Chương 2 : Ngày Và Đêm 18.
• Một ngày không bình thường.
Ngày 18 tháng 12 năm 1972, là một ngày mùa đông u ám và ảm đạm. Suốt ngày không hé một tia nắng, trời lức nào cũng sập sùi như muốn mưa. Từ đầu tuần, gió múa vẫn lai rai một giai diệu buồn bã. Tạnh ráo và giá rét.
Ngày hôm ấy sẽ lặng lẽ trôi đi trong dòng thời gian nếu đến đêm không xảy ra một sự kiện làm chấn động tbế giới: đế quốc Mỹ đã dùng B.52 mở màn cuộc tập kích chiến lược vào Thủ đô Hà Nội!
Cũng vì sự kiện ấy mà ngày 18 thảng 12 năm 1972 đã lắng đọng lại, in đậm nét trong ký ức của mỗi người chúng ta.
Hôm ấy là một ngày không bình thường. Mọi người, khi nhở lại đều có chung ấn tượng như vậy. Ấn tượng ấy thật sâu sắc. Mười năm sau, khi kể chuyện đánh B.52, dường như ai cũng bắt đầu bằng những cảm giác lạ lùng, bồn chồn khó tả của họ suốt một ngảy hôm ẩy, cho đến khi trận đánh bắt đầu.
Những người đã đánh thắng B.52 ở Thủ đô Hà Nội đềụ nói: "Suốt ngày 18, chúng tôi chờ đợi trận đánh xảy ra. Vỉ thế đển đêm, chúng tôi bước vào chiến đấu rất chủ động, rất đàng hoàng... ". Có người còn nói thêm: "Sở dĩ được như thế vì hôm ấy các cấp nhận định về địch rất chính xác. Như nắm vững hành vi của chúng trong từng giờ. Cứ như cãp trên thấu hiểu kẻ thù khi mưu mô của chúng còn nằm trong bóng tối. Tài tinh lắm! ».
Đồng chí Nguyễn Ngọc Điền, hiệu trưởng trường Kỹ thuật Phỏng không, năm 1972 là trung đoàn trưởng trung đoàn tên lửa 257, bảo vệ phía tâv nam Hà Nội kề về ngày 18 tháng 12 như sau: "Ngày hôm ấy được bắt đầu bằng một mệnh lệnh các đơn vị tiếp tục ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất".
Sau đó là những bức điện của quân chủng, sư đoàn, tới tấp gửi xuống trung đoàn. Điện tác chiến, điện chính trị, điện hậu cần, điện kỹ thuật... Thấy các bức điện vẫn như chưa nói được hết ý của cấp trên, những cuộc trao đổi, những chỉ thị trên máy điện thoại lại tiếp tục. Tôi cùng chính ủy Mạnh và trung đoàn phó Ninh liên lục bị ghìm bên máy. Sau đó chính chúng tôi lại tiếp tục chuyển tất cả những điều vừa nhận được xuống các tiểu đoản. Tất cả đều nhằm nhấn mạnh một điều: tình hình rất khẩn trương; phải kiểm tra lại lực lượng, trang bị, bổ sung phương án; xây dựng quyẽt tâm; cbuẩn bị cơm gạo cho bộ đội, đạn dược, khí tài, xăng xe tbật đầy đủ cho các đơn v|.
Ai đã từng chì huy chiến đấu trong chiến tranh phá hoại chắc sẽ dễ hinh dung ra một ngày rối bận bởi bao công việc, khi những bức điện như đă tícb gỏp tử lâu, bỗng đồng loạt dội xuống đơn vị đổ ra những yêu cầu để người chỉ huy và toàn đơn vị phải thực hiện.
Nhưng ngày 18 có khác. Lóe lên trong mọi sự nhắc nhở đã trở thành quen thuộc, các bức điện đã đem đến cho chúng tôi một thông tin rãt mới: hôm nay B.52 có thể đánh Hà Nội.
Hôm ấy, khi viết và nói, các cấp đều dủng chữ có thể nhưng, trong ý nghĩ và việc làm, chúng tôi chỉ chuẩn bị cho một tình huống: nhất định B.52 sẽ vào Hà Nội đêm nay.
Từ sáng sớm, tư lệnh sư đoàn Trần Quang Hùng đã nói với tôi: "Khả năng địch đánh Hà Nội đã rõ rồi. Các anh phải xuống từng tiểu đoàn kiểm tra. 16 giờ báo cáo".
Sau này tôi mới biết, B.52 cát cánh từ Gu-am lúc 12 giờ. Và từ U-Tapao lúc 16 giờ. Để 19 giờ chúng mới đến được Hà Nội. Ấy thế mà từ sáng ngày 18, chúng tòi đã được lệnh chuần bị "nghênh tiếp" chúng. Cả ngày hôm ấy, ta và địch đan chéo nhau, hối hả hành động. B.52 thì nhằm Hà Nội bay tới. Còn bộ đội phòng không Hà Nội có một khoảng thời gian đến l6 giờ đề chuẩn bị: Sau đó các cán bộ chỉ huy yên tâm báo cáo lên cấp trên: "Tất cả đã sẵn sàng!".
