuốn băng ghi được cái tiếng khóc nấc lên của quan tư phi công Mích Kên. Chả là Phăng Xoa Sa Le cũng được vào bệnh viện gặp thằng giặc bay này, và bảo thằng Kên rằng:
- “Nhà chức trách Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cho phép tôi ghi vào băng những lời nói của anh. Nếu anh có điều gì cần nhắn về gia đình anh bên quê hương anh, thì tôi sẽ cho ghi luôn vào băng và chuyển hộ”.
Sau khi nó trả lời một số câu, đến mục nhắn tin gia đình thằng Kên bỗng khóc nấc lên. Băng ricoocđơ quay quay mãi không biết cơ man nào là vòng nhựa rồi, mà thằng Kên vẫn nghẹn lời, vẫn chưa buột ra được thành tiếng, vẫn chỉ có khóc. Hình như đặc phái viên vô tuyến truyền hình Pháp dành hẳn bảy phút cho hắn nhắn tin về nhà, thế mà cả bảy phút quý báu đó, cái thằng quan tư khốn nạn ấy chỉ nói được vẻn vẹn có mỗi một câu. Nó gọi tên vợ nó và thêm vào: “em ơi, rồi anh sẽ khỏi…”. Khỏi, khỏi cái gì, khỏi cái bệnh bá đạo Mỹ, khỏi cái chết xâm lược thực dân mới, khỏi cái nọc phát xít, khỏi, bứt khỏi cái nghề giặc bay, khỏi cái tự tôn mặc cảm Hoa Kỳ, hay là khỏi cái gì? Cả một cuộn băng người ta mà nó chỉ mở mồm nói được có bấy nhiêu, nếu viết ra thì cũng chưa đủ một dòng chữ. Rồi còn lại là toàn thổn thức với nức nở. Tiếng nấc đã thành một điệp khúc. Cái tiếng nấc Hoa Kỳ của một thằng tù rên, có nốt lại nghe ẳng lên như tiếng bị hóc xương nơi họng cổ. Phăng Xoa Sa Le đã cho ghi băng đầy đủ cả câu nói bị cắt ra vì những tiếng khóc, và cả cái nhạc nền của sự nức nở. Đặc phái viên vô tuyến truyền hình Pháp đã chìa cho tôi xem đến hai mươi mấy câu hỏi đánh máy sẵn, đã chuẩn bị sẵn sàng, để cho đối tượng thiếu tá tù Kên trả lời, và tất cả những câu hỏi đó, Phăng Xoa Sa Le đã không nỡ đem ra hỏi thẳng vào mặt tù Mỹ. Và Phăng Xoa Sa Le rất mến phục về cái ý nhị rất có tính nhân đạo của bác sĩ bệnh viện mình đã dặn ông ta lúc này hãy tránh cho tên thiếu tá Kên mọi sự kích động hoặc xúc động về cảm nghĩ. Phăng Xoa Sa Le đã từng gia nhập du kích chống phát xít Đức trong rừng Pháp hồi chiến tranh thứ hai, nay phải giơ tay lên mà kêu trời, mỗi khi tôi kể cho ông ta nghe thêm về cách nghĩ và cách giết người của bọn Hoa Kỳ tại Việt Nam. Phăng Xoa Sa Le rất chú ý đến một cỗ bài về thực vật Việt Nam do không quân và hải quân Hoa Kỳ in ra để cấp phát cho bất cứ thằng giặc Mỹ nào tới đánh Việt Nam. Ấy là đúng một cỗ bài 54 cây bài lá khuôn khổ như bài tú lơ khơ, một mặt in hình vẽ, một mặt in chữ Mỹ (thực ra Hoa Kỳ không có chữ viết riêng mà đều nói và viết bằng tiếng Anh, tức là con bài in bằng chữ Anh). Những hoa, lá, củ, quả Việt Nam nói chung đều được in vào một mặt lá bài. Mặt sau cước chú rõ ràng thứ nào ăn được, thứ gì độc không ăn được thì chú thích bằng chữ đỏ. Trông cỗ bài tiêu bản về thực vật Việt Nam, dễ nghĩ đến một thầy giáo Việt Nam dùng để giảng cho học trò nhỏ xứ mình về cây cỏ thực vật nơi quê nhà. Nhưng đây, đâu có phải là một câu chuyện giáo dục sư phạm hòa bình như vậy. Mà đây là một cỗ bài của tổ chức chiến tranh, một cỗ bài của Thần Chết Hoa Kỳ phân phát cho bọn phi công nó mang theo. Người Hoa Kỳ rất thực dụng chủ nghĩa, nên đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho phi công nó, nhỡ máy bay có phải ăn đạn mà dù xuống đất nước Việt Nam thì cứ xòe bài ra mà tìm chất tươi để chờ trực thăng tới cứu. Theo đài AP Hoa Kỳ gần đây, thì bọn phi công Mỹ bị bắt sống tại miền Bắc là khoảng 300 tên. “Như thế là Hoa Kỳ tung vào nước ta đã tới ba trăm cỗ bài hai mặt. Ở miền nam nó thả hơi độc và na pan, nhưng ở rừng miền Bắc thì nó định khai thác rừng và cây chúng tôi theo cái cách cỗ bài lá như thế đó”.
