← Quay lại trang sách

Nhớ Huế

Nhớ Huế, có lúc tôi lần chần nơi hè phố Hà Nội mân mê những đôi dép lốp cao su đen quai chéo, đúng kiểu Trị Thiên Huế đã chế tạo ra nó từ cuộc kháng chiến đánh Tây lần trước. Hà Nội đã khối người đi giày, nhưng đôi dép lốp Trị Thiên vẫn rất nhiều trên đường phố Hà Nội. Mười lăm năm trước đây, tới chơi nhà một anh bạn người Nga quay phim, tại nhà anh ở một khu phố Mạc Tư Khoa, trong phòng khách thấy một đôi dép lốp Trị Thiên quai chéo treo bên cạnh chiếc nón bài thơ Huế. Và tôi biết có nhiều bạn Ba Lan từ ta trở về nước, cũng đem theo một đôi dép chiến lợi phẩm Huế đô về làm lưu niệm chuyến đi công tác sang Việt Nam. Đôi dép Trị Thiên Huế ngàn vạn dặm vẫn ngày ngày làm vui mắt vui chân người bộ hành trên đường phố Hà Nội.

Kết nghĩa tử sinh với Huế, Hà Nội thật đã chí tình. Một con đường trục chính Hà Nội, con phố động mạch của thủ đô mang tên là phố Huế. Mỗi lần đạp xe qua ngõ Huế, phố Huế với một cái mũ sắt chống bom bi, tai vẫn lắng nghe cái tiếng mớm còi báo động, mà lòng thì bổi hổi bồi hồi một nỗi niềm “Kim Luông, Nam Phổ nước đổ về Sinh. Đôi đứa mình dẫu có làm răng đi nữa, cũng không đành quên nhau”. Tội ác của Mỹ đối với thành phố Hà Nội triệu phú (sinh lực thủ đô ta đã vượt quá một triệu tâm hồn), cũng mở đầu tội trạng bằng một quả rốc két phóng vào ngõ Huế. Rồi Mỹ tiếp tục ném bom phá giữa phố Huế, một buổi sáng các thầy cô giáo khu Hai Bà họp bàn về các lớp sơ tán, và ở tầng dưới đất, thì nhân dân đang xếp hàng trước hiệu thuốc tây hôm ấy bán các thứ ống thuốc sinh tố. Buổi sáng mùa hè đời đời nguyền rủa Mỹ đó, hàng chục hàng chục người phố Huế đã không được làm người Hà Nội nữa. Cô Dung mậu dịch vẫn đong rượu cho tôi, anh Hóa cà phê chõng nức tiếng vỉa hè Hà Nội cũng mất tích giữa một vùng tội ác Mỹ nơi phố Huế bay nóc mất gác.

Nức lòng với xuân Mậu Thân, Sài Goòng hẹn với Huế nhất tề đứng dậy cùng trong một đêm Tết mà nổi lửa đốt rụi sào huyệt Mỹ ngụy, Hà Nội ngàn năm như trẻ lại trong một mùa. Hà Nội đã sống những đêm xuân không thể nào chợp mắt nổi trước khi gà gáy sáng. Trong những canh xuân giá buốt thao thức, bà con đồng hương Thừa Thiên Huế mình lại càng khó ngủ. Nhiều thanh niên Hà Nội, nhất là thanh niên đường trục phố Huế, sục tới các hiệu sách mà tìm lục sách địa lý Huế.

Tôi vẫn sùm sụp cái mũ sắt đi xin được mà đạp qua phố Huế, lòng vui lúc này vẫn không hết bồn chồn một nỗi đường trường. Tính về thời gian thì đã hai mươi mấy năm nay tôi không lộn lại Huế. Tính về không gian, thì từ đây về đó, từ ga Hàng Cỏ đây, rồi liền sát cầu sắt Trường Súng đó là ga Huế, thì mất đúng 688 cây số đường xe lửa. Bao giờ nối lại đường sắt xuyên Việt? Ý niệm của tôi đối với sự nghiệp thống nhất thiêng liêng lâu dài không lúc nào nguôi gắn nó một cách cụ thể với hình ảnh con đường sắt ầm ầm hối hả sự sống ba miền.