Chúng tôi cũng đã gặp chính ủy trung đoàn Dương ĐìnhThảo, trung đoàn trưởng Trần Hữu Tạo, thuộc trung đoàn 261, tiểu đoàn trưởng Đinh Thế Văn, trắc thủ xe điều khiền Đinh Trọng Đức, đài trướng Nghiêm Đình Tích, trợ lý tác huấn tên lửa Nguyễn Xuân Minh, những người đã trực tiếp tham gia trận chiến đấụ lịch sử này... Khi được hỏi, các đồng chí đều xác nhận: ngày 18 tháng 12 năm 1972. có rất nhiều thông báo về tình hình địch. Càng về chiều số lần thông báo càng dồn dập hơn. Lượng thông tin mới càng nhiều thêm làm rõ hơn nhận định của trên đã phổ biển từ ban sáng: Cuộc chiến đấu mới sắp diễn ra.
Những tháng cuối năm 1972, các đồng chi ở cục 2, Bộ Tổng Tham mưu liên tục chuyển các tin tức tình báo xuống quân chủng. Hầu hềt các tin tức đó đều chính xác, rẩt đáng tin cậy. Có lẽ vì thế, ngày 18 tháng 12, các thông báo về địch gửi xuống đơn vị được chú ý đặc biệt. Các bức điện đều mở đầu bằng câu: "Theo tin của trên..." thế là ở dưới đơn vị hiểu ngay và rất tin cậy các nguồn tin đó, rồi thực sự bắt lay vào chuẩn bị. Có một dạo bộ đội bị "chai sạn" vì những đợt báo động, những dự đoản thiếu chính xác. Lần này hoàn toàn khác. Các bức điện thông báo về địch đã thực sự làm chuyền biến nhận thức về tư tưỏng, tâm lý và hành động của bộ đội theo hướng tích cực. Chưa bao giờ trong tác chiến phòng không việc dự háo lại chính xác, việc chuẩn bị lại nhanh, gọn, đầy đủ như lần này. Điều đó cắt nghĩa vi sao bước vào trận đánh B.52 đầu tiên ở Hà Nội cũng là trận đánh B.52 đầu tiên của cuộc đời chiến sĩ bộ đội phòng không Hà Nội lại bình tĩnh tự tin, giành thắng lợi ngay từ trận đầu như thế.
Nghe xong một số sự việc trên, nhiều người đã hỏi rằng: Bằng cách nào Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tham mưu, Thường vụ đảng ủy và Bộ tư lệnh quân chủng Phòng không - Không quân lại có thể nhận định, nắm bắt tình hình chính xác đến thế?
Chưa có một tài liệu nào đã được công bố nói rằng Bộ Tổng tham mưu đã nhận được một tin tình báo làm lộ ý đồ cuộc lập kích chiến lược bằng B.52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội. Chúng tôi cũng tin rằng không cỏ một nguồn tin tình báo nào trực tiếp như thể.
Vấn đề là ở chỗ, thông qua nhiều nguồn tin với nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh tài tình, Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham mưu đã có một nhận định chiến lược chính xác. Từ nhận định đó, cấp chiến lược, và cấp chiến dịch tiếp tục theo dõi tình hình, không bỏ qua những dấu hiệu dù nhỏ, đã và đang phản ánh ý đồ thâm độc của kẻ thù. Để cuối cùng có một nhận định chính xác vào trước và chính ngay trong ngày 18 tháng 12 năm 1972: B.52 sẽ đánh Hà Nội.
Những người cán bộ, từng trải đã gặp đủ loại kẻ thù, những ngày qua không sao chịu nổi trước những lời bán rao hòa bình của Nixon. Họ vẫn thấy lời lẽ của kẻ thù là giả dối. Từ ngày 23 tháng 10 năm 1972, Nixon ngừng ném bom tử vĩ tuyến 20 trở ra. Nhưng ngay cả bầu trời "bình yên" ấy cũng rất đáng ngờ. Niềm khát khao hòa bỉnh sau mẩy chục năm chiến tranh đã tưởng có thể cháy bùng lên... vẫn cảm thấy mong manh quá.
Và thế là vào thờỉ điểm ấy, đáng lẽ mọi người sẽ hân hoan nói về hòa bình, nói về những ước mơ, hy vọng và những dự định cho tương lai khi đất nước hòa bỉnh, thì ở quân chủng Phòng không - Không quân người ta thay câu nói cửa miệng "Nếu hòa bình... " bằng một câu khác: "Nếu địch lại đánh lớn... " để mở đầu cho những cuộc trao đổi tưởng không bao giờ dứt.