- Ông Phăng Xoa Sa Le, ông có thấy người Hoa Kỳ có óc tổ chức rất chu đáo không, và sự tổ chức của bộ máy chiến tranh Hoa Kỳ thật là tinh tế không bỏ sót một cái gì. Trong túi tùy thân của thiếu tá Mích Kên ông đã thu tiếng khóc đó, ngoài những điện đài, pháo hiệu, dao găm và các thứ đồ lề biệt kích linh tinh khác, dĩ nhiên là phải có một cỗ bài lá như thế. Tôi có hỏi một số phi công Hoa Kỳ nhảy dù xuống xem họ có lén lút tìm kiếm hoa quả trên đất nước miền Bắc ra sao, thì tất cả đều trả lời rằng: “Bọn tôi chưa kịp đi tìm hoa lá rễ cành, củ quả nào thì các ông đã ập đến trói bắt rất nhanh. Cũng như chúng tôi trong người đều được trang bị lưỡi câu đủ cỡ và mồi câu nilông đủ loại nhưng đều không kịp dùng tới. Chưa kịp đi tìm cá để câu, thì đã thấy rất đông người đến bắt”. Cỗ bài thực vật Việt Nam do Hoa Kỳ phát hành này, nếu ông Phăng Xoa Sa Le thấy nó có thể thêm được vào việc thuyết minh phim truyền hình của ông, thì xin mời ông và các bạn trong đoàn ông cứ việc chọn lấy mỗi người vài lá bài.
Phăng Xoa Sa Le xem ra xúc động về những nỗi niềm cỏ cây bài bạc này, vừa ghi sổ tay vừa bỏ píp xuống, nhún vai mà kêu trời rằng: – Thật là quá sự tưởng tượng. Tôi xin mang lá bài chiến tranh này về, để cho ở Pháp người ta hiểu thêm về cái tính cách Hoa Kỳ của bộ máy xâm lược Mỹ. Xin cảm ơn ông. Và cũng xin nói trước để ông biết là về Pháp chiếu vô tuyến truyền hình, với những tài liệu chúng tôi đã thu vào băng và quay vào phim, chương trình vô tuyến truyền hình của chúng tôi sau khi đi thăm Việt Nam và Hà Nội này sẽ dài khoảng bốn mươi nhăm phút, phát vào buổi tối. Sẽ có độ hơn 10 triệu người Pháp theo dõi chương trình Việt Nam – Hà Nội anh dũng này.
Mùa đông năm 1967, da trời Hà Nội thấp thỏm xanh ngắt một niềm cảnh giác. Nó còn cách thủ đô ta những bảy tám chục cây số mà khu phố mình đã loa mồm rồi. Phố Hà Nội nắng hanh vàng làm khô sáng thêm những cỗ mũ rơm mũ sắt di động trên đường, và càng làm khô nỏ thêm những đáy hầm cá nhân còn vương vất tí ẩm ướt mùa thu qua. Cây Hà Nội trông dữ hơn mùa đông năm ngoái, mỗi con chim giật mình chuyền từ ngọn cây này sang ngọn cây khác, lại như một chiếc lá tàn năm vừa mới được chắp cánh vọt bổng lên mà theo dõi chân trời đằng Đông, chân trời đằng Tây. Và cứ mỗi lần chuyển biến khí tượng có gió mùa Đông Bắc tràn vào trời thủ đô, thì hình như đường Hà Nội càng đông thêm người đi giữa ban ngày. Nhiều hôm mới có năm giờ chiều mà phố đã cho bật đèn đường, trông thích mắt ra phết. Rất nhiều người Hà Nội cữ này hay ưỡn mình ngắm mây trời Thăng Long, đánh giá xem trần mây còn đậu chân được mấy buổi nữa rồi mới cuốn vét hết, tính lường sức mây để tranh thủ thời gian mà làm nhanh hơn những việc hàng ngày của mình. Trong khi ấy, chỗ xa xa tít tắp nào đó của bờ Thái Bình Dương, đài tiếng nói Hoa Kỳ lại tự bào chữa một cách không cần thiết, giọng khê nồng hằn học cả với áng mây không chịu tan trên trần Hà Nội.