Giữa phố Huế của Hà Nội sơ tán, thấy dòng phố như một dòng sông Hương, và thấy xe đạp chậm của mình đang như một con đò trôi miết trên dòng. Chao ôi, quên sao được sáu nhịp cầu Thành Thái và quên sao được những tiếng súng giờ giấc của thành Huế thanh bình giả vờ thủa đó. Cụ Tú Hải Văn đã có những câu nhớ Huế:

“Dã viên cây cỏ chiều êm gió

Lăng tạ lâu đài lúc tạnh mưa

Con sông có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ cái thằng đò đưa…”

Tôi nhớ Huế thì tôi tua quanh Hà Nội tìm các bạn Huế xưa và hiểu thêm về Huế nay. Chị Mừng nhắc tới cái tính hiếu sắc (màu) của Huế. Áo, khăn, quần, rất là nhiều màu, từ màu lạnh tới màu ấm, từ màu nhẹ tới màu gắt, với bao nhiêu là tên màu nó gợi cảm tới cái mức sáng tạo ngôn từ. Màu trên phục sắc, mà trên mâm ăn lại càng phải nhiều màu. Có cái vẻ như là người sông Hương non Ngự thì ăn bằng mắt nhiều hơn là bằng miệng. Những cái đĩa nho nhỏ, những cái chén xinh bé, trên đó sắc màu của miếng chín hài hòa như giữa một tranh tĩnh vật ngon lành. Phía sau mâm tranh màu, có tấm bình phong gỗ quý, và thấp thoáng sau bình phong là nữ chủ nhân đang nhẹ nhàng ý tứ theo dõi khẩu vị từng người, tiếp tục đưa thêm ra những đĩa màu mới ngũ sắc, bách sắc. Trước thềm nhà kiểu bánh ú, cũng vẫn phải bình phong trà tầu (duối) nữa, để trước khi khách thấy chủ nhà, thì chủ nhân đã nhận ra khách trước mà đon đả xuống thềm rước vào bàn cỗ màu. Cha tôi đã cho tôi theo đi ăn cơm tại nhà một bà thập lục đờn nổi danh. Nghe đờn xong, thì ăn cơm muối, thật là cơm muối theo cái nghĩa đen chật hẹp của nó. Chỉ cơm và muối. Muối rồi lại muối. Trong lòng mâm đồng tam khí, bày đủ mười hai đĩa muối. Nào là muối riềng, muối tỏi, muối ớt, muối tiêu, muối hột phộng, muối sỏi sườn, muối mè v.v… Bữa cơm đạm bạc nhai rất thong thả nơi nhà bà đờn để lại cho hai cha con tôi một dư vị mà sau này bao nhiêu thịt cá yến tiệc cũng không làm cho tôi quên được cái đậm đà có tính cơ bản, rất bình dị mà lại rất kiểu cách, rất là muối Huế đó. Và chép miệng mà thấy rằng cũng chỉ có ở Huế đó, thì muối trắng mới đủ mùi đủ màu như vậy, thì sự túng bấn mới đượm mùi trang trọng tinh tế như vậy thôi. Sau này lớn lên, sẵn tàu tốc hành xuyên Việt lần nào ghé Huế, tôi đều hỏi tất cả các “cụ” lái trên sông, tất cả các “cụ” xe trên bộ về người cho ăn “muối thập nhị sứ quân” đó. Thảy rợn rợn mà dội về những câu thơ trăng Huế của Hàn Mặc Tử. Trong dư vang tiếng súng phong trào Thừa Thiên Huế mở đầu năm 1968, thấy còn xao xuyến nơi lòng mình nào là đò tuần hò ô cơn gió phá; nào là mái đẩy trận mưa cồn; súng nổ mở cổng thành và sáu nhịp cầu Tràng Tiền rạng dần lên như ba cặp lông mày trắng thần lãng mạn nào đang soi mặt vào sông mỏi. Thế rồi chuông chiều chùa Diệu Đế bốn lầu mà chỉ còn ba chuông. Khách sạn Huế toàn phát triển sào chống và bơi chèo; nón bài thơ che mặt mà nhè nhẹ đỗ bến tòa Khâm; thuyền sông Hương không bao giờ kéo buồm dù cho gió có thuận tới mấy; và xe tay mắc lục lạc đồng, ý chừng để nhớ đến những con ngựa đã được thế bằng mạng người. Thế rồi cái lồng ấp xo ro, cái áo tơi ống, cái áo tơi cánh gà, cái áo tơi đọt lá đằng, với những bước ngăn ngắn kéo đôi guốc gỗ mấc dưới rặng mù u. Thế rồi mưa Huế, mưa thúi cỏ, mưa thúi đất. Nhưng hôm nay nhớ Huế mưa xưa, lòng bừng hẳn lên một thứ nắng mới của Tết Huế đánh Mỹ.