Cuộc chiến đấu lâu đài gay go quyết Iiệt này đã hun đúc nên những con người luôn luôn dự kiến tới những tình huống xấu nhất. Chính vì thế, khi bộ tư lệnh quân chủng chỉ thị: "Phải sẵn sàng đối phó với tình huống B.52 đánh vào Hà Nội ác liệt nhất", thì người chiến sĩ phòng không çoi đó là điều sẽ trở thành sự thật rồi cứ thế, bằng công việc, họ đang tiến đến một trận đánh lớn, trước khi kết thúc chiến tranh, chứ không phải là sự ngóng đợi hòa bình.
Ngày 13 thảng 12 năm 1972, Kissinger bỏ họp ở Paris.
Mỗi ngày lại có thêm những tin tức đáng lưu ý: Lầu năm góc mới điều 50 máy bay tiếp dầu KC.135 sang Phi-lip-pin, đưa thêm hai tàu sân bay Prai-dơ và Sa-pra Tơ-ga vào biển Đông; cấp tốc thành lập bộ chỉ huy sư đoàn không quân chiến lược để chỉ huy hai căn cứ Anderson và U-Tapao.
Như vậy địch đánh lớn trở lại là chuyện không phải bàn nữa. Vấn đề còn lại là nó sẽ đánh vào thời điểm nào?
Lại nói về ngày 18 tháng 12 - một ngày không bình thường. Buổi sáng, Bộ có chuyển một bức điện thượng khẩn cho quân chủng: "5 giờ, tàu sân bay A-mê-ri-ca hỏi: "trực thăng hôm nay cấp cứu ở đâu?". Đến trưa, quân chủng lạỉ nhận thêm một bức điện khẩn: "Một máy bay RF.4C đang bay qua Hà Nội báo về căn cứ: thời tiết quanh Hà Nội hoạt động được".
Chiều 18 tháng 12, binh chủng ra-đa báo cáo: hôm nay các hoạt động trên không của địch đột ngột giảm xuống. Chỉ có hai tổp B.52 ném bom ở đuờng 12 (tây Trường Sơn).
Những tin tức trên đây không những làm phong phú thêm cải vẻ không bình thuờng của ngày hôm ấy mà nó còn cỏ giá trị báo hiệu: chiến sự sẽ bùng nổ trong những giờ tới.
*
* *
Chiều ngày 18 tháng 12 năm 1972, sau buổi giao ban ở sở chỉ huy quân chủng, thường vụ đảng ủy quân chủng đã họp để nhận định tình hình chuẩn bị chiến đấu của bộ đội và đề ra những yêu cầu lãnh đạo cho cuộc chiến đấu đêm nay. Đồng chí tư lệnh Lê Văn Tri đã phát biểu: "Hoạt động trong ngày của địch giảm đi rõ rệt, đó là một hiện tượng không bình thường, Với những tin tức nhận được thì đêm nay địch sẽ vào đánh lớn ở Hà Nội. Cần phải kiểm tra động viên bộ đội chuẩn bị chiến đấu thật chu đáo. Phải đề phòng B.52 có thể sẽ vào đánh từ chập tối... ".
Ý kiến trên đây được thường vụ hoàn toàn nhất trí. Khi bảo cáo nhận định đó trước thường vụ đảng ủy quân chủng, đồng chí tư lệnh đã hình dung ra trận đánh lịch sử đó. Đối mặt với máy bay B.52 là cả một lực lượng. Số máy bay Mích, sổ dàn phóng tên lửa, số máỵ ra-đa, số đơn vị pháo cao xạ... nói lên lực lượng đó. Song điều quan trọng hơn cả, thực sự có ý nghĩa quyết định trong trận chiến đấu này là con người - những cán bộ, chiến sĩ đã trải qua tám năm chiếu đấu chống chiến tranh phá hoại. Và xa hơn trong số họ có những người đã được thử thách rèn luyện trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, từ trận Điện Biên Phủ năm xưa. Sức mạnh đó còn được nhân lên bởi cả một thế trận đã được chủ động chuẩn bị trong nhiêu tháng nay, lại có cách đánh B.52 mới được hoàn chỉnh từ thực tể chiến trường khu Bốn đã được bộ đội Hà Nội tập luyện công phu... Với thế và lực đó có thể đánh bại cuộc tiến công mới ác liệt, dữ dội của không quân chiến lược Mỹ không?
Đó là câu hỏi đè nặng lên tâm trí của các đồng chí lãnh đạo chỉ huỵ chủ chốt của quân chủng.
Khi phân tích tình hình, so sánh lực lượng ta, địch và qua báo cáo của các đơn vị cơ quan trong buổi giao ban chiều nay các đồng chí trong thường vụ đều tỏ ra yên tâm và đã có một kết luận: Nếu đêm nay máy bay B.52 vào đánh Hà Nội chủng ta sẽ đánh bại chúng!
