
Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi
Tổng số chương: 17
Giôn Xơn mỗi lần gửi thêm phi công Hoa Kỳ sang thử lửa của Việt Nam thường ấp úng không nói rõ cho phi công nó biết đích danh địa điểm. Chỉ nói là đi Đông Nam Á. Sang đến Đông Nam Á rồi, đóng ở căn cứ Thái Lan rồi, đóng trên hạm đội VII rồi mà mỗi lần sắp đi đánh Việt Nam, thằng chỉ huy phổ biến mục tiêu cho thằng bay cũng giữ kín. Thằng bay chỉ được biết rõ hướng bay và mục tiêu Hà Nội, nhiều khi nó gọi tránh đi, không gọi tên mà lại gọi theo vị trí địa lý, gọi theo tọa độ “21 độ vĩ tuyến Bắc, 105 độ kinh tuyến Đông”. Tâm lý chung của phi công Mỹ là không thích bay vào Bắc Việt Nam. Nói lóng với nhau, chúng đã gọi Hà Nội là “tọa độ lửa” vì nhiều tên đã hút chết bởi lưới phòng không của Hà Nội.
Tôi tới thăm trận địa phòng không của tuyến lửa Hà Nội, nhìn súng cao xạ, bưng thử những viên đạn to bằng bắp vế, mà lại cứ nhớ cái hình tượng “tọa độ lửa” do phi công Mỹ “kính tặng” cho Hà Nội. Những chiến sĩ cao xạ thành Hà Nội rất nhiều người trẻ, trẻ quá. Có anh lại xinh như một cô gái quê đen giòn cái nước da bánh mật, một thứ đen giòn của gió nắng trận địa ngoài trời một trời lửa Hà Nội. Tôi kể cho anh nghe rằng phi công Mỹ nó gọi Hà Nội ta là “Tọa độ lửa”, anh cười ngay: trên khuôn mặt đen chắc, hàm răng trắng lóe nhanh như một làn chớp lành. Tôi lại bảo “đơn vị cao xạ ta mà làm kịch để dân vận địa phương, anh đóng vai nữ được đấy”, thì anh lại vẫn cười. Đâm thèm cái cười lành của anh pháo thủ trẻ. Có lẽ sau một ngày luyện pháo cật lực, lúc ngủ say, mặt anh cũng tươi giống đóa hoa như lúc tỉnh mà cười này. Và lúc anh không cười, ấy là những lúc giặc Mỹ lái máy bay luồn lách vào trời thủ đô, anh tập trung nhỡn lực vào đầu đại bác đang bắt lấy mục tiêu phản lực Mỹ.
Ở đơn vị cao xạ đây, người Hà Nội có, người Huế có, người Sài Gòn Lục tỉnh có đủ. Ngồi ở trận địa phòng không bờ sông Hồng mà nghe các anh ấy kể chuyện sông Hương phong trào Huế, sông Bến Nghé phong trào Sài Gòn mà thấy nóng lòng sốt ruột quá chừng. Chà, con người “thành đồng tổ quốc” đáng cho ta lạc quan lắm, nhưng cuộc sống Sài Gòn nay bị Mỹ nó phá quá chừng. Nam bộ làm ra thóc gạo, mà nay Sài Gòn phải ăn gạo Hoa Kỳ nó chở qua. Phố Tự Do Sài Gòn bây giờ đĩ mặc quần nilông hiện ra cả giữa ban ngày. Sự sống Sài Gòn nay nhất đĩ nhì Mỹ, Mỹ và đĩ là cùng một vần. Bảng giá trị xã hội Sài Gòn nay là “nhất Mỹ, nhì đĩ, tam sư, tứ tướng”. Hôm nào thanh toán xong bọn Mỹ mà cùng lên đường vào Huế Sài Gòn cùng một chuyến xe tàu! Còn đường sắt Xuyên Việt lúc ấy rồi nối lại cũng chóng thôi. Thêm nữa đường bể, đường mây rồi tha hồ phát triển. Tàu bể mất bốn ngày, tàu bay ba bốn tiếng đồng hồ. Tình hình Sài Gòn nay khá lắm. Mà tình hình Huế thì càng khá hung. Hôm 29 tháng 6 vừa rồi, Hà Nội bắt sống quan ba tàu bay Mỹ thì, cũng ngày đó, Huế diệt gọn một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ. Mùa xuân quân giải phóng Thừa Thiên diệt đồn A Xầu, tin chiến thắng ấy còn là xa xa đồn vọng về (A Xầu cách Huế dăm ngày đi bộ đường trường độc đạo) chứ bây giờ thì, đêm đêm Huế vẫn nghe súng Giải phóng từ ngoại ô vọng vào. Rồi nào là phá sập cầu Phò Trạch, cầu Mỹ Chánh, đánh An Cựu, An Hòa. Hè Huế năm ni con sông Hương xưa lặng trôi như rứa mà đã cồn sóng lắm rồi. Chao ôi, tại bến Thương Bạc xinh bé của Huế cổ kính nay có những cuộc mít tinh chống Mỹ hút đến năm vạn con người, một góc tư dân số kinh thành. Trước tinh thần vùng dậy của quân dân Huế, nay luôn luôn có tiếng Mỹ kêu rên nổi lên từ cái đài tiếp âm Hoa Kỳ đặt tại Gia Lê cách chợ Đông Ba có nửa giờ đạp xe. Sân bay Phú Bài chừ nhan nhản hàng sư lính thủy Mỹ đóng giữ. Thông núi Ngự Bình vướng đường đạn. Hoa Kỳ chặt trụi. Rồi xe tăng nghiến lên các bàn thờ Phật đặt trên hè phố. Rồi thằng quan năm Hoa Kỳ phụ trách sân bay Huế tên là Uyliam lại âm mưu biến Huế thành sở mộ phu đàn bà cho các hãng chớp bóng Mỹ. Khách sạn Huế, Mỹ còn bày ra cái trò phòng tắm phải có đàn bà địa phương kỳ lưng gãi lưng cho chúng. Một o bán chè bị ép vào làm công cho khách sạn, sau một buổi kỳ lưng Mỹ, đã bỏ về bỏ cả tiền lương tháng. Và sau đó một thời gian, bà con Huế thấy o xuất hiện giữa rạp xinê Gia Hội, miệng thì nói loa xôni tay thì rải biết bao chiếc nón bài thơ rất cổ truyền của Huế cổ điển, đã thấy in hằn lên những dòng khẩu hiệu “American go home – Mỹ cút đi”. Tà áo dài cô nữ sinh nào cũng buộc đá vào chéo lụa mà trở thành cây thiết lĩnh quật vỡ tất cả cửa kính thư viện Hoa Kỳ. Những trò nữ liền cùng trò nam nổi lửa lên mà đốt cháy rụi đống sách yêu ngụy của giặc Mỹ. Thấy càng bồi hồi nghĩ lại cái buổi sơ đầu Huế nhen lửa phong trào, có chị En cắt món tóc mây để in truyền đơn cứu quốc. In xong, cặp vợ chồng En đi rải truyền đơn chống Mỹ, chồng đạp xích lô, vợ ngồi trên xe mà rải…
Câu chuyện Huế liền được tiếp theo bằng nhiều mẩu chuyện chiến đấu của Sài Gòn bất khuất. Và anh cán bộ Nam Bộ bèn chen vào luôn: “Anh Nguyễn Văn Trỗi có những ngày đã làm nghề xích lô tại Sài Gòn”. Liền có nhiều tiếng pháo thủ trẻ quê ở Hà Nội cùng nói một lúc: “Bộ tư lệnh Hà Nội vừa biểu dương thành tích của một bác xích lô thủ đô Hà Nội tải đạn từ kho đến trận địa suốt hai ngày mà không chịu nhận tiền thù lao”.