Nhớ Huế, tôi đã bao nhiêu lần tha thẩn một cách bồi hồi suốt dọc bờ bắc con sông tuyến, đi từ vùng đạo biển Di Loan lên phía đạo rừng Phước Sơn dòng tu ép xác. Nhìn cái nền ga xe lửa cũ chỗ ga Tiên An đó, mà thấy như có thể chỉ hôm sau thôi, chỉ ngày mai thôi là tàu của tôi lại đã thét còi vang mà chạy, chạy mãi vô Huế, vô Sài Goòng, y như là tôi đã ngồi lên nó ngồi trong nó mà qua đây trước kia, lúc bấy giờ vĩ tuyến 17 chưa là giới tuyến và cầu Bến Hải còn là phà Hiền Lương. Bèn nổi lên trong đầu mình tất cả bấy nhiêu cái ga với tên từng cái với hình thù to bé của riêng từng ga, trên suốt cái tuyến ga giới tuyến Tiên An này tới Đà Nẵng Cửa Hàn. Nào là ga Tiên An – ga Hà Thanh – ga Quảng Trị – ga Mỹ Chánh – ga Hiền Sĩ – ga Văn Xá – ga An Hòa – ga Huế – ga An Cựu – ga Hương Thủy – ga Phú Bài – ga Nong – ga Truồi – ga Cầu Hai – ga Nước Ngọt – ga Thừa Lưu – ga Lăng Cô – ga Liên Chiểu – ga Nam Ô – ga Tua Ran (Đà Nẵng).

Tiên An đây cách ga Hà Nội phía Bắc đúng 599 cây số. Đà Nẵng là cây số 791. Và xa tít trong nữa là Sài Goòng rồi, sau khi qua nhịp cầu sát Bình Lợi đó, là đã cột mốc tiêu cây số 1.758 của đúng Sai Goòng rồi!

Bao giờ nối con đường xuyên Việt, mà thống nhất tuyến đường sắt chạy qua ba miền thân yêu ruột rà! Bao giờ thiết lập được trên đường đi đó một thứ vé, một thứ tàu, một thứ trật tự của một con đường đã thống nhất!

Ngồi thu lu trong cái xuồng máy dành cho phân ban Uỷ ban Quốc tế tuần tra hai bờ sông tuyến mà càng thấy nhớ Sài Goòng, thấy nhớ Huế như là không có gì có thể làm cho mình khuây khỏa được chút tấc lòng đó!

Vậy là ngay trong đêm đầu tiên đánh Huế dịp Tết vừa qua, trên thành Huế mình, ta đã cắm được cờ của ta lên chính giữa kỳ đài. Lá cờ Mặt trận dân tộc giải phóng rộng chín mươi sáu thước vuông, thượng lên từ trong đêm, đã lồ lộ vào lúc tan sương trên mặt thành nổ súng. Gió phá ngoài Cửa Thuận càng thổi vào phía núi, càng phất mạnh khí thế cách mạng, và lá cờ mẹ phần phật trên mặt thành càng vẫy gọi ngàn vạn lá cờ con cùng một lúc dựng lên khắp các chợ, các bến, các phố, các cầu, các chùa. Đò sông Hương các vạn chài, vạn Trường Súng, vạn Thương Bạc, vạn Lợi Nông, vạn Đập Đá, vạn Cồn Hến đều nổi hết cờ lên, có đò cắm tới hai cây cờ, mũi một lá, cuống lái một lá. Đỏ ối mặt sông Hương. Những luồng cờ di động sông Hương đang rực cháy cả hai bờ, lại càng nóng sôi lên vì cờ huyết. Một con sông vẫn tưởng là yên lành bỗng thành một con sông máu, trên sông đang bơi bơi, vô số là hồng huyết cầu. Cách đây mới có mươi tháng, đúng hôm Tết Lao động quốc tế 1/5 năm 1967, cờ đỏ mới chỉ xuất hiện trong có một buổi trên phía núi Ngự Bình mà bà con mình ở phố, ở rú, ở phá, ở bến, ở khắp sáu huyện Thừa Thiên cũng đã lấy làm thỏa lòng lắm rồi. Huống chi Tết này lại đàng hoàng mà nổi cờ lên giữa vòng Đại nội quân ta mỗi lúc mỗi dồn địch vào từng góc mặt thành, vào góc chân thành mà diệt gọn. Có những chiến sĩ, những dân quân vừa tiến lên, vừa nhìn lá cờ mà khóc, khóc một cách thật là tự nhiên như là người ta thường sa lệ mỗi lần được đột ngột bắt gặp lại hạnh phúc. Trời màu ghi của xuân Huế càng vào lúc đứng bóng, càng làm tôn màu cờ trên kỳ đài. Ngàn ngàn cánh tay cùng chỏ về một phía, ngàn ngàn cặp mắt Huế cùng hướng về một điểm. Chà, cờ ta “ác” hung! Đứng ở ngoại thành cách Huế hai mươi cây số mà vẫn nom rõ mười mươi lá cờ Cách mạng của mình đang rung đều trên mặt thành trước Đại nội.