Vẫn đồng chí Nguyễn Ngọc Điển kể: Ngày 18 thảng 12 khi xuống các. trận địa tên lửa kiểm tra, trong đầu tôi luôn thấp thoáng một câu hỏi: ngày mai Hà Nội sẽ ra sao? Bao bọc lấy những trận địa tên lửa là những vạt lúa chiêm xuân, những cánh đồng mầu, xanh mát mắt, xa xa là lũy tre làng và những mái ngói đỏ tươi. Sau những rèm cửa màu xanh là những tổ ấm gia đình đã trải qua biết bao thử thách của chiến tranh...
Khi đến tiểu đoàn 77 bố trí ở C. trung đoàn trưởng như trở về nhà. Anh là tiểu đoàn trưởng đầu tiên của tiểu đoàn này. Những người cùng anh xây dựng đơn vị và viết lên những trang truyền thống đầu tiên cho nó vẫn còn ở 77 rẩt nhiều. Vì thế mỗi lần anh xuống, họ đón tiếp thân mật có phân suồng sã, hơn ở những nơi khác. Vừa thấy anh các chiến sĩ đã chạy tới vây quanh, bắt tay và cười nói ồn ào. Chưa vào nhà của tiểu đoàn vội, anh ra thẳng các bệ phóng. Anh gặp Năng, một pháo thủ bệ kỳ cựu, có mặt từ buổi làm lễ ra quân ở rừng "tắc kè", Yên Thế năm nào. Thấy Năng tươi cười đi lại, trung đoàn trưởng hỏi luôn:
- Chuẩn bị chiến đấu đến đâu rồi, Năng?
- Báo cáo thủ trưởng, tôi thì lủc nào cũng sẵn sàng - Năng bình thản trả lời.
Trung đoàn trưởng nắm tay người pháo thủ, im lặng đi quanh bệ phóng một vòng. Cỏ một dạo anh nghe tiểu đoàn báo cáo. Năng hay nói năng bốp chát, có lúc ỳ ra chẳng chịu làm gì ngoài việc chiến đấu. Thế là người chiến sĩ này đã có hơn sáu năm làm pháo thủ bệ rồi. Từ ngày còn là tiểu đoàn trưởng 77, Năng đã nói với anh: "Tôi chỉ cần quay theo cảm giác nặng nhẹ ở tay là biểt kích lên đủ mức chưa. Đánh với thằng. Mỹ mà cứ vừa quay vừa đếm từng vòng thì thua nó lâu rồi!"
Hôm nay Năng vẫn thế. Giọng nói chắc nịch và cái nhìn thẳng thắn.
- Năng thấy trận đánh sắp tới có gì khác trước không? - Sau những, phút cả hai cùng im lặng trung đoàn trưởng gợi chuyện.
- Tôi chỉ sợ không đủ đạn để đưa lên bệ thôi. B.52 thì có gì đáng sợ! Nếu chúng liều lĩnh vào đây nhất dịnh trung đoàn ta sẽ bẳn rơi tại chỗ.
Trung đoàn trưởng gật đầu tán thành. Anh rẩt hài lòng với câu trả lời của người chiến sĩ
Bao nhiêu năm mặc áo lính, là bấy nhiêu năm anh em làm pháo thủ, trắc thủ... Bàn tay, đôi mắt của họ đã thành chai. Những thao tác của họ không chỉ còn là những bài bản viết trong sách huấn luyện quân sự nữạ. Đó là kết tinh của thục luyện, là phép cộng của những cảm giác, kinh nghiệm, sự tưởng tượng phong phù và bản năng phải ứng phó với những thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm của kẻ thù. Đó chính là một thứ kỹ sảo của những người có thâm niên trong "nghề".
Ở tiểu đoàn 77 này không chỉ có Năng, có Đức, có Hà... phải chịu một sự hy sinh thầm lặng, kéo dài thời gian làm pháo thủ, trắc thủ để có được một khả năng chuyên môn đến thế.
Năm 1982, khi gặp chúng tôi đồng chí Nguyễn Ngọc Điển rút ra một nhện xét: "có thể nói rằng có nhiều nguyên nhân dẫn đến chiến công liên tiếp bắn rơi máy bay B.52, trong đó có một nguyên nhân là pháo thủ, trắc thủ của chúng ta rất điêu luyện. Sự chuẩn bị công phu về con người, với đội ngũ đông đảo các trắc thủ đă çầm tay quay từ thời kỳ đánh Giôn-xơn, đã giúp cho chúng ta chiển thắng mọi thủ đoạn kỹ thuật, chiến thuật kể cả thủ đoạn gây nhiễu hiểm hóc của địch, bẳn rơí tại chỗ nhiều máy bav hiện đại như F.111, F.4-D, A7 trong thời kỳ "chiến tranh Nixon" và đặc biệt đã bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay B.52 ở Hà Nội".
*
* *
Không được chuẩn bị đầy đủ, đàng hoàng như trung đoàn 257, trung đoàn 261, bảo vệ phỉa tây bắc Hà Nội, bước vào ngày 18 tháng 12 với một hoàn cảnh khá đặc biệt.