Tôi ngồi bên hồ Trả Gươm, đọc vội cho hết bản tin trong ngày. Cũng như tôi, nhiều người uống bia ở Thủy Tạ đều đội mũ sắt và nhìn giời. Giời phản chiếu vào đáy hồ. Đáy hồ Gươm trong như gương, những long lanh cái nỗi “mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Những phi đội hai chiếc một của Không quân mình đang uốn cánh nối đuôi nhau, vẽ những đường tròn bánh xe mà lăn trên vòm trời Hà Nội, vừa lăn xe mây vừa soi mình vào bóng mây hợp tan đáy lòng hồ. Sát với mặt hồ là đàn nhạn hàng nghìn con đang bay. Nó cũng soi gương hồ, vừa soi gương vừa tắm đuôi tắm bụng trắng vào nước hồ. Nó bay đủ các kiểu phi thuật, là ngang sát xuống đầu bọt sóng hồ, ngoặt bay gập góc 180 độ, vọt đứng ngược lên để bổ nhào xuống, bụng trắng phau như tờ giấy chưa đề thư. Không hiểu con người trông thấy nhạn bay rồi mới nghĩ cách làm ra tàu bay Mig, hay là đàn nhạn gió bấc kia đang bắt chước những dũng sĩ diệt tàu bay Mỹ ta đang cảnh giới trời mây đỉnh đầu.
Tôi liền mời thêm anh bạn thi sĩ nghèo của tôi một chầu bia bơm nữa, và biếu không anh cả cái câu vần vừa bừng lên mới đó trong tôi: “Nở tin bay thẳng, Hồ thiêng lừng sóng nhạn hoa gươm”.
Hồ Trúc Bạch hôm ấy cũng đông người ngồi. Tập thể nhà chài Hồ Tây sớm nay vừa làm mẻ tôm đẫy, hàng bánh tôm rán chiều ấy lại có rất nhiều viễn khách bạn mới của Hà Nội khói lửa. Ngoài những anh em lao động mình ngồi đó uống bia tôm sau một ngày làm việc bằng hai ngày, lại có các bạn thông tấn Đông Âu phe mình, lại có cả một số ký giả báo chí Tây Âu vừa tới Hà Nội kỳ tàu bay tuần trước. Một anh cán bộ ngoại giao ta đi sát giúp đỡ đoàn ký giả báo tư sản, đã niềm nở chạy sang bàn tôi. Anh muốn rủ tôi sang bàn bên ấy để nói chuyện cho vui, nhất là nói chuyện về Hà Nội cố đô vì anh cũng thấy có phần hơi lúng túng về mặt dĩ vãng thủ đô. Tôi phải xin lỗi ngay anh:
- Như anh thấy đó, tôi đang ngồi chung với bạn tôi, bỏ đi sang bàn khác, người Hà Nội với nhau, không nên làm thế. Xin giới thiệu với anh chị Ba đây là giáo sư dương cầm. Những hôm nó đánh Hà Nội nhiều, thì y như xâm xẩm chiều đó, nhà chị Ba đây càng du dương tiếng dương cầm, – rất đông các em khu phố đến tập đàn ở nhà chị Ba.
- Giá anh tạt qua bên tôi mà vui chuyện kể ít nét về Hà Nội cũ, để các bạn ký giả Tây Âu hiểu thêm về Hà Nội mới, thì cũng là một điều rất nên. Họ nói được tiếng Pháp cả đấy.