Chỗ cửa Đông Ba, hàng xứ người đang leo lên mặt thành mà coi cờ cho sướng mắt. Ai bắn cứ tiếp tục bắn giặc, ai tải thương cứ tải, o mô nấu cơm tiếp tế trong các lòng cống phố cứ nấu, còn ai chưa biết làm chi cả, thì phải đi coi cờ. Có bà mẹ nói như tuyên bố rằng coi cờ xong đã rồi mới đi chỉ mặt ác ôn điểm điệp giúp các anh chị ở Uỷ ban nhân dân Cách mạng Thừa Thiên Huế. Trên mặt thành tuy đã đủ cao để thấy cờ của mình, nhiều người vẫn cứ kiễng cả hai chân lên. Áo quần bữa đó thôi là đủ sắc. Màu rêu màu cỏ chiến đấu, màu xanh công nhân, màu nâu màu đà. Và nhân dân dịp Tết ai có chi mặc nấy, kéo nhau đi xem cờ với quần áo đủ các màu tàn nhang, màu khói hương, sắc lam chim trả xanh cốm tím than, tím hường, quan lục, hỏa hoàng. Có những cụ đang ôn lại cho lũ con cháu quây quần trên cửa thành Đông Ba về chuyện Huế tổng khởi nghĩa ngày 23 tháng 8 – 1945, hồi 3 giờ chiều mười lăm vạn nhân dân mít tinh ở bên sân vận động, và cờ đỏ sao vàng cắm trên cùng cái kỳ đài Ngọ môn đỏ nọ. Cờ sao soi xuống Sông Hương, bến Phú Văn Lâu chưa khi mô đẹp tới vậy. Rồi bẵng đi hai mươi hai năm sau, chừ mới lại tung bay giữa mùa xuân Huế!

Phóng viên Mỹ Alvin Webb Junior ở bản tin UPI, cũng nói về lá cờ tình cảm cách mạng đó của nhân dân Huế: “Cờ vẫn bay trên cột cờ chính của đế đô này. Lính Mỹ đang thề hạ nó xuống cho bằng được, hoặc là bắn gục nó đi”. Một phóng viên Mỹ khác nói cột cờ cao tới 197 phút (mỗi foot là 0m305, như vậy là 60 mét lẻ 085, anh nhà báo địch này tính cũng không sai gì mấy về cờ cao). Mỹ đã phân công cho ngụy đi phá cờ, nhưng cả đám tiểu đoàn “Cọp đen’’ ác ôn đó đều tụt lại, như muốn nhường cái “vinh dự” đó cho các đơn vị quan thày Mỹ. Cuối cùng Mỹ cũng phải nổi cờ loạn sao Hoa Kỳ lên mặt thành (Cờ Hoa Kỳ có tới năm chục ông sao, sao chi mà nhiều rứa)! Lính Mỹ đã đặt một cái ghế lên mặt thành buộc cờ loạn sao Mỹ vào tay ghế, cán cờ là một cành tre tuốt chưa hết lá. Trông nó chả khác gì một cành phan, một lá cờ phan đám ma. Cái đám ma quân viễn chinh Hoa Kỳ đang cử hành ngay ở chân Đại nội tử cấm thành ngay ở chân tường gạch hoàng thành, và ở cả vòng ngoài kinh thành kia nữa. Ở một tuyến trận độ 270 thước tại phía đông kinh thành, riêng tại một đại đội Mỹ lính thủy đánh bộ đó mà đã thương vong tới 72 thằng, thằng chết nằm bên đống gạch rêu tới hơn một ngày rồi mà chưa có tàu bay trực thăng tới lượm thây. Những thằng Mỹ sống sót chỉ đóng cách đống xác Mỹ có 30 mét, định nhảy vào cướp xác chỗ chân thành mà không sao cướp nổi. Xe tăng Mỹ vẫn tiến vô lùi ra mà ủi mà rũi tung góc thành gạch. Dưới những cơn mưa đá Mỹ đang bom bắn, các “cụ” xe xích lô chở thương binh vẫn huýt sáo miệng mà làm con thoi giữa tuyến lửa với các mái chùa chuyên làm trạm cứu thương. Chợ Đông Ba vẫn có bóng người tới đòi mua hoàng mai, mai vàng hết thì hoa huệ cũng được. Mỹ đổ đạn vào mặt thành, mặt thành như một ông vua nào bị rỗ hoa. Đại bác 200 ly Mỹ từ ngoài cửa Thuận An bắn tới tấp, có những viên dúi vào gạch thành những lỗ chó chui, trông gợi gợi mấy vết thương ở cửa Bắc thành Hà Nội những năm Hà Nội chống Pháp 1873, 1882. Trên vườn chuối thành nội, chuối khu Lục Bộ Tam Tòa đã cháy khô vì lửa trận, mà cái gì xanh lè nhất chỗ vườn chuối đó lại là bom đạn lân tinh Mỹ quăng vào hàng đống. Tất cả mọi thứ hữu hình nơi thành nội đều ám khói hết, gạch ngói lưu ly càng bắt khói.