Trời nắng quá. Ngoài kia tường đất của trận địa pháo là cánh đồng bao la. Nóng. Quanh trận địa có những em bé đang mò cua bắt ốc. Cua lổm ngổm bò cả lên chân tường trận địa. Một pháo thủ chỉ các em bắt cua: “Những hôm nắng to mà lại bắn liền tay, liên hồi, chỉ mong cái bát canh cua đồng mát ruột”. Thực ra ở đơn vị này không thiếu thịt gà, mỡ lợn. Con lợn to tướng đang khệ nệ đi lại chỗ phía rađa kia, các anh ấy bảo cân đúng hai tạ thịt đấy. “Nhưng mà không muốn thịt. Vì nó ở lâu với đơn vị, chuyển đi đâu nó đi tới đó. Lại quen cả súng nữa. Mỗi lần đánh Mỹ nổ xé trời như vậy, mà nó không sợ chạy, nó vẫn quẩn quanh trận địa mà ngoe nguẩy cái đuôi trông cũng hay ra phết”.
Qua cầu Long Biên, mình cứ bận tâm đến mấy đơn vị pháo đặt trên nóc cầu, ngày đêm thường trực trên đó mà canh giữ mặt sông cùng là góc trời. Trên tít cù lèo nóc cầu sắt, gió nhiều mà nắng cũng quá nhiều. Thế mà đơn vị lại còn trồng được cả hoa mười giờ nữa kia đấy. Cơm nước đều kéo dây cho con ròng rọc rút lên, bát canh cua đồng cũng ròng rọc. Nước tưới cái khóm hoa tý ngọ đỏ chói ấy, hẳn lại cũng kéo lên bằng ròng rọc.
Trước mặt, cách cái bàn độc độ một thước, trên một cái ghế đẩu của trại giam, quan ba Nin Giôn đang xòe bàn tay, giơ cánh tay ra kéo cánh tay vào diễn lại cho tôi xem một động tác thông thường trong buồng lái, nào là tránh né, luồn lách ra sao, nào là ấn đạn và cắt bom như thế nào. Nay coi Nin Giôn như chỉ còn lành lặn một tay phải – hôm nhảy dù chí tử xuống để mà đầu hàng – Nin Giôn cũng chỉ giơ lên trời Hà Nội được có mỗi một cánh tay phải đó mà thôi. Cánh tay trái bị gẫy không rõ là vì bị đạn phòng không bắn lên, hay là vì bị đập vào thành máy bay lúc vọt ra, tôi không hỏi. Trên và dưới khủy tay trái đều bó bột, cánh tay đeo lên cổ bằng những vòng vải băng trắng. Tôi lúc đó giống như một ông máy quay phim đang tìm mọi cách quay đặc tả phóng đại về cánh tay và bàn tay Nin Giôn đối diện, để thấy cho kỹ hơn nữa về cái chiến lợi phẩm sống này của Hà Nội chống Mỹ. Tôi nhìn hắn, hắn nhìn xuống bàn tay hắn, và trong đầu tôi phục hiện lại trận Hà Nội đánh thắng không quân Hoa Kỳ ngày 29-6-1966. Hôm ấy mới thật biết súng và đạn thủ đô ta nhiều thật. Lửa căm thù bốc cao, súng không ngớt rền. Gió vẫn thổi, nhưng bầu trời ngoại ô Hà Nội, cứ đặc đen rất lâu những nòng khói mồ hóng của cao xạ, trong hoa khói ánh ánh những nhân lửa nhị lửa lấp lánh cả giữa ban ngày. Buổi trưa hôm ấy nắng lắm. Nắng to và nước sông Hồng cũng đang lên to. Đánh cả giặc nước, đánh cả giặc trời, người Hà Nội sẵn sàng chống thiên tai phòng hộ đê lũ, và đã sẵn sàng chống Mỹ thật là cụ thể. Mỹ hôm ấy đã thấy thế nào là lửa của người thủ đô, thế nào là đòn súng của quân dân thủ đô canh giữ một góc thành Hà Nội. Chớm vào vòng ngoài thủ đô, Mỹ hôm ấy rụng luôn bốn chiếc phản lực. Thiệt máy bay, mất người lái. Giôn Xơn sau hôm đó còn bị nghe chửi cứ tối cả mặt mũi lại. Cả thế giới chửi. Thấy ta họp báo chí trong nước và ngoài nước tại Hà Nội để đưa ra giữa hội nghị một thằng quan ba phi công Mỹ vừa tóm được giữa trận đánh, hôm ấy thằng Giôn Xơn cũng họp báo ngay tại Hoa Kỳ. Cùng là họp báo nhưng Hà Nội họp báo để vạch tội ác Mỹ (và minh họa ngay bằng thằng tù phi công lù lù đứng cúi đầu giữa hội nghị kia kìa) còn Hoa Thịnh Đốn thì họp báo để nghe Giôn Xơn tự gỡ tội, thanh minh một cách ấp úng, lúng túng. Quân dân Hà Nội đã từng chiến thắng đế quốc Pháp với truyền thống hào hùng của Trung đoàn Thủ đô của mình, hôm ấy thật là hả dạ khi đánh gục bốn con ma thần sấm phản lực Hoa Kỳ. Càng hả dạ hơn nữa khi bắt sống ngay người lái của nó. Lại càng hả hê hơn nữa khi thấy giải thằng quan ba Mỹ khốn kiếp đó qua phố Hà Nội. Cùng trong một ngày, buổi trưa bắn Mỹ, buổi chiều lùng bắt Mỹ, và vừa mới bật đèn đường, đã cho áp giải ngay thằng giặc Mỹ qua phố nhà mình, người Hà Nội quả là có một phong cách làm việc thật rất chi linh hoạt và kịp thời. Bên kia ngoại thành đang còn phải dập tắt đống lửa tội do phi đội Hoa Kỳ vừa gây nên, thì bên này nội thành đã hội nghị thông tin, và giữa cái phòng họp sáng trưng đang ngùn ngụt ý kiến về chiến tranh (cụ thể tại Việt Nam) và hòa bình (giả vờ của Hoa Kỳ) thì đã thấy giải vào một thằng tù Mỹ mặt như chàm đổ. Vâng, đúng nó, nó là quan ba phi công Nin Giôn, phải, đúng cái thằng bay trộm vào bên kia sông giữa trưa hôm nay đấy. Nó bắn ta, ta bắn nó, vây nó suốt cả buổi trưa hôm nay đấy. Nó đã cúi gục xuống, nhưng người nó vẫn còn cao lêu nghêu với một cái đầu húi cua lối bàn chải. Môi nó rề hẳn ra, không phải vì dè bỉu gì ai ở đây (bố nó cũng chả dám nữa) nhưng vì là cái mặt nó sinh ra với cái tật môi như thế. Nó mặc một bộ quần áo ka ki Mỹ chính cống, cả quần cả áo không có tí khuy khuyết nào, mà mép quần, mép áo, mép túi toàn là đóng mở bằng răng cưa tia-rét mạ kền. Trong bộ áo đánh nhau ấy, mồ hôi nó vã ra, như một con bệnh thoát dương.