- Thế này nhé. Tôi xin cứ ngồi tại bàn tôi mà kể rồi chốc nữa anh về bàn anh mà dịch lại cho họ. Xin kể luôn về cái hồ Trúc Bạch trước mặt ta, tức là một cái hồ vừa được ghi thêm vào bảng tên những địa điểm lịch sử chống Mỹ của Hà Nội. Thằng thiếu tá Mích Kên đánh nhà máy đèn kia không thành, đã vọt dù ra rơi xuống hồ Trúc Bạch một buổi trưa cuối mùa thu vừa rồi. Hồ Trúc Bạch không to như Đại hồ ở liên bang Hoa Kỳ. Hồ Trúc Bạch cũng không phải là hồ lớn của Hà Nội. Nó có thể chỉ là một cái đĩa nhỏ so với Hồ Tây, nhưng cái đĩa Trúc Bạch ấy đã là nơi chết đuối hụt của một thằng Mỹ giặc bay ba đời làm nghề trên biển cả. Anh nên nói thêm với các bạn ký giả Tây Âu cái chi tiết này do thằng Mích Kên nói ra với tôi: là nó bảo rằng nó không biết gì về Hà Nội, nó chỉ biết là Hà Nội có con sông, sông Hồng; chứ nó không biết tý gì về những con hồ cái hồ Hà Nội, và theo nó thì sông hồ Hà Nội đều nguy hiểm cả, vì bạn bay đồng nghiệp của nó đều có những kỷ niệm hồi hộp khi đan chéo qua sông hồ Hà Nội, nhất là cái sợ lưỡi lửa của thung lũng sông Hồng. Anh còn nên cho họ thấy rằng không phải chỉ hồ Trúc Bạch mới lập công bắt sống giặc bay Hoa Kỳ, mà cách đó dăm tháng, đúng vào ngày 19-5, Hồ Tây cũng bắt sống giặc bay. Và lại bắt sống một lúc những hai sĩ quan Mỹ rớt từ hai máy bay bị tên đạn Hà Nội diệt luôn tại chỗ và bắt sống nó ở ngay mép hồ. Hôm ấy là một ngày Hà Nội thật đáng nhớ. Tức là lần đầu tiên giặc bay Mỹ đứt dây ngay trên trời Hà Nội, rơi đúng xuống phố phường Hà Nội. Tất cả Hà Nội ầm ầm đi bắt nó từ trước khi nó chạm xuống mặt phố Hà Nội, và rơi bịch xuống cạnh cái chuồng chồ nhà số 71 phố Thuỵ Khuê, cả hai thằng đều rơi sát hai hố xí, cách nhau khoảng trăm thước. Hôm ấy Hà Nội ta đánh tài lắm. Buổi sớm hạ sáu chiếc buổi chiều hạ bốn chiếc. Hết một ngày hạ gọn mười chiếc Hoa Kỳ và bắt sống hai thằng giặc bay. Hà Nội nổi một trận mưa mùa hè, có vẻ như là để tưới đường cho nó tẩy uế sạch đi cái mùi khét lẹt hơi hướng Hoa Kỳ. Thế rồi trên con đê Thanh Trì của ngoại thành, in lên nền trời chiều dọc sông Hồng, thấy một đoàn ô tô bọc sắt của đơn vị pháo di động đang nghếch nòng súng mà chuyển bánh, trên nòng mỗi cỗ pháo lại hồng tươi một lẵng hoa. Đó là hoa ban ra từ Phủ Chủ tịch, từ ngay buổi trưa trời chưa tan hết khói đạn và tên lửa. Đó là hoa các cơ quan đoàn thể, các bộ các ngành, các sứ quán ngoại giao đoàn như thường lệ chúc thọ sinh nhật Bác Hồ, và Hồ Chủ tịch cho chuyển xuống các đơn vị quân dân đều bình công, và ai được bình bầu thì liền cài luôn lẵng hoa lên súng mình mà kết thúc một ngày mê tơi đẹp của Hà Nội anh hùng.
- Anh kể cho nghe ít nét về lịch sử hồ Trúc Bạch. Cụ gì viết câu đối ở Hàng Bồ có nói tới câu “danh lưu Trúc Bạch”. Nó có dính gì đến vấn đề hồ kia không?