Huế vẫn mưa. Mưa xuân lửa. Trần mây Huế thấp không đầy 150 thước, các thứ vịt Mỹ trực thăng khó sà xuống mà cướp đống thây Hoa Kỳ đã có mùi. Tới lúc xếp được xác lính thủy đánh bộ Mỹ lên trực thăng thì phải xếp làm hai lượt, lớp xác trên chồng lên lớp xác dưới.

Mỹ, ngụy trong thành nội, phân bố theo một chiều dài Tây Đông. Quân Mỹ lính thủy đánh bộ đóng ở phía Tây thành, ngụy tiểu đoàn “Hắc báo” ở giữa, và hai tiểu đoàn marin Mỹ ở phía Đông. Thành vuông, mỗi chiều đo đúng hai cây số rưỡi, mà sau bốn ngày đổ máu liên hồi, những cây thịt Mỹ xâm lăng đó chỉ nhích được 180 mét. Tướng Rôbớt Cớtsơman, tư lệnh Mỹ vùng Một chiến thuật phải kêu lên: “Tôi muốn đưa số quân mới vào thành, nhưng đưa được họ vào là cả một vấn đề. Việc chuyển quân quanh Huế khó khăn và rất nguy hiểm. Máy bay lên thẳng đã xuất trận 446 chiếc, ở Huế đã có 60 chiếc bị bắn hỏng” (AFP, 21-12-1968). Không phải chỉ hỏng tàu bay, chỉ 60 cái bị bắn hỏng, mà tất cả là những 212 chiếc kia. Không phải chỉ hỏng xoàng, mà còn là cháy rụi tàu bay, và du kích bắt sống phi công Mỹ ở phía Tây thành Huế ngày 6-2 nữa, cái điều thú vị này tư lệnh Mỹ không nói tới!

Dương Nghiễm Mậu, trong một số nguyệt báo văn học in ở Sài Goòng, chứng kiến xuân lửa Mậu Thân Nam Bộ sau khi ăn giao thừa ở Huế, đã viết: “Bây giờ chiến tranh đã ở Sài Goòng Huế (…) nhưng không có nghĩa trước đó chiến tranh không có mặt ở Huế. Chiến tranh có mặt ở Huế với tiếng súng vọng vào mỗi đêm, là những bao cát chất trên những cỗ ngựa láng bóng trong những ngôi nhà cổ kính, là những thùng dầu hôi cất giấu trong những hốc tối cùng với những Mỹ…”. Đúng như vậy đó. Không nói gì đâu xa, mà cứ nói ngay về Huế năm 1967 đó (nghĩa là trước cái Tết Mậu Thân xuân Huế dữ dội đó chỉ khoảng một năm) thì cũng đã thấy rõ rồi. Chùa chiền thì sư đi mít tinh cả. Trong chùa chỉ còn những sinh viên trốn bắt lính, nấp vào chùa mà học ôn bài để thi nốt bằng tú tài. Con đường từ Văn Xá tới Phò Trạch vẫn tan xác nhiều Mỹ, nguỵ đi trên đoạn đò quốc lộ. Nó vẫn đúng cái tên “con đường không vui” đúng với danh từ của Bécna Phôn đã đặt cho nó, trước khi chính lão ta ăn phải mìn của du kích mà chết ngay tại quãng đó.