Không nói hẳn như thế, nhưng người dẫn nó vào phòng họp có vẻ như nói với hội nghị đông đủ báo chí nước ta và nước ngoài rằng “xin được trình với quý vị thấy rõ cái mặt thằng ăn cướp Mỹ này”. Cái tiết mục Hoa Kỳ đó thật là “hấp dẫn”, cả người thằng cướp còn nồng khét mùi cháy nhà, và nóng hổi cái mùi thời sự trong ngày. Nhưng mà lôi nó ở đâu ra, tóm nó ở đâu về? Ấy, cho giải về từ phía Đông Anh ngoại thành đấy. Cho nó lên xe tải giong qua gần đủ ba mươi sáu phố phường. Trên thùng xe tải bỏ mui trần, nó như thằng bị chôn đứng, bốn góc xe là bộ đội mình lưỡi lê tuốt trần. Theo sau xe tải tù, là một xe khác chở đèn pha, lửa chói đèn xe sau hắt té vào mặt và nửa thân thằng tù Hoa Kỳ. Gái trai trẻ già, khu xa ngoại vi kéo về khu gần nội vi đổ ra, cả dân, cả quân, cả người có tham gia trận đánh Mỹ trưa nay, cả người chưa nổ phát súng nào trưa nay, tất cả, tất cả Hà Nội đều đổ ra mép đường mà xem mặt giặc. Cái khí thế quần chúng căm thù Mỹ mỗi phút một bừng bừng, nổi dây chuyền mãi từ một ngã tư phố này đến nhiều ngã tư phố khác. Và tối đó, quan ba Móc Phi Nin Giôn đã tận mắt được thấy rõ sự phản ứng của Hà Nội đối với một thằng ăn cướp như mình. Không biết tiếng Việt Nam nhưng Nin Giôn cũng biết rằng những lời nói to, ngắn, rền, mạnh kia không thể nào là những lời hoan hô mình. Mà rõ quá rồi, còn phải phỏng đoán gì nữa. Bánh xe tù lăn chầm chậm, chậm hơn bước chuyển của xe đòn đám ma, bánh lăn tới đâu là những ngón tay đều chỉ theo và tập trung ngón trỏ thẳng vào mặt Nin Giôn. Có nhiều quả đấm cánh tay rung lên và phóng thẳng vào xe tải. Tù Mỹ càng thấy rõ ràng nếu không có bốn chiến sĩ quân đội giữ gìn bốn phía chung quanh nó, thì nó có thể bị ốm đòn vì cơn phẫn nộ của một thủ đô kiên quyết chống Mỹ. Tù Mỹ được đi “xem Hà Nội” mấy vòng rồi mới dẫn thân tội vào phòng họp báo.
Nó đứng thộn ra ở một góc phòng họp. Không ai thèm nói gì với nó. Trên sự lặng thinh ấy, chỉ nghe lách tách lè xè tiếng bấm ảnh và quay phim. Bỗng cất lên cái tiếng của thằng quan ba Nin Giôn tội phạm. Đây là những lời thú tội sơ bộ của nó đã ghi gọn vào cuốn băng thu thanh đang nhá vòng. Xong cuộc trình diện, tù Mỹ lại được đi phố một vòng nữa rồi mới vào hẳn trại giam thay áo. Và thay số, dĩ nhiên. Con số cũ Hoa Kỳ của nó là ER 69.506.
Ngoài cái số thuốc lá thừa hút trong một buổi gặp riêng đã bày bóc sẵn ở bàn cùng với kẹo và bia, tôi đã cho phi công Nin Giôn riêng một gói “Điện biên”: “Tôi cho anh đấy, bỏ túi mà mang về phòng giam”.
- Tôi cho anh gói thuốc, nhưng tôi không bắt tay anh, anh thấy sao?
- Tôi hiểu rằng ông không muốn bắt tay một người mà bàn tay đã cắt bom trên thành phố của ông.
- Anh đoán xem tôi gặp anh để làm gì?
- Ở dưới trại giam có cho tôi biết tối nay tôi sẽ gặp một nhà văn. Tôi chắc là ông muốn biết xem tôi đã tham gia chiến tranh như thế nào? Và tôi đã sợ hãi như thế nào từ khi nhảy dù xuống. Thưa tôi chỉ là một quân nhân nhận một mệnh lệnh và thừa hành nó.
- Anh nên nhớ rằng, tòa án Nua Răm Bơ không phải chỉ xử Hít Lơ vắng mặt (vì chết) mà còn xử rất nhiều tên chỉ là thừa hành của phát xít Đức. Nhiều tên tội phạm chiến tranh ấy cũng đóng lon sĩ quan như anh. Hình như khi bị bắt, tên phát xít nào cũng cho là tội mình không đáng chết… một tuần lễ sau khi anh bị bắt tại mặt trận quanh Hà Nội có một cuộc giong tù Mỹ lần thứ hai cũng giữa Hà Nội, chiều tối ngày 6.7.1966. Lần thứ nhất chỉ cho giong qua phố có một mình anh. Lần thứ hai kia, giải đông hơn, đi bộ chứ không đi ô tô qua phố như anh. Anh có những ý kiến gì về cuộc giải cả một đoàn phi công tù Mỹ qua phố Hà Nội – Hà Nội mà Giôn Xơn dọa là phải san bằng đi?