Từ đầu tháng 11 trung đoàn này đượọ lệnh chuẩn bị vào chiếc trường bảo vệ vùng mới giải phóng. Bước sang tháng 12. đơn vị bắt đầu thay nhau đi phép. Lúc này đă có khả năng địch đánh trở lại nên việc cho bộ độí đi phép phải cân nhắc khá nan giải. Chưa bao giờ ban chỉ huy trung đoàn phải cùng nhau bàn bạc vì một vài trường hợp đi phép. Các đơn vị đã sắp xếp xen kẽ giữa kíp một và kíp hai, giữa sĩ quan điều khiểu và tiểu đoàn trưởng để thay phiên đi phép. Song không phải lúc nào cững đủ người, đủ kíp để thay phiên. Trường hợp đó, ban chì huy trung đoàn phải cho ý kiến. Đợt một, giải quyết khá êm thấm. Ngày 12 tháng 12, anh em bắt đầu đi đợt hai
Ngày 15 tháng 12 cũng như các đơn vị khác, trung đoân 261 nhận được lệnh "sẵn sàng chiến đấu cao nhất". Kiểm lại, một nửa lực lượng chủ công gồm các tiểu đoản trưởng, trắc thủ, sĩ quan điều khiển vắng mặt. Một số trắc thủ có "tên tuổi" ở trung đoàn vả một phần ba số trắc thủ đã vào khu Bốn "làm quen" với B.52 hiện đang đi phép.
Thấy tỉnh hình mỗi ngày một khác, có khả năng đánh nhau đến nơi, trung đoàn 261 quyểt định cho gọi những người đang nghỉ phép ở Hà Nội và vùng lân cận trỏ lại đơn vị. Ngàv 18 tháng 12, một nửa số người di phép đợt hai đă có mặt.
Riêng trường hợp nghỉ phép của trung đoàn truởng Trần Hữu Tạo vì đã có người thay thế nên chính ủy Dương Đình Thảo quyết định nếu có tình huống gì 'xảy ra mới cho đi gọi. Nhưng ngay buổi sáng ngày 18, liên tiếp nhận được nhiều bức điện "B.52 có thể đánh..." anh cho xe đi Hà Bẳc gọi trung đoàn trưởng về.
Gần trưa ngày 18 có tiếng xe ô-tô chạy vào trong ngõ. Đang ngồi nghĩ ngợi miên man, Tạo vùng chạy ra. Long dừng xe đột ngột, thấy trung đoàn trưởng mà chẳng kịp chào, hớt hải nóí ngay:
- Ở nhà báo động thủ trưỏng ạ!
- Báo động hành quân hay báo động máy bay?
- Dạ, báo động B.52! Có lẽ sắp "ùng oàng" đến nơi rồi!
Trần Hữu Tạo thốt lên "biết mà!" rồi chạy vào xách chiếc ba lô đã sắp sẵn, cả chiẽc khăn mặt cũ đã buộc vào đấy từ bao giờ. Anh chào bà chị và các cháu. Cả nhà khăng khăng giữ anh lạì ăn trưa nhưng Tạo dửt khoát xin đi ngay. Anh nói để bà chị anh vui lòng:
- Thằng địch sắp đánh đến nơi rồi! Công việc của chúng tôi nhanh chậm vài phút cũng hệ trọng lắm. Ẵn uống thì chị khỏi lo. Đóỉ ở đâu anh em chúng tôi dừng xe ăn ở đó.
Vừa xuống xe anh chạy thẳng vào sở chỉ huy. Chính ủy Thảo đang cầm máy nói thấy Tạo xồng xộc bước vào, Thảo quay ra, nét mặt rạng rỡ. Nhưng ai đó ở đầu dây bên kia đã kéo chính ủy trở lại với công việc. Tiếng Thảo ôn tồn:
- Nếu đêm nay B.52 nó vào, cái xe "U", của đồng chí có đánh được không?... Được hả? Thế thì không được nản! Phải động viên anh em tích cực điều chỉnh, bảo đảm tham số cho thật chính xác.
Đứng ngoài, Trần Hữu Tạo bồn chồn, hồi hộp tự hỏi: "Khí tài của "thằng" nào lại hỏng đây?"
Chính ủy vẫn cầm máy, quay lại nói nhanh với Tạo:
- Khí tài của tiểu đoàn 57 lại hỏng rồi! Từ sáng đến giờ anh em họ làm tham số mẩy lần rồi mà vẫn chưa được. Anh đợi tôi một chút. Tôi đang nói chuyện với cậu Thăng.
Chuông điện thoại sẽ leng keng vài tiếng. Chính ủy lại thư thái hỏi: "Đồng chí Thăng đấy hả? Tôi Thảo đây! Anh Tạo mới về rồi nhé!... Khỏe. Ban nãy đồng chí có hỏi việc cho cậu Thuần trắc thủ lên thay sĩ quan điều khiển đi phép vắng. Đồng ý nhé! Không sao cả. Thượng sĩ mà làm được việc của sĩ quan thì cứ mạnh dạn giao cho anh em.. Nhớ nhé, 15 giở phải báo cáo trung đoàn. Khó khăn à? Không được! Phải tìm cách khôi phục bằng được! Nỏ đánh thật đấy!