Năm 1967 ở sông Hương, Mỹ ngụy lệnh cho bất cứ đò nào của bất kể vạn đò nào, tất cả đều phải tập trung một chỗ, sau khi mặt trời lặn xuống núi trên tê; tập trung, nhưng phải đỗ cách xa chân cầu là 300 mét, cầu nào cũng phải đỗ cách xa ra như vậy. Chỉ sau cái lệnh đó khoảng một năm thì tất cả đò trên sông Hương đều cắm cờ Giải phóng. Và tất cả 14 cái cầu lớn nhỏ dài ngắn trên thủy hệ sông Hương ta đều đánh sập. Tính cầu từ Bắc xuống Nam, rồi kéo qua hệ cầu phía Đông, thì cầu An Hòa, cầu Bạch Hổ, cầu Giã Viên, cầu Ga, cầu Nam Giao, cầu Bến Ngự, cầu Phủ Cam, cầu Lò Rèn, cầu An Cựu, cầu Đập Đá, cầu Tràng Tiền, cầu Đông Ba, cầu Gia Hội, cầu Bao Vinh, ta đều đánh sập. Đến nỗi Mỹ, ngụy chỉ còn tiếp tế được cho nhau bằng tàu thủy. Và quân dân Huế đã dìm luôn 41 chiếc thuyền Mỹ xuống lòng con sông Hương bấy nay vẫn tưởng nó không có sóng dữ.

Hồi 1967 đó, cũng là thời kỳ ngụy chỉ tin thành nội, Đại nội là yên thân, nên chúng không cho người ngoài nhập thành, 8 giờ tối đã đóng bưng cửa Thượng Tứ, cửa Đông Ba lại, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Thì sau đó khoảng một năm, lửa nổi dữ dội nhất lại nhóm ngay từ lòng thành nội đó, ngọn lửa châm lên từ cửa Chánh Tây mà cháy thốc vào.

Gần Tết năm Mùi ấy (1967) nhân dân hay lảng vảng ở bờ sông Hương chỗ bến vắng. Bọn ác ôn điểm điệp biết là nhân dân muốn mượn đò qua sông đi tìm Cách mạng trên phía rú, nó bèn ngăn đò cấm bến và chộp người. Nhưng hôm bắt đầu ngừng bắn 7 ngày dịp Tết năm Mùi đó, nhân dân phớt tỉnh ác ôn, cứ qua đò mà đi miết lên phía chiến khu xanh rì lá mù u. Mới năm trước đó còn là đi tìm, đi gặp, thì Tết Mậu Thân năm sau, những người đi lén đò ấy, đã trở thành lực lượng Cách mạng. Họ đã tóm đúng thằng trưởng ty chiêu hồi là Lê Văn Trữ và hỏi: “Mi chiêu hồi giỏi hè! Mi chiêu hồi, nên Việt Cộng về ăn Tết đông như ri đây!”. Và họ đã thanh toán gọn bọn cấm đò sông Hương, họ đã thanh toán rất gọn cả bọn 380 tên ác ôn điểm điệp đóng tại Cồn Hến giữa dòng. Sông Hương lúc này không có điện, chỉ có lửa mù u cháy le lói, và hỏa châu giặc soi tàn nhẫn xuống lòng sông.

Mưa phùn Huế xuân lửa vẫn vờn quanh lá cờ Giải phóng cao 60 thước, sớm sớm chiều chiều cách Huế hai chục cây số, vẫn trông thấy đang phất mạnh mà vẫy gọi mình.

Từ cửa Đông Ba tới cột cờ là trận địa trên mặt thành của ta. Tại Mang Cá Lớn tại Mang Cá Bé bọn ác ôn ngụy Hắc Báo bị diệt toàn bộ. Phía bến đò Chợ Dinh, địch bị đánh không còn manh giáp. Mặt trận phía chùa Quốc Ân, ngổn ngang một đống Mỹ đếm được một trăm cỗ thịt chết. Phía chợ Bao Vinh, tàu chiến Mỹ vẫn đổ đại bác lên phố, và đổ gục xuống từng hàng phượng vĩ. Và sông Hương xuân đang trôi xuôi xác quân thù.

Súng nổ nhiều ở chợ An Cựu, ở gần cầu An Cựu, và súng An Cựu tiến dần lại phía Chợ Cống. Mặt trận Chợ Cống, tới sân vận động có một tiểu đội nữ tự vệ, tiểu đội trưởng là cô Liên đang xả cây tiểu liên gấp báng. Chờ nổ súng, cô Xê ngồi dưới hầm cặp lại bím tóc thề. Mười xe thiết giáp và xe tăng Mỹ hồng hộc bánh sâu róm, hầm hè choán hết cả mặt đường, to sừng sững. Cô Hoa bị điếc tai vì bom đạn Mỹ vừa đánh sập hầm của tiểu đội nữ. Cô Cúc vẫn không ngớt bắn tỉa rất xuya. Cô gái Huế tên là Hoa không chịu lùi về hầm tuyến sau, mà lại xông lên xáp trận với bọn Mỹ, đánh giáp lá cà với Mỹ, đảo đầu súng lại mà quai bằng báng súng. Cuối cùng nó thả cái thứ bom cay gì mà xọc óc như ớt khô thả vô bếp cháy. Trong khói hỏa mù, đoàn chiến xa Mỹ mười cỗ đã rút lui và chịu thua mười một thiếu nữ sông Vân Dương thành Huế. Hôm đó là ngày thứ mười hai của chiến trường Huế Tết lửa. Mười một cô gái Huế trí dũng phần lớn trước đó đều là người đi ở đợ, và đã nhiều lần theo cha anh theo mẹ theo bà con Phật tử xuống đường chống Mỹ, ngụy dùng xe tăng xô đổ và nghiền nát hương án cúng Phật A Di Đà. Yêu cầu các cô diễn lại chiến công, các cô đều bẽn lẽn vân vê mép mũ tai bèo, như ngày nào nghiêng nghiêng xuống má cái vành nón bài thơ. Mười một người đẹp Huế làm nên một câu chuyện đẹp để hồi sinh lại những tiếng đánh sênh tiền chấm câu cho một lối kể chuyện nhịp đôi giọng Huế cổ truyền.