- Hôm giải rất đông phi công tôi không có mặt. Tôi chỉ nghe người bạn đồng phòng của tôi kể lại. Nếu tôi mà lại được giong qua phố Hà Nội một lần thứ hai nữa với đoàn đó, thì cảm tưởng của tôi sẽ không khác gì mấy với những cảm giác của tôi trước đây, trong chuyện bị giải phố ngay sau trận đánh Hà Nội. Tức là rất lo sợ rằng đông đảo quần chúng trên phố họ giận dữ một cách chính đáng thôi – sẽ cướp chúng tôi khỏi tay quân đội đang bảo vệ trật tự và che giữ cho sinh mạng chúng tôi. Cái cảm tưởng ấy của riêng tôi cũng là cảm tưởng chung của những người bạn xấu số của tôi bị giong qua phố Hà Nội chuyến thứ hai đó. Cũng như tôi, sau chuyến được công khai ra mắt với nhân dân Hà Nội sau khi qua những phố phẫn nộ của Hà Nội, tất cả bọn tôi đều mừng rỡ khi được về trại giam của mình.
- Anh thấy thủ đô Hà Nội như thế nào?
- Trước đây, đọc tài liệu mỏng, biết Hà Nội có người Pháp đóng quân rồi sau Điện Biên Phủ thì không còn người Pháp nữa. Cho đến hôm đánh nhau với Hà Nội và Hà Nội nhiều kiểu bắn lên thì mới thấy Hà Nội, thấy nó theo đường bay của mình. Hôm bị giải đi mới thấy tận mắt rõ hơn. Hà Nội có phố bé, có phố to – mà nhỏ to thì phố nào cũng nhiều cây xanh như trong rừng. Nhưng đèn tối.
Nin Giôn có nhiều lúc cười mép cười môi và cười mắt, đôi khi đưa tay cản yết hầu như tìm cho gọn một câu nói khít với ý mình. Tôi đã định bảo hắn: “Anh thấy ánh sáng Hà Nội phòng thủ chiến tranh tối quá, cần thắp sáng trưng lên để ban đêm không quân Hoa Kỳ dễ bắt mục tiêu hay chăng?”. Nhưng tôi lại thôi. Tôi chỉ nói một mình: “Đèn Hà Nội chống Mỹ tối”.
Nin Giôn vội vàng chữa:
- Nhưng Hà Nội có nhiều tòa nhà xứng đáng với một thành phố lớn.
- Hãy kể một số nói về đời anh.
- Tôi 28 tuổi, sĩ quan thường trực, quan hai năm 1961, quan ba năm 1964. Thuộc đại đội 333 đóng ở Tắc Ly Thái Lan. Tôi có 6 mề đay; 1 vợ và 2 con. Đã đóng đã bay ở Nhật Bản, Triều Tiên, Phi Luật Tân, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Tây Ban Nha (nó ỉm hẳn đi cái vụ bay nhiều giờ nhiều ngày trên biển Caraip để dọa Cu Ba cách đây vài năm)… Tôi là sinh viên đại học Tu Tên đầu tiên định học về y, sau chuyển sang khoa xã hội và khoa địa chất.
- Rồi chuyển sang khoa hàng không xâm lược?
- Vâng, tôi vào không quân, vì không có đủ tiền ăn học. Nếu trở về quê hương, tôi sẽ đi học lại về khoa y.
- Có phải vì đang bị thương ở tay trái mà anh nghĩ đến khoa y?
- Cũng có phần vì bị thương ở cả chân ở cả tay mà muốn được học thuốc. Thêm nữa, tôi được học cái môn học mà ngày đầu tiên vào đại học tôi đã muốn theo. Làm thầy thuốc thì bất cứ ai cũng phải cần mình.
- Nếu được trở về quê hương Luisiana mà vẫn không khỏi và không cách nào chữa cho hoàn toàn bình phục cái tay trái thì anh sẽ làm gì?
- Thì tôi sẽ nhân danh một phế binh Mỹ mà xin chính phủ Hoa Kỳ cho tôi đi dạy học. Hoặc cho tôi làm người gác cổng sân vận động.
Đội bóng là môn thể thao sở trường và hứng thú nhất của Nin Giôn. Sau khi Nin Giôn bị hạ xuống quanh Hà Nội, báo Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn và Niu Do đều có đăng ảnh Nin Giôn, ảnh lúc làm cầu thủ đội bóng trường Đại học Tu Tên trông điển giai, song song đối đăng với cái ảnh căn cước ngồi tù Việt Nam trông nó tiu nghỉu quá. Ngắm kỹ quan ba phi công Mỹ Nin Giôn đang treo tay trái bó bột lên cổ, tôi không khỏi nghĩ đến cái thứ cuộc đời Hoa Kỳ của Nin Giôn này và của tất cả Nin Giôn khác bị cầm tù ở Việt Nam bay vung cả thiên hạ lên, đem sự chết chóc theo với đường bay và, bay đến đâu thì cuộc sống khắp nơi chống lại đến đấy, rồi cuối cùng sụp cánh trên đất thiêng Việt Nam. Vết thương ở cánh tay bọn làm nghề bay thuê, bom thuê lấy tiền như Nin Giôn này và đồng bọn bị tù, sẽ lành được hay sẽ thành tật nguyền và buộc chúng phải đổi nghề? Những cánh tay tội ác này đã giải quyết được vấn đề. Tay nó, nhưng còn cái đầu nó, và cái đầu não hiếu chiến của đế quốc Hoa kỳ thì sao? Hừ, thằng quan ba Nin Giôn kia, nếu từ nay trở đi, mặc dù chăm sóc và chữa chạy đã hết thầy hết thuốc mà mày cứ là thằng què thì mày chớ trông mong gì vào sự thương tiếc của tao đâu nhé, tao nói thẳng cho mà biết thế. Cuộc sống quanh mày, quanh chúng mày đã có bao nhiêu người cụt người què người thiệt mạng mày có chịu nghĩ tới không? Mày giết người quy mô như thế, chỉ có ở tay bị thương lại được buộc thuốc, nhưng đầu mày vẫn còn nguyên, thế là phúc bảy mươi đời nhà mày rồi.