- Cậu Thắng đã về chưa anh? - Thấy chính ủy vừa buông máy, Trần Hữu Tạo hỏỉ ngay.
- Tôi chưa cho người đi gọi Thắng. Đồng chí sĩ quan điều khiển ở D94 thay thế tốt. Nẽu đêm nay có chuyện, trận đầu sẽ vắng mặt một số cán bộ, chiến sĩ.
Chính ủy chậm rãi kéo tay đoàn trưởng ngồi xuống bên bàn tiêu đồ. Anh bắt đầu mở sổ tay ra rồi cười hiền lành.
- Thấy anh về, tội nhẹ cả người!
Nhìn nét mặt mệt mỏi và những vết chân chim mới hằn nơi đuôi mắt của Thảo,Tạo giật mình ân hận. Mấy ngày nay anh đã đi nghỉ không đúng lúc.
Tiểu đoàn trưởng Trần Minh Thắng đi phép đợt hai. Mặc cho tình hình căng thẳng thế, chính ủy Thảo vẫn chưa cho gọi anh về. "Tiếng súng sẽ là hiệu lệnh thu quân", chính ủy tuyên bố như vậy"
Sáng ngày 18, đang lợp lại cho vợ cái chuồng gà, Thắng bỗng thấy nóng ruột vô củng. Anh càng làm càng thấy chán việc, chỉ muốn làm qua quýt cho xong. Anh đoán ở tiểu đoàn của anh cỏ chuyện gi đây. Buổi trưa ngồi bể con anh vẫn thấy còn cảm giác đó. Hay là đơn vị đã có lệnh đi gấp? Nhưng tại sao "ở nhà" không điện khẩn cho anh? Không kìm lòng được, Thắng đem chuyện ấy nỏi với vợ trong bữa cơm chiều. Chị vợ có ý không bằng lòng, cứ lặng ngắt cho đến cuối bữa.
Thế là cái tổ ấm nhỏ bé của Thăng bỗng dưng có một buổi chiều tẻ lạnh. Càng im lặng, anh càng cảm thấy ruột gan cồn cào. Chưa bao giờ anh có cảm giác như thể. Tốì hôm ấy trời rét. Vợ chồng anh tắt đèn đi nghỉ sớm. Vợ anh vẫn còn giận, nằm xoay lưng lại phía chồng nói dỗi: "Anh nghỉ phép đi B mà lúc nào cũng nhắc nhỏm nói đến đơn vị. Muốn đi thì cứ đi đi...". Thắng thấy vai vợ rung rung trong tay mình. Chợt nhận ra mình sắp xa vợ, xa con, đi biền, biệt chưa biết hao giờ mới về, anh ngẩn ngơ, ân hận...
Đang định lựa lời an ủi vợ, bỗng Thẳng nghe có tiếng máy bay. Như một chiếc lò xo, anh bật dậy chạy ra giữa sân đứng nghe cho rõ hơn. Còn đang ngỡ ngàng vì tiếng động cơ là lạ, ào ào như tiếng xay lúa, Thắng thấy những chớp lửa chói lòa, liên tục hắt lên từ chân trời trước mặt. Sau đó là hàng loạt tiếng nổ, giật mạnh, đanh rền. Đã qua nhiều trận bom, Thắng chưa bao giờ gặp một trận đánh dữ dội như thế này. Tên lửa, cao xạ bắn lên mỗi lúc một nhiều. Đủ loại tiếng nổ chồng lên nhau rền từng hồi dài.
- Nỏ đánh Hà Nội rồi! - Thắng nghiến răng, dậm chân, chợt nhìn thấy vợ, phong phanh đứng đằng sau, Thắng nói thêm - Tiếng bom nghe lạ lắm! B.52 vào đánh rồi!
Tiếng kẻng báo động vang khắp bốn bề, chìm trong tiếng bom.
- Có phải cho con xuổng hầm không? - Vợ Thắng hỏi.
Khống kịp trả lời vợ, Thắng vơ quáng vơ quàng vo viên quần áo, chăn màn nhét vào chiếc ba lô con cóc. Anh lập bập nói trong hơi thở:
Anh phải về tiểu đoàn. Nó đánh lớn lắm!