Theo phóng viên Anh của tờ báo Anh hàng ngày tờ Tấm gương thì thành Huế đúng là “cái địa ngục đầm đìa máu viễn chinh của Mỹ tại Việt Nam”.

Sát nách “địa ngục” đó, Cách mạng Huế cho diễn văn công. Đoàn Văn Công Quân Giải phóng Trị Thiên Huế ngày nào cũng hóa trang từ tinh mơ và quá nửa đêm mới gỡ phấn đi nằm, sau khi chuyển sân khấu lần theo tuyến lửa. Tàu chiến Mỹ từ mặt sông bắn qua mặt qua tai sân khấu. Ngói và gạch và mảnh đạn rơi cả vào chân diễn viên. Sân khấu có khi đặt cách ổ giặc có hai trăm thước, trăm rưởi thước. Lính ngụy vừa ra đầu thú Mặt trận cũng đi coi, và họ bảo trước đây một vé 5 đồng mà coi không sướng bằng ngồi chen nhau ghế dài học trò bữa ni. Nhiều tiết mục đồng bào “bít! bít” (bis) đòi diễn lại. Có ông giáo lên bắt tay, nằn nì văn công nhận lấy chiếc đồng hồ ông thành tâm tặng, cho ông bằng lòng. Sinh viên thích tặng máy ảnh. Có người lại yêu cầu hát lại nữa, để họ thay cái băng mới mà thu riêng vào máy ghi âm của họ. Sư chùa Tăng Quang tự, nay đặt trạm cứu thương, khẩn khoản mời văn công vào chùa kể chuyện chiến khu.

Huế có cây mù u, có hàng cây mù u, hữu ngạn tả ngạn sông Hương đều có mù u. Nhất là bên phía Gia Hội và trong thành nội Huế cứ ngược dòng sông tỉnh mà lên phía núi rú, càng gặp mù u. Rừng mù u của Thừa Thiên thượng du rực xanh hơn cả màu xanh của hy vọng. Chạm lửa, là mù u cháy.

Ở giới tuyến Vĩnh Linh, mù u chưa đóng thành rừng riêng, nhưng cũng đủ góp vào cái xanh rì của Trường Sơn – Nơi phân thủy của sông Lào và sông tuyến. Từ Hồ Xá lên Bãi Hà cơ quan miền Tây, rồi leo đeo Cứt Voi vào Vĩnh Ô, qua xóm Cây Tăm; xóm Mít, đi Cù Bạc, Cù Bai, Hướng Lập, vẫn nhận ra mù u xanh bạt ngàn. Từ đó mù u kéo qua Thừa Thiên, qua Huế, kéo vô Ninh, Khánh, Thuận Khu Sáu, và cái xanh rì cả Bắc lẫn Nam đó kéo thấu vào tới Sài Goòng Chợ Lớn. Thơ vô danh thì trước đây còn vọng lại cái hơi rất tợn và cái màu rất lạc quan của mù u:

Trái mù u trên núi

Chảy xuống vụng Phan Lang (Phan Rang)

Anh đi về ngoài nớ

Khiến lòng ta chẳng an

Bao giờ anh trở vô

Gặp nhau ở giữa đàng

Uống rượu, cười nghênh ngang

Chao ôi, trước đây khoảng một thế kỷ, trái mù u “xứ Huế xanh xanh đường vô” đã chống Pháp cùng với nông dân Thừa Thiên và nhà nho đất Kinh. Đánh Tây, ở ngay Huế, ở trên con đường ra Quảng Trị, người ta liệng quăng ra biết bao nhiêu là trái mù u, cho rằng thực dân đi ủng đi bốt chỉ là bọn người dạ thú và chân chỉ có một đẵn một róng, cứ tung quả tròn mù u ra thì nó ngã kềnh rồi xông ra mà chặt. Cũng đã có những chùm mù u rớm máu. Cũng một cái cách nghĩ hồn nhiên đó, những người yêu nước ở miền Bắc và ở Hà Nội, cũng đã tung ra đường cái không biết cơ man nào là ổi xanh và ống dang. Thời của tuổi ấu trĩ chiến thuật đáng yêu đó đã qua, và ngày nay chống ngoại xâm, chúng ta có không quân mình lái lấy, và tên lửa mình khiến lấy.