- Này Nin Giôn, sau hôm Hà Nội giải tù Mỹ, dư luận của giới tư bản nhất là ở Hoa Kỳ xem ra ỏm tỏi lắm. Về chế độ tù binh quy định do điều 13 của công ước Giơ Neo ký ngày 12 tháng 8 năm 1949 anh có ý kiến gì không?
- Giá có một bản tuyên bố đánh nhau chính thức với Bắc Việt Nam thì chúng tôi sẽ được hưởng chế độ tù binh, tôi nghĩ thế.
Nin Giôn đã trả lời sau một lúc lâu liếm cái môi rề, tay luôn luôn rờ vào cổ lộ hầu, mất hẳn cái lối cười cười ban nãy, nó dễ che đậy cái chất ác của nó đang hiện lên qua khuôn mặt tắt cười.
- Anh lầm rồi. Cái chế độ áp dụng đối với anh sẽ tuỳ thuộc vào thái độ của anh. Anh mới đúng là con người chính để góp vào cái chế độ ăn ở của anh. Giôn Xơn đánh ngầm đánh trộm Bắc Việt Nam hoặc có tuyên chiến qua giấy tờ, thì vấn đề chế độ đối xử tù Mỹ vẫn là do Việt Nam chúng tôi. Vậy anh cần Giôn Xơn công khai tuyên chiến?
- Về chính sách đối ngoại của chính phủ Hoa Kỳ, tôi là một quân nhân, tôi không dám có ý kiến gì.
- Anh tấn công vào Hà Nội từ căn cứ Tắc Ly bên Thái Lan? Anh ở Tắc Ly lâu? Quen nhiều người?
- Tôi ở căn cứ Tắc Ly mới có năm ngày, từ căn cứ Yôcôta Nhật Bản chuyển tới. Trong năm ngày tôi đã làm quen và nói chuyện với hai mươi nhăm người cùng làm nghề lái phản lực. Và biết rằng trong số này, đã có nhiều người bay sang Bắc Việt Nam. Biết là có một số đã bị chết cháy cùng máy bay, một số chết vì nhảy dù không mở. Lại một số khác tàu bay có bị thương, người lái cũng có bị thương nhưng vẫn cố lái được về căn cứ Tắc Ly. – Nin Giôn cười cười mà nói tiếp – Người ta ở Tắc Ly thường thường cho những phi công bị đạn mà vẫn chưa chết, vẫn lao được về căn cứ Thái Lan là những tay cũng khá trong nghề. Nhiều người bay đi mà không bay về, những hôm như thế không ai muốn hỏi ai. Bay đi Bắc Việt Nam ngần ngại hơn là bay đi Nam Việt Nam. Ở Bắc, ở Nam cũng đều là đánh phá xuống như nhau, nhưng ở Bắc khó hơn, mỗi ngày mỗi khó hơn. Bay đi, không ai muốn chết, nhưng đều mong bị thương. Bị thương không nên nặng lắm, nhưng đủ để vào bệnh viện và như thế sẽ được sớm trở về Mỹ của mình hơn. Tâm lý của mọi người ở căn cứ Tắc Ly là chóng hoàn thành con số một trăm vụ bay, rồi về nước. Tôi nhập ngũ tháng sáu 1960. Tôi sẽ mãn hạn vào cuối tháng chạp năm 1966 này.
- Tức là khóa lính của anh sẽ mãn vào dịp Nôen năm nay. Nôen năm ngoái các trại giam miền Bắc có tổ chức đêm Thiên chúa giáng sinh, có cành thông, có gà tây rán, mục sư và các cha Việt Nam có làm lễ cho nhiều phi công bị bắt trước anh. Lễ Nôen sắp tới của anh chắc chắn là vẫn quanh quanh Hà Nội này thôi. Đồng bọn của anh có người đã chịu hai ba lễ Nôen tại Hà Nội rồi đấy.
Mặt Nin Giôn bỗng buồn buồn rồi thoáng một cái, lại tươi hẳn lên. Nếu tôi phân tích mà không sai, thì Nin Giôn buồn vì thấy rằng Nôen tới đây mình vẫn là cái số phận một thằng tù, tình hình chưa có gì thay đổi cho đời mình. Nôen 1966 tới vẫn thế này, và Nôen sang năm 1967, rồi ra sẽ là Nôen hòa bình cho thế gian hay vẫn là Nôen của Giôn Xơn tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh ở Việt Nam này. Nhưng Nin Giôn lại tươi vui lại được ngay, vì dù Nôen có thế nào đi nữa mình vẫn còn là được sống, chứ không phải ra tòa chịu án nặng, như là bọn bạn nó thường bàn tán và dọa dẫm hắn từ sau cái hôm Hà Nội giải tù qua phố. Nin Giôn nheo nheo một mắt, lại nhếch mép cười cười bàn về Nôen:
- Tôi theo đạo Tin Lành. Nôen đối với chúng tôi có một ý nghĩa quan trọng. Nôen ở Mỹ, tôi nhận được nhiều quà, gặp gỡ nhiều bạn bè, ăn nhiều món ăn đặc biệt của ngày đó. Nôen cuối năm nay, tất cả chúng tôi trong các trại giam Bắc Việt Nam đều mong chịu lễ của mục sư Hà Nội, và xin cầu nguyện để chấm dứt chiến tranh, xin cầu nguyện để cho hòa bình được trở lại.
- Xem ra người Mỹ các anh chúa là hay đùa hỗng với hai chữ “hòa bình”. Ví dụ ở khắp các căn cứ không quân Hoa Kỳ, đều có treo một tiêu ngữ của “chỉ huy chiến lược không lực”. Tiêu ngữ ấy cắm ở ngay các cổng sân bay toàn máy móc chuyên đi giết người và phá tan mọi công trình xây dựng của con người. Trên tấm biển SAC to tướng các anh trịnh trọng đề “Hòa bình là cái nghề làm ăn của bọn ta”. Anh có ý kiến gì về sự khôi hài thảm hại đó không?
Nin Giôn nín lặng, như cái vẻ muốn đưa ra cái câu láu cá cố hữu của tù Mỹ bị hỏi dồn phải gỡ bí: “Tôi là một quân nhân Hoa Kỳ không được phép trả lời về những câu hỏi như thế”.