Như phụ họa với câu nói của Thắng, những chớp lửa lại lỏe sáng ngoài cửa sổ. Căn buồng lại rung lên. Người phụ nữ chưa hết hoảng hốt vỉ trận bom bất thần dội xuống ở đâu đó rất gần (cả hai vợ chồng đều không biết B.52 đang đánh sân bay Hòa Lạc, cách nhà. họ không xa) chị sững sờ, choáng váng vì ý định ra đi của chồng, Chị nhìn ra ngoài trời. Trăng suông, gió rít lạnh lẽo. Chị ôm chặt đứa con vào lòng, mệt mỏi dựa lưng vào tường nhìn chồng chằng buộc ba lô vào xe. Chị hiểu, anh không thể làm khác được. Mãi đến khi chồng nói "Anh đi đây, mẹ con cẩn thận đấy nhé!" rồi nhẩc bổng chiếc xe qua bậc cửa, chị mới choàng tỉnh, chạy theo anh ra đến sân dúi vội vào tay chồng lọ dầu "con hổ" nóỉ lạc cả giọng: "Anh xem còn quên gì không? Xoa dầu cho nó đỡ lạnh". Thắng sững lại cúi xuống sát mặt vợ, nhìn rõ hai vệt nước mẳt đang chảy âm thầm trên má chị.
Đêm ấy, tiểu đoàn trưởng Trần Minh Thắng đạp xe một mạch từ Sơn Tây về trận địa. Anh băng qua Hà Nội, vượt cầu Long Biên, Cầu Đuống và lần mò qua những khu vực B.52 vừa đánh phả ở cầu Chui, Yên Viên. 4 giờ sáng ngày 19 tháng 12 anh đã ngồi trước màn hiện sóng "Vi-cô" chỉ huy tiểu đoàn chiến đấu. Sau này, mỗi khi nhớ lại đêm 18, Thắng vẫn thường nói trong tiếng cười sảng khoái "Ngày hôm ấy ở tiểu đoàn anh em hết mong lại nhắc đến mình liên tục như thế thảo nào mình chẳng nóng ruột. Lạ thật, chẳng lẽ con người lại có thể linh cảm được như thế ư?".
Đêm 18, nhiều cán bộ, chiến sĩ trung đoản 261 khi nghe súng nổ đã trở về đơn vị như Thắng, gần thì họ chạy bộ, xa thì họ đạp xe. Mọi người vẫn kể
- Có một chiến sĩ trẻ, quê ở Đông Anh, đang đi dạo với người yêu thì trận đánh xảy ra. Ngay lập tức ngườỉ yêu của anh dùng xe đạp đưa anh tới trận địa tên lửa. Đêm ấy còn cỏ thêm một chỉ tiết lý thú nữa: cùng chung chặng đường từ Sơn Tây về đơn vị như Trần Minh Thắng còn có cặp vợ chồng Cấn Quách Dỹ, chiến sĩ lái xe, tiều đoàn 57 trung đoàn 261. Được nghỉ phép Dỹ đưa vợ từ thị trấn Yên Viên về quê anh ở Thạch Thất (Sơn Tây) thăm gia đình. Cũng như Thắng, sau đợt bom B.52 đầu tiên, Dỹ quyết định trở lại tiểu đoàn của anh ngay. Lòng đầy hăng hái, chị Đinh Thị Liệu, vợ anh đã ủng hộ quyết định của chồng. Đêm tối, hai vợ chồng lại chỉ có một chỉếc xe đạp. Chuyến đi của họ lâu hơn, vất vả hơn Thắng rất nhiều.
Ngồi đằng sau xe, chị Liệu cứ đấm thùm thụp vào lưng chồng, đòi đạp thay anh một đoạn. Dỹ ầm ừ nhưng vẫn cắm cúi đạp: "Ngồi yên nào...". Anh lần lượt cởi áo trấn thủ, áo quân phục ấn vào tay vợ.
Gà gáy sang canh, họ có mặt ở Cầu Đuống. Chị xuống xe kiên quyểt giục anh: "Nó đảnh Yên Viên rồi! Anh đừng về nhà nữa!'' Dỹ ngần ngử, để chị một mình đi về nhà anh không đành lòng.
Dùng dằng một lúc, anh theo đường số 3 lên Đông Anh, chị thẳng đường 1 về nhà, nơi họ đến đều là bãi bom B.52 vừa rải thảm...
***
Cho đến sẩm tối ngày 18 tháng 12, bầu trời Bắc Bộ vẫn hoàn toàn yên tĩnh. Một sự yên tĩnh rất lạ lùng. Tất các đài ra-đa cảnh giới đang trực canh đều báo về: không có mục tiêu. Và lạ hơn không cỏ cả nhiễu tạp. Các trắc thủ ngồi trước màn hiện sóng nhận ra cái vẻ khảc thường trên màn huỳnh quang, rất rõ.
Tham mưu phó binh chủng ra-đa cũng nói rằng, khi nhận được báo cáo anh đã ngờ vực sự tĩnh lặng này. Ở sở chỉ huy trung tâm của binh chủng, sự nín lặng trên không suốt cả ngày nay đang làm cho không khí mỗi lúc một nặng nề. Hoàng hôn qua đi lúc nào cùng không ai biểt. Vào giờ nảy mọi ngày, chuông điện thoại đang đổ hồi. Cảc trợ lý, nhân viên tha hồ mà tính toán tốp, chiếc, vặn hỏi nhau vì những sơ suất, nhầm lẫn... Hôm nay tất thảy đều lặng im.