- Ngày xưa chưa làm giấy bản, thì người phương Đông khắc vào cật tre xanh, và viết lên mình lụa trắng tất cả tiếng thơm việc tốt nào mình cho là nên lưu truyền lại đời sau. Quan tư Mỹ Mích Kên rơi tõm xuống hồ Trúc Bạch thì tên tuổi có được “danh lưu Trúc Bạch” không ấy à? Có ai lại khắc tên nó vào tre vào lụa, dù tre lụa ấy có là lụa nilông Hoa Kỳ hoặc là sắt tây Hoa Kỳ! Chính thằng Kên đã làm bẩn thêm nước hồ Trúc Bạch. Thằng giặc bay nào trong người cũng phòng mang theo một túi phẩm nhờn hóa học, khi nào rớt xuống sông, biển, hồ thì nó cho hòa thuốc nhờn, nó cho loang cái dầu đó ra để trực thăng nó nhìn rõ hơn mà tới cứu. Nhưng bố thằng Mỹ cũng không dám thả thang dây xuống nội thành Hà Nội. Mặt hồ Trúc Bạch hôm Mích Kên bị bắt sống bị loang nhờn hàng vùng, một số cá bị úi nổi lên sau đó, có lẽ vì chất độc nhờn này. Vui nhất là hôm bơi ra bắt nó, lại có cả những anh em hàng ngày vẫn chiều chiều ra đây ăn tôm uống bia như là người vô tích sự nào đó. Đứng về phía quân dân Hà Nội dũng cảm và kịp thời giải quyết giặc bay đánh phá nhà máy đèn và sa cơ trên hồ Trúc, tôi nghĩ rằng chữ “danh lưu Trúc Bạch” của nghìn xưa, nay đem ra dùng vẫn cứ hay. Lưu vào lịch sử Hà Nội cái chiến công của người ven hồ Trúc Bạch chứ sao! À, anh có biết người của khu Ngũ Xã bên kia bờ hồ Trúc là làm nghề gì không? Trước phường Ngũ Xã có nghề đúc tượng và đúc chuông đồng đen. Nay họ chuyển thành hợp tác xã đúc các hiện vật lưu niệm. Họ đổ khuôn những hình tàu bay ta, những thứ hình thù tàu bay Hoa Kỳ. Lại lấy ngay những mảnh đuya ra xác máy bay Mỹ ra mà làm nguyên liệu, trông khéo đáo để. Thế nào mà các anh chả tặng đám ký giả Tây Âu kia ít cái rồi!
- Hồ Trúc Bạch ngày xưa qua các đời vua trước ra sao?
- Hồ Tây có rồi, rồi mới có kinh đô Thăng Long. Hồ Trúc Bạch là lấy ra một góc của Hồ Tây. Đầu thế kỷ thứ XVII, hình như năm 1620 thì phải, người ta đắp một con đê giữa hai hồ, và chúng ta đang ăn uống trên cái đê xưa ấy đây. Ngõ Trúc Lạc ở nách sau cái khu xám nhà máy đèn bờ bên kia hồ trước mặt ta, nguyên ngày xưa là một xóm trồng toàn trúc. Đời Lê chúa Trịnh, hình như là Trịnh Giang dựng ở làng Trúc đó một nơi an dưỡng biệt viện. Sau không an dưỡng tại đó nữa, và biệt viện biến thành cung lạnh của một số cung nữ bị thất sủng. Những cung nữ xấu số này phải dệt lấy lụa mà làm cái sinh sống. Lụa làng Trúc đó rất tốt rất đẹp. Chữ Hán, bạch là lụa. Và hồ này từ đó được mang cái tên của lụa tốt tre quý đó. Thời Tây cai trị, nơi hồ Tre Lụa đây cũng không có gì đặc biệt, ngoài một số vụ tự tử thành công hoặc không thành. Phải, Vũ Trọng Phụng trong “Số đỏ” có mượn khung cảnh Hồ Trúc Bạch mà hư cấu một cảnh chợ phiên lầu bát giác nhà máy gạch chủ Tây, phải, đúng ngay chỗ ta tóm thằng quan tư giặc bay dù xuống, giữa một buổi trưa Mỹ ném bom nhà máy đèn Hà Nội. Kia kìa, chỗ đầu dốc con đường Cổ Ngư Cổ Ngựa bó lấy ven hồ Trúc Bạch mà trước đây thực dân Pháp gọi là thông cũ của thống chế Liôtây, và nay ta gọi là đường Thanh Niên, chỗ đầu đường ấy có một cái đền. Đền Nghĩa Dũng của nhân dân Hà Nội dựng lên để tưởng niệm Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu đã lấy tính mệnh mình ra mà giữ lấy thành Hà Nội. Cũng như ở bãi làng Giảng Võ không cách xa đây lắm, ta vẫn còn cái bia tiếng Pháp đánh dấu lấy mả thằng Tây nhà binh Gạc Nhe (Francis Garnier) và nơi Cầu Giấy phố Phủ Hoài cũ, vẫn lù lù cái mả quan năm Pháp Henri Rivière – cả hai thằng đế quốc này đều chết trận vì đã đụng vào Hà Nội. Nay hồ Trúc lại ghi công diệt quan tư tàu bay Mỹ. Này, anh có thấy bia “Trúc Bạch” ta uống là ngon đậm lắm, không sợ bất cứ bia nước ngoài nào? À, còn quên cái này, nói để biết với nhau như thế cho nó vui, chả cần dịch ra cho báo nước ngoài họ nghe làm gì. Ta vừa phát hiện được một cỗ xương voi ở gần Cột Cờ trong khi nắn lại vỉa hè một cái ngã tư. Có những bậc cao tuổi lấy làm thích lắm, vì cho rằng tìm thấy cốt voi trận là điều lành và tốt.