Nhưng Tết Mậu Thân vừa qua, cả miền Nam lấy pháo Tết làm hiệu lệnh mà cùng một ngày một giờ, cùng đứng lên đốt đánh hơn bốn mươi thành và thị, thì mù u vẫn cháy ở Huế, mù u vẫn cháy ở Sài Goòng, Chợ Lớn, mù u cháy ở Đức Hòa, Đức Huệ, ở Vàm Cỏ Đông. Trước đây, Tây chưa tới thắp điện, thì Huế và Sài Goòng, trong những đêm dài lịch sử, thường là thắp bằng dầu mù u. Sau đó trăm năm, ta lại tắt phụt điện đi giữa Sài Goòng giữa Huế mà đánh giặc Mỹ thì mù u lại rực cháy, Mỹ, có thằng tò mò thì không hiểu nó là thứ gì mà cháy gớm quá, cháy như tẩm vào napan mà ở chỗ góc trận nó, nó cho là chưa ném quả bom napan nào.

Lúc động dụng có chuyện đánh Tây đánh Mỹ ở đằng trong, thì mù u lại cháy, cháy như đuốc, những bó đuốc xáp trận và những bó đuốc mừng công. Lúc bình thường của đời sống làm ăn yên ổn, thì gỗ mù u dùng làm cái vai cày, làm cây chống hầm mỏ. Gỗ mù u dùng đóng ván thuyền và làm cột buồm. Quả nó ép dầu công nghiệp. Mới trông nó, người chưa biết nó, thì không ai nghĩ rằng mù u có nhiều đức tính đến như vậy. Cái màu xanh bết lại của mù u thì người ta cho là nó còn xanh một cách chưa thuần hóa, nó cứ xanh một cách đại ngàn nguyên thủy như vậy. Nó cũng đâm hoa, hoa năm cánh, nhụy vàng. Hoa nó nở chùm, cũng như quả nó đậu chùm. Từ quả, lấy hạt ép dầu.

Huế nổi cờ Giải phóng cắm lên thành nội từ đêm hôm 31/1/1968, mà sau đó hơn hai tháng, hãng tin Roitơ Sài Goòng ngày 2/3/1968 còn đăng: “Hôm nay, một đoàn xe gồm 230 chiếc chở 980 tấn hàng được quân đội Mỹ và Nam Việt Nam hộ tống, đã từ Đà Nẵng đến được Huế sau 6 tiếng đồng hồ và không gặp rắc rối gì cả. Cách đây hai hôm, 2 đoàn xe quân sự đã đi mở lại con đường then chốt Đà Nẵng Huế”.

Phía Tây Nam Huế cách khoảng bốn chục cây số là thung lũng A Sầu. Thung lũng A Sầu giáp giới Trung Hạ Lào, thung lũng dài 22 cây số, rộng 2 cây có khe A Chê, khe Chai, khe A Sáp. Lại có những điểm như A Sầu, A Vầu, Tà Bác, A Sáp, A Co. Mù u ở rừng lũng đây thì không chê được.

Đồn A Sầu, ta đánh ngày 8/3/1966. Lúc ấy A Sầu mới chỉ có 18 thằng cố vấn Mỹ. Đến 19 tháng tư 1968, ở trận A Sầu, Mỹ đã chết tại trận 300 tên Mỹ kỵ binh bay. 300 thằng Mỹ kỵ binh bay cùng chết luôn với 34 con vịt trực thăng vận. Hãng Roitơ của Anh bình: “Đây là ngày đen tối nhất của lịch sử cái sư đoàn giỏi nhất nước Mỹ”. Mù u A Sầu vẫn tiếp tục cháy. Cho tới tháng 5/1969 Mù u A Sầu càng cháy. Và tại A Bia, Mỹ lại nướng quân ở đó khoảng 1.700 thằng lính dù trong cuộc hành quân bí danh là “Tuyết trên đỉnh núi A Pát”.

Từ A Sầu mù u xanh rì về tới Huế thì hình như mất vài ngày đường. Mà thẳng lối đường chim bay thì chỉ có hơn bốn chục cây số.