18 giờ. Ra-đa cảnh giới ở Quảng Bình báo về "Có nhiễu tạp". Cường độ nhiễu tăng lên rất nhanh. 15 phút sau, đại đội 37 đặt trên một đỉnh núi heo hút ở tây bắc cũng phát hịện được hai tốp mục tiêu bay từ Lào sang. Không khí trong trung tâm bừng tỉnh, phá vỡ sự im lặng ngột ngạt suốt cả một ngày. Tiêu đồ "đi" được đến Yên Bái thì máy hay địch hạ độ cao, mất hút giữa vùng rừng núi trùng điệp.
Sau cả một ngày im ắng, sự xuất hiện của hai tốp mục tiêu này rõ ràng là một dấu hiệu đáng chú ý. Cả binh chủng vào cấp 1 tăng cường. Thêm hơn một chục chiếc ra-đa nữa mở máy. Các trận địa trên khắp miền Bắc đều báo: Nhiễu tạp! Cường độ rất mạnh.
Đây chính là thời điểm bộ đội ra-đa bước vào trận chiến đấu lịch sử, kéo dài 11 ngày 12 đêm cuối năm 1972.
Sau này, chúng ta mới biết sở dĩ có một thời gỉan yên tĩnh kỳ lạ lúc sẩm tối ngày 18 tháng 12, vì tất cả cảc mảy bay chiến lược, chiến thuật đều tặp trung cho đợt đánh phá lớn trong đêm nên địch không còn mảy bay quấy phá ở những nơi khác. Sự yên tĩnh trên không đó giống như sự tĩnh lặng trước khi cơn bão ập đến. nhiều người đã cảm thấy điều đó rất rõ.
Có lần nói chuyện với đồng chí tham mưu phó binh chủng ra-đa tôi đã rụt rè đưa ra một nhận xét:
- Có nhiều người nhắc đến những linh cảm trước mối hiểm họa. Nghe như là huyền thoại. Không rõ thực hư thế nào?
- Có thể đúng như vậy! - Anh cười lý thủ - Điều đó có cơ sở khoa học hẳn hoi. Nếu mấy ngày trước đó mà không có những nhận định, chỉ thị, mệnh lệnh tác chiến, không xoay trần ra chuẩn bị chiến đấu... thì ngày 18 không thể nhạy cảm với mọi vẻ không bình thường, dù rất nhỏ của nỏ. Phải nói rằng, trước khi "linh cảm" thấy một trận đánh lớn sắp xảy ra, chúng ta đã tiếp thụ và suy nghĩ bao nhiêu ngày những nhận định chiến lược của bộ Chính trị, Bộ tổng tham mưu và của quân chủng. Bản thân chúng ta là những người lính, xương máu đã dạy cho chúng ta rất nhiều... Cái nhạy cảm của những ngtrời đã quen với trận mạc, cũng có nhiều cái lạ lắm. Tất nhiên, không phải ai cũng nhạy cảm với tình hình, vào cái ngày đáng ghi nhớ ấy, nếu họ không thực sự toản tâm toàn ý với sự nghiệp chiến đấu bảo vệ bầu trời.
Chiến tranh! Nó không hoàn toàn là một cơn giông bão. Trước cơn bão thời tiểt ở khu vực ấy biến đổi rất rõ: trởỉ nóng bức, không khí ngột ngạt, khó chịu, chân mây màu mỡ gà... Đó là những dấu hiệu cùa thiên nhiên dễ nhận thấy. Nhưng nhận biết một hiểm họa của chiến tranh đang đến không phải dễ. Kẻ thù tìm mọi cách giấu giếm ý đồ của chúng. Nhà thơ Ta-go-rơ đã nói: "Con người trở thành thú thì ác hơn thú". Nich-xơn đã tiến đến cái khoảng "ác hơn thú" bằng cách gieo rắc những ảo tưởng hòa bình cho mọi người trước khi dùng B.32 giết người hàng loạt.
Hàng chục vạn người dân Hà Nội đã không lường đến cái tai họa khủng khiếp sắp giáng xuống đầu họ. Khi thành phố kéo còi báo động B.52, cỏ người còn chép miệng: "Báo động tập" và không chịu xuống hầm. Tối hôm ấy cửa hàng Bách hóa Tổng hợp vẫn mở cửa bình thường. Điện của thành phố vẫn sáng trưng. Mùa đông nhưng trên các ghế đá ở công viên vẫn không vắng những lứa đôi tình tự.
*
* *
Ngày 18 tháng 12 cũng là một ngày không binh thường ở ba căn cứ: Óp-phớt (bang Ni-bra-xca), Anderson (đảo Gu-am) và U-Tapao (Thái Lan).
Óp-phớt là nơi đặt bộ chỉ huy không quận chiến lược Mỹ (SAC). Còn Anderson là nơi đặt bộ chỉ huy không quân chiến lược số 8, đồng thời cũng là căn cứ xuất phát của máy bay