Sát kề hai con hồ Tây hồ Trúc Bạch vây bắt sống giặc bay dù Hoa Kỳ là một cái vườn cây rất lớn rất đẹp. Cái vườn ấy cách đây khoảng bốn năm thế hệ thì gọi nó là Trại Hàng Hoa. Rồi sau Tây gọi là Sở Bách thú và nay thì ta gọi là vườn Bách Thảo. Vườn Bách Thảo vẫn có đủ cò, hạc, bồ nông, đường nga, đại bàng, voi, vượn, khỉ, chồn, cáo, nai, hươu, hổ, báo, gấu, sư tử. Hà Nội nổ súng chống tàu bay được ít tháng thì vườn Bách Thảo cho sơ tán hết những con thú lạ, nhất là những con dữ tợn như voi, gấu, báo, sư tử. Phải, cứ sơ tán ác thú đi, chứ bom và tên lửa Mỹ bắn vào Bách Thảo, vỡ cũi sắt mà những con thú dữ xổng chuồng này tự do đi vào các phố Hà Nội thì nó còn ra làm sao nữa! Cho sơ tán đi xa cái lũ thú rừng này, buồn tiếc nhất có lẽ là những em nhỏ thiếu nhi Hà Nội mỗi lần được cô giáo cho lên vườn Bách Thảo thì lại thấy vắng thiếu một cái gì. Nhưng mà rồi thủ đô Hà Nội cũng không phải bận tâm nữa về vấn đề trò chơi này của thiếu nhi mình. Bởi vì, sau đó, trong một tình hình Hà Nội quyết tâm diệt Mỹ tại chỗ – ngay trên cái vòm trời xanh cao úp đúng lên đỉnh đầu mình – thì các em cũng được đi sơ tán luôn nữa. Vườn Bách Thảo Hà Nội, Sở thú Hà Nội (gọi theo cách nói của bà con Sài Gòn mình). Sở thú Hà Nội nay vẫn bỏ không đó mấy dẫy chuồng có song sắt. Đàn hươu sao nay được chuyển sang ở đúng cái nhà của ông voi quận công đi sơ tán. Con hạc, con đường nga vẫn múa giữa cù lao hồ sở thú, con đại bàng hói trán ngày ngày vẫn nhận khẩu phần thịt của Công ty hoa viên phát cho, vượn vẫn đu bay, khỉ vẫn chộp bí đỏ và chuối, nhưng dẫy chuồng ác thú thì lạnh tanh vắng ngắt bóng chúa rừng. Mỗi khi có công việc lên khu vực làm phim xi-nê-ma, hoặc đi Thuỵ Khuê chợ Bưởi, trừ những buổi bận lắm, còn thường ra thì tôi hay tạt qua sở thú Bách Thảo. Đã có một số câu văn tử tế của tôi nảy sinh từ những phút giờ Bách Thảo đó. Nhớ cái lần ấy, trước khi đứa cháu gái được rời Hà Nội đi sơ tán, tôi đèo nó sau xe đạp, tua cho nó lên sở thú một lần nữa.
Tên nó là con Hạnh. Con Hạnh cứ lải nhải sau lưng sau gáy tôi:
- Ông ngoại ơi, ông thương Hạnh, ông bảo là ông thích con Hạnh, thế sao cháu lại không được ở Hà Nội với ông, thế sao cháu lại phải xa Hà Nội có vườn Bách Thảo?