Gặp phi công Mỹ ở trại giam rồi ra về, lần nào cũng thế, thường là mất hẳn đêm đó, coi như không ngủ nữa. Thêm nữa ếch nhái, ễnh ương quanh nhà kêu to quá. Rất nhiều cái giống này trong các hầm hố đào đắp từ ngày chống Mỹ. Giữa lòng nội thành, nghe ếch càng canh cánh về ngoại ô ngoại thành mở rộng. Đêm Hà Nội của tôi kéo dài trên cái bản lý lịch của đại uý Murphy Neal Jones, của thằng Nin Giôn, cái chiến lợi phẩm sống của Hà Nội chiến thắng Mỹ.
Hồ Tây và Hồ Gươm là hai lá phổi rất cần cho nhịp thở hàng ngày hàng đời của Hà Nội. Thật sớm hoặc thật chiều, cho xe đạp tua một vòng hồ, ấy là thói quen của khá nhiều người thủ đô mở ra và khép lại một ngày lao động xã hội chủ nghĩa của mình. Từ khi Hà Nội chống Mỹ, “Thăng Long phi chiến địa” (phi chiến hiểu theo nghĩa đánh tàu bay) (đánh bằng tàu bay) và rồng bay trên Thăng Long (nhân dân hay gọi tên lửa là rồng lửa bay) người ta vẫn không ngớt dạo hồ. Có những ngày, đường quanh hồ đông như chợ hội, mặc dù là còi báo động nổi lên tắt đi, lại nổi lại tắt hàng ba bốn lần. Quanh hồ, chỗ nào mà chả có hầm. Mũ nùn rơm thời thượng chống mảnh đạn nhan nhản đi trên đường. Cữ này chả gặt xong lúa ba giăng, sẵn rơm mới, ngoại thành vặn mũ rơm chống Mỹ gánh qua các cửa ô đem vào tiếp tế cho nội thành: năm hào một chiếc (rẻ hơn một con chim ngói) cái kiểu mũ bùi nhùi mỗi ngày một chuyển phoóc và cái dáng nó nhẹ nhõm mãi không ngừng, cho nó hợp với cái kỹ tính kén lựa của người Hà Nội. Những cái hầm trú ẩn giữa tim thành phố quanh hồ, đào tốt xây chắc rồi nhưng lại còn phải đẹp mắt nữa, phải phủ cỏ lên cho nó thật là xanh mượt lên một niềm hy vọng. Thủ đô mấy đợt sơ tán đã ra trò, vậy mà vẫn cứ đông. Báo động thì vào hầm, tàu nó láng vào trời mình thì tất cả cùng bắn, người nào việc nấy, việc xong thì uống bia quanh hồ, ăn bánh tôm cũng quanh hồ.
Cạnh Hồ Gươm, chỗ phố Trần Nguyên Hãn đâm thẳng vào hồ, có một cây lộc vừng, tán tròn, um tùm thấp dáng như cái thế một gốc vải cổ thụ. Và cạnh nó, cả một khóm hàng chục gốc lộc vừng nửa ngả lưng xuống mặt hồ. Lộc vừng là thứ hoa nhị độ, mùa xuân ra hoa rồi sang kỳ thu phân lại trổ hoa một lứa nữa. Lúc nó ra hoa thì trông mà thấy yêu đời tin sống vô cùng. Có lúc tôi nghĩ lẩn thẩn rằng nếu trong xã hội lành mạnh chúng ta mà còn có người nào dọa chết thì không ai nỡ lòng treo cổ mình vào cây lộc vừng này, để gieo vạ cho một gốc cây đẹp nó đang đằm thắm độ ra hoa. Hoa tía như kết chỉ tơ điều, dính vào những dây tua, nó đúng là những tua lọng thõng buông xuống từ lòng một cái tán tàn xanh đặc. Lộc vừng vừa nở vừa tạ bên hồ Gươm, cỏ mép hồ phủ hoa, ngồi phía Thủy Tạ nhìn sang, cứ như bờ bên kia vừa có cái đám cưới nhà ai nổ bánh pháo vừa đi hết khói. Mặt hồ sát gốc, liền diễn ra cái cảnh “hoa trôi giạt thắm”… Từ ngày chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, gốc lộc vừng đã bốn lần ra hoa. Tôi ngồi cạnh hầm, nghe báo động đã giả lại còi yên, vừa đếm hoa rụng trong gió heo, vừa nghĩ lùi lại những năm Hà Nội phòng thủ thụ động. Nhật đánh Pháp, hất Pháp rồi Mỹ lại đánh Nhật ném bom vào ngay cả nội thành Hà Nội, ở ngay nhà Đấu Xảo, ở ngay đầu Hàng Đẫy, ở ngay cả bãi chợ Hàng Da. Cái kỳ bom đạn Mỹ, Pháp, Nhật ấy, hình như ai cũng lo tháo thân lấy một mình, hình như lòng ai cũng nổi lên một góc chợ đen. Chưa cần bom rơi mà giá người đã lộn tùng phèo.
Ấy, hai mươi bảy năm trước, tôi đã bắt đầu ngồi dưới bóng hoa mấy gốc lộc vừng đó. Mấy chương tuỳ bút “Những ngọn đèn xanh… và những nhịp còi” ghi lại mấy nét thủ đô hồi đại chiến thứ hai, là khởi hứng cũng từ dưới bóng cái gốc già kia. Người quen tôi ở cái thời ấy, nhiều người đã mất tích khỏi Hà Nội, nhiều người đã qua đi như một cái gì không ai níu lại kịp. Sau gần ba chục năm, dưới cái tán cây sót lại đó, tôi ngồi mà ngẫm về trách nhiệm và vinh quang, cũng là chiến tranh và hòa bình. Tàu bay Mỹ vẫn bay quanh Hà Nội, xoay đủ các hướng chiều để càn lẻ vào thủ đô. Và ta đánh chặn tàu bay Mỹ, đúng là những cuộc chống càn Mỹ, bẻ gãy trận càn Mỹ, thắng càn Mỹ, và lôi thằng càn Mỹ từ trên đó xuống dưới đất thủ đô này mà trói gô ngay tại chỗ. Cũng cái còi báo động ấy, nhưng nay nó là mình kéo còi lấy, kéo còi để nổi hiệu lệnh chiến đấu. Nó hoàn toàn khác hẳn cái tiếng còi báo động hăm bảy năm về trước. Còi xưa, đúng là “phòng thủ thụ động” và thật là thiên hạ sự, cả cuộc sống lúc ấy cũng chỉ là một cái hầm mình rúc vào, ai đánh vào ai và đánh ra sao, và đánh tới đâu rồi, cũng chả ai thèm loan báo tới mình. Cứ mù tịt dưới hầm trong sự thụ động, ba thằng Mỹ, Nhật, Pháp lục đục đình đoàng trên đầu mình. Và nó còi một cái là ngày 29 tháng 8 năm 1939, dựng luôn Sở kiểm duyệt báo chí IPP. Nay thì vừa còi, vừa truyền tin về diễn biến trận chống càn, nó rơi rụng cháy gãy bao nhiêu là biết luôn trong ngày đó. Có nhiều lần vừa còi lên, vừa tàu bay mình cũng bay lên. Mình tuần thám và nghênh chiến, cảnh giới và bảo vệ lấy sự trong sáng của bầu trời mình. Có hôm máy bay mình đánh mãi ngoài vòng xa kia, nhưng cũng bay về Hà Nội lượn mấy vòng nghiêng cánh để chào thủ đô thân mến vừa chiến thắng trong ngày. Hồ Gươm mùa thu càng lộng đẹp tấm gương sáng hắt ánh lên những cánh én bạc của một binh chủng không quân đang ra đời.