- Tại có giặc Mỹ đánh Hà Nội và nó dọa sẽ đánh to ở đây.
- Thế không có thằng Mỹ nữa thì cháu lại được về Hà Nội ở với ông bà chứ?
- Ừ.
- Thế hôm nào thì đuổi hết giặc Mỹ?
Trẻ con kể chuyện cứ dóng một như thế, nhưng có những câu rất nguy hiểm. Nhưng mà câu hỏi trẻ con hay hỏi vừa rồi, tôi cho rằng tôi không chịu bị động tí nào với con cháu Hạnh. Tôi đạp xe thong thả hơn, vừa bảo đứa cháu gái:
- Bao giờ Hạnh không đi sơ tán nữa thì là Mỹ đã cút đi hết đấy.
Con Hạnh cứ thế ở đằng sau cái giá thồ xe đạp mà đấm đấm vào lưng tôi:
- Mỹ cút đi, Mỹ phải cút đi.
Hai ông cháu liền gác xe cạnh một cái chuồng khỉ. Con khỉ thấy đông thêm người, bỗng hếch chân dưới ra giở trò đểu của bú dù, nhiều cô lớn tuổi phải vờ quay mặt đi.
- Nó là con khỉ phải không ông?
- Ừ, có chú còn gọi nó là con Mỹ nữa.
- Không xem con Mỹ nữa, ông ạ. Đi xem con gấu nhảy đầm đi ông.
Tôi đứng trước một dãy chuồng vắng vẻ, đã sơ tán ác thú, và đã bay hết mùi thịt sống mọi ngày, rồi bỗng nhớ đến con Hạnh sơ tán, cùng là nhớ đến những con chúa sơn lâm. Nay chúng ở đâu và đang làm gì? Người ta phải khắc phục những khó khăn gì để nuôi chúng nó và cho nó ăn uống ra sao? Ở nước mình thì rồi mọi sự vẫn được giải quyết thôi, khó đến mấy rồi cũng cứ xong. Nhưng tôi không khỏi không nghĩ đến những thằng giặc bay Hoa Kỳ ta bắt sống được, và nay vẫn báo hại ta bao nhiêu là cơm, thuốc, thịt. Đã phải mở thêm một ngành để quản lý nó. Nuôi giữ những con Mỹ ác thú này, thật là tốn rất nhiều thứ, tốn tiền, tốn thời giờ. Càng phòng không mạnh, càng bắt sống được nhiều giặc bay Mỹ, trại chăn nuôi những con Hoa Kỳ của ta càng vất vả. Nhưng thôi, biết làm thế nào, khi mà lịch sử chống ngoại xâm đã giao cho mình phải quản lý cho tốt cái đàn cái lũ thú Mỹ này?
Dãy chuồng Bách Thú đã vắng hết những dã thú, mọi ngày cửa đóng then cài, song sắt buồng ăn trong và buồng chơi ngoài đều khóa cả. Mọi khi thú chưa chuyển đi sơ tán thì những cũi sắt này đâu được sạch sẽ như thế. Nền xi moong lồng sắt khi có thú ở, thường là nhớp nháp, bàn chân chúng, ngón chân chúng in lên những kiểu hoa nhòe nhoẹt và bẩn bùn. Bây giờ thì lạnh không khốc như một cái bàn mổ thiếu hơi nóng sinh động của cơ thể có máu chảy. Mọi khi quãng chín giờ sáng này là giờ cho chúng đớp thịt sống thì phải biết là quá đỗi ồn ào. Tiếng đẩy cửa ngăn khung sắt rít lên trong cửa và kẽ lùa, nghe chói tai như mở đóng toàn bộ cánh cửa sà lim ngục tù. Dồn xong bọn thú dữ từ ngăn ngoài vào ngăn trong, thì ở ngăn ngoài cọ rửa, ngăn trong tung thịt. Tiếng ác thú xé thịt nhồm nhoàm nhai xương gau gáu. Ăn không vừa ý, chúng cũng gùn ghè. Ăn thích khẩu, chúng càng làu nhàu. Con ngốn nhanh, con ăn chậm đều là tóp tép lột xột một cách ầm ĩ. Chúng không cần biết rằng đây là bữa ăn xảy ra trong một thành phố nền nếp chứ không phải đớp mồi tươi sống giữa rừng già. Có con lại còn đánh với sang con khác ở song sắt bên cạnh. Một tay giữ phần thịt mình, một tay cào sang chuồng đang có tiếng xương vỡ lốp bốp.
Chuồng sắt nay đã hả hết mùi hôi thịt sống cũ. Nay đã biến đi hết mọi thứ nhe răng, đập đuôi, xòe móng, xù lông, uốn sống lưng, bạnh vai, vờn vờn lượn lượn hoặc nằm phục lừ lừ đôi mắt như sắp giở ra một điều bất trắc chớp nhoáng gì. Tôi biết là Sở thú Hà Nội vì chống Mỹ đã chuyển dã thú đi hết từ lâu rồi. Nhưng sao hôm nay đứng đây tôi vẫn như còn nghe thấy những tiếng xé thịt nhai xương của những dã thú ăn tươi nuốt sống mở mùa loạn rừng. Và những con ác thú đó lại còn đang bắt chước tiếng người mà tranh giành nhau, mà vừa ăn vừa nói, giọng vặn vẹo mà nuốt chửng cả con chữ, mà nhai biến cả vần. Qua làn song sắt chuồng hổ, báo, gấu đi vắng nhiều, sao lại đang ằm è xí xố xì xồ một lũ quỷ mình thú mặt thú mà giọng người. Có con vừa gặm nhồm nhoàm vừa nói lem lẻm lên cái luận điệu lôgích Hoa Kỳ “Khi mà người ta càng đào tạo nhiều sĩ quan Không lực Hoa Kỳ thì người ta càng phải nghĩ ra nhiều chỗ để mà ném bom. Mà khi đã đánh nhau, thì người ta phải đánh nhau đến cùng, ném bom đến kỳ cùng, và phải giành lấy sự thắng lợi cuối cùng của trận bom”. Một con Mỹ khác mặt như lợn lòi, lại làu nhàu mà nhại giọng người: “Trong thế giới đại kinh doanh, người ta chỉ sở hữu được vào những thứ gì người ta có thể bán được mà thôi”. Nghe thằng Mỹ lợn lòi đó, thấy nó hao hao cái giọng ồ ồ thằng quan tư Rô Bớc tôi đã gặp năm ngoái ở trại giam. Thôi đúng thằng Rô Bớc tập tễnh chân và có sẹo ở cả hai bàn tay rồi! Thằng này đã bán cái tim nó, cái đầu nó cho bộ máy chiến tranh xâm lược Hoa Kỳ, hay là nó chỉ bán đứng hai bàn tay nó thôi? Hay là nó đã hoàn toàn “sở hữu” về đầu về tim về tay nó, đã bán tất cả cho Giôn Xơn rồi? Nhớ lần gặp nó, nó cứ bai bải mà chống chế: “Tôi chỉ là người thừa hành một cái lệnh, thừa hành nhiều cái lệnh tôi đã nhận được”.
Bọn phi công Hoa Kỳ tội phạm chiến tranh bị bắt sống bị cầm tù ở Việt Nam, lại còn có cái méo mó Hoa Kỳ về sự hí hước, nên chúng nói lóng với nhau, đặt tên riêng cho mọi trại giam chúng trên miền Bắc là Khách sạn Hin Tơn Hà Nội [1] .
Tôi cũng chưa hình dung ra được cái cách ăn ở tại Khách sạn Hin Tơn nó như thế nào ở các nơi khác trên thế giới. Nhưng qua một buổi mơ chưa cất cơn trước Sở thú Hà Nội, tôi như thấy hầu hết phi công Hoa Kỳ đang găn gắn xì xụp ăn uống ngay trong một dãy nhà sắt mà người ta chỉ dành riêng cho những con vật dữ nhất. Tất thảy phi công tù Mỹ Hoa Kỳ, kể cả mấy thằng đánh trộm nhà máy điện đèn ta bắt sống trên hồ Trúc, tất cả chúng nó tôi đều muốn cho chuyển hết vào Sở thú Hà Nội. Thằng Pi Tơ, thằng Đơ Vít, rồi En Tơ Ri, Ri Sa, Ơ Lơ, Ê Lan, rồi Mích, Sác, Giôn, Gim, vân vân, tất cả những con thú ấy, nay nên đưa hết chúng vào cái “Khách sạn Hin Tơn Bách thú” này này.