Từ phía xa, Hà Chi đang tiến về phía hầm cây lộc vừng. Bà, một người Huế rất Hà Nội mà tôi cứ quen miệng gọi là cô như hồi nào.
- Nghe nói cô giờ về Bảo tồn bảo tàng?
- Dạ, được gần năm rồi. Vừa di chuyển nhiều tranh và tượng cả cổ đại lẫn hiện đại, cùng là một số di vật lịch sử. Lại còn sơ tán một số tượng Phật khỏi mấy nơi chùa cổ liệt hạng.
- Có, tôi biết những nơi nào là chỗ có giấu tượng Phật rồi (tôi ghé tai cô nói nhỏ). Tôi có anh bạn kiến trúc đã dựng sẵn mấy nơi để đón tượng và tranh của cô. Anh ấy không nói gì cụ thể về chuyện cô gửi tượng bụt, chỉ nói trống không với tôi, tôi thử ghép hai tin vào làm một, không ngờ lại đoán trúng.
Hà Chi đi rồi, tôi nghĩ mà thấy yên tâm, bình tâm vì sự sống của ta ngày càng có tổ chức. Trong cuộc kháng chiến này mình quả là có lớn lên hơn lần kháng chiến chống Pháp trước. Hồi ấy mình còn bận, đã nghĩ đâu đến chuyện cất giấu di vật lịch sử, tranh và tượng quý. Chống Mỹ, nhưng mà bảo vệ vốn cổ về tinh thần của mình nữa, làm hầm bảo vệ người, nhưng còn xây hầm riêng để cất giấu của báu nữa.
Tôi tạt vào một hiệu sách cũ ngoại văn. Thấy có nhiều người bán ra cho cửa hàng những sách cũ của mình. Những người bán đi tủ sách của mình kia đang nghĩ gì về tình hình? Có khi cũng chỉ vì lẽ giản dị là không muốn giữ nữa thì bán. Nhưng tôi đã vui hẳn lên khi thấy các hiệu sách cả mới lẫn cũ vẫn ùn ùn người tiến vào tìm lục sách cả xưa lẫn nay, mà nghiên cứu cái cũ và tìm hiểu những cái của hôm nay đây, để càng hiểu thêm cái cũ. Có cuốn sách nào hay, là y như họ lấy hết rất nhanh. Sách mà hay, giờ tung ra vẫn được giá, cô bán sách bảo thế.
Hè phố người đi vẫn đông. Cũng như lòng đường vẫn nhiều xe tải xe con. Nhiều chiếc từ các phương xa trở về Hà Nội, lá nghi trang đã khô nẫu. Chiếc nào từ thủ đô mà bắt đầu đi ra thì lá rờn xanh phủ tươi mườn mượt.
Bên lề đường, có mấy người đang chỉ trỏ những cái hầm cá nhân tròn bê tông hình ống chưa hạ thổ hết: “Cái này mà chiến thắng xong giặc Mỹ, thì rất nên chuyển về cho các xã ngoại thành làm giếng. Chồng ba ống cá thể lên nhau là được một giếng ăn rồi. Cái ống có đáy dùng thay chum”.
Hà Nội nổ súng nhưng mà Hà Nội vẫn nở hoa. Hoa trồng ngay nách hầm, đất đào lại vun luôn vào gốc hoa, luống hoa nội thành. Cửa hàng hoa quốc doanh, dân doanh góc Hồ Gươm, có cả nam nữ đeo súng trường đi mua hoa mừng cưới. Chị Êlen Lơ Manca tác giả phim Cây tre Việt Nam, vừa từ Ba Lan trở sang Hà Nội làm phim chống Mỹ, đã sốt dẻo quay ngay mấy đám cưới cô dâu mặc áo dài, chú rể vẫn kè kè súng trường. Và quanh quanh Hồ Gươm, hình như cửa hàng bia nào cũng thật nhiều đá ướp, thật là nhiều hơi nhiều bọt. Hôm nào Hà Nội nhiều báo động nhiều còi và nhất là loa truyền thanh báo tin miền Bắc hạ nhiều máy bay Mỹ, thì hình như các hàng bia quanh Hồ Gươm càng đông người vào uống. Bà đồng nát đi mót các mảnh vụn đuyra máy bay Mỹ rơi vãi ở các ven làng ngoại thành về, cũng vào quanh đây làm một vại bia bơm. Anh vặn xe tải từ tuyến lửa Khu Tư về, mui xe um tùm lá khô vàng rộm bụi đường trường tuyến lửa miền Trung, cũng vào làm luôn mấy hơi, mỗi cốc chỉ một hơi, rồi lại nổ máy đi ngay, có khi ngay đêm nay anh lại chở hàng vào Khu Tư. Bác xích lô khệ nệ bưng từng két vỏ bia ra xe mang đi đổi két mới. Trông bác hao hao cái bác xích lô Mãi tải liền hai ngày đạn cao xạ cho đơn vị đánh máy bay Mỹ (trong trận hăm chín tháng sáu dương lịch vừa rồi) mà cứ khăng khăng không nhận tiền công chuyên chở. Một anh biệt động cũ của Hà Nội 1950 – 1953 bỏ nhỏ váo tai tôi: “Này hồi tụi mình còn hoạt động trong Hà Nội chưa giải phóng, chính anh em xích lô đã có nhiều người đánh tháo cho bọn mình thoát ra khỏi các cửa ô”. Từ năm ngoái, trẻ em ở thủ đô đã theo trường theo gia đình sơ tán về các tỉnh. Nhưng từ cửa bia hơi nhìn ra vẫn thấy thấp thoáng bóng mấy em mười hai mười ba tuổi ríu rít, nách mỗi em cồm cộm một thùng lạc rang. Các em thuộc làu con số tàu bay Mỹ hạ đến chiếc thứ mấy rồi. Tuổi mấy em này, đúng là thuộc vào tuổi của Hà Nội giải phóng sau Điện Biên Phủ. Cùng ngồi một bàn với tôi là một thanh niên chiến sĩ cũ của Trung đoàn Thủ Đô. Thời toàn quốc kháng chiến lần trước đánh đế quốc Pháp, chắc anh bạn cùng bàn của tôi đây, hồi ấy cũng xấp xỉ cái tuổi mấy em bé Gavơrốt bán phá sang nọ chứ gì! Trông mấy em nhanh nhảu hồn nhiên, lại khó mà quên được những bóng dáng các chú em liên lạc ở một vài đơn vị bộ binh hồi đầu kháng chiến chống Pháp. Chao ôi, cái chú bé ở Trung đoàn Thủ đô mà dám một mình đuổi Tây mũ đỏ thì cũng là cái tuổi này chứ gì. Và tất cả các em thiếu nhi thả bò chăn trâu của 61 phường ngoại thành Hà Nội cùng là 13 trại nội thành Hà Nội theo Trần Quốc Toản dựng cờ đỏ mộ quân chống ngoại xâm, tập trận ở cánh đồng Giảng Võ ở bãi Đồng (nay là Thụy Khuê) ở Núi Voi (nay là nhà máy Bia) thì đều là cùng một lứa tuổi này chứ gì?
Và hơn chín trăm năm trước đây, Lý Thường Kiệt lập nhiều công lạ trong sự nghiệp phá Tống bình Chiêm. Lý Thường Kiệt chính là một chàng trai Hà Nội quê ở gần vườn Bách Thảo. Chàng trai Hà Nội Lý Thường Kiệt đọc toàn sách nói về phép tắc luyện quân để đánh giặc. Chàng trai Hà Nội Lý Thường Kiệt đêm đọc sách rất khuya ở phía tây thành Thăng Long và ngày ngày bày trận giả, lập doanh trại, phi ngựa bắn cung. Vua nhà Lý chọn đất Hà Nội hôm nay để dựng đô được 9 năm (cách đây gần mười thế kỷ) thì Hà Nội đã sinh ra người con trai Lý Thường Kiệt. Hà Nội xưa, hình như chỉ có chàng trai lập công lạ. Nhưng Hà Nội hôm nay đã có những cô gái thật là đảm. Sau mười hai năm giải phóng thủ đô, phụ nữ trẻ ở ngoại thành đã lái máy cày. Và đã là thuyền trưởng lái tàu thủy trên sông Hồng. Để bảo vệ thành quả lao động xã hội chủ nghĩa ở bờ phải bờ trái sông Hồng, cô gái Hà Nội rời tay lái máy cày cầm súng chống tàu bay Mỹ, bắn cả súng trường, bắn cả trung liên, bắn cả đến đại liên. Đất nước ngày nay từ Nam chí Bắc đâu đâu cũng đều nổi lửa đốt giặc Mỹ, đâu đâu cũng có sự đóng góp của chàng trai, cô gái thủ đô. Cái máu Hà Nội cũng dự phần vào thứ máu huyết trẻ của biết bao đoàn thanh niên xung phong khắp nơi, có những nơi thật là cách xa Hà Nội mỗi khi vời vợi nhìn về.
Uống bia “Trúc Bạch” chiều mùa thu, thế mà cũng ngà ngà. Thấy hồ Gươm càng lộng lẫy khí thế “nghìn năm văn vật”, cỏ trên chỏm trên lườn hầm vẫn phủ mượt một màu xanh hoài vọng. Hồ nay bờ cạp lại. Hà Nội quyết liệt chống Mỹ nhưng Hà Nội vẫn tu sửa hồ Gươm. Cảm khái mà thấy rằng yêu đẹp, có ý nghĩa là quyết tâm bảo vệ đến cùng những gì mình đã nhận là đẹp.
Này, thế mà sắp đủ 1500 chiếc máy bay Mỹ rồi nhé. Lòng hồ thu giữa lòng Hà Nội chống Mỹ, như một bầu gương sáng đã bao nhiêu buổi phản ánh lên những mình thoi phản lực của không quân trẻ tuổi Việt Nam đang vòng nghiêng cánh bạc mà cảnh giới bầu trời Hà Nội, mà chào Hà Nội mến yêu, sau mỗi lần xuất trận. Người dũng sĩ diệt Mỹ ở trời Bắc tại Hà Nội, đã đánh Mỹ bằng súng từ dưới đất bắn lên, và đã bay cả lên cao mà diệt Mỹ. Nghĩ chuyện đánh tàu bay giặc xâm lăng, quên sao được chuyện cũ. Chuyện ngày đầu ta xây dựng pháo binh, pháo binh phát lệnh tác chiến cho toàn quốc kháng chiến, pháo binh đầu 1947 hạ chiếc tàu bay Mo Ran của đế quốc Pháp ngay tại giữa bầu trời Hà Nội. Nay ta ngày cũng như đêm vít cổ bẻ cánh tàu bay Mỹ hàng trăm hàng ngàn chiếc quên sao được cái buổi ta hạ chiếc ban đầu thứ nhất đó! Thế rồi một đêm đông buốt lạnh, dũng sĩ trẻ Hà Nội vào phá sân bay Bạch Mai, đốt vèo một triệu lít xăng và đánh gục 25 máy bay Spitfire, King Cobra, Zunker, Dakota. Đêm 18-1-1950 đó, giữa lòng Hà Nội tạm chiếm, đế quốc Pháp nổi còi báo động đêm. Đêm xưa đó ta kín tiếng bò vào mà đánh tàu bay giặc. Nay, sau mười sáu năm ta đàng hoàng bay thẳng lên mà diệt phản lực Mỹ.
10.10.1966
Danh sách chương
- Ở mặt trận Hà Nội
- Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội
- Cho giặc bay Mỹ nó ăn một cái Tết ta
- Nôen Mỹ
- Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào
- Có ba phi công Mỹ đi bộ trong chợ hoa sơ tán
- Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi
- Nhớ Huế
- Sài Gòn tống Mỹ
- Bên ụ súng Hà Nội, một đám cưới phòng không
- Nó bê-năm-hai phố Khâm Thiên
- Tái bút (12-1973)
- Vụn B.52 và hoa Hà Nội chiến thắng
- Đất cùng trời toàn cõi ta, từ đây sạch hẳn bóng nó
- Vậy mà đã một năm chiến thắng B.52
- Đêm xuân năm Hổ này, nằm ngẫm thêm về bầy hổ Mỹ
- Chú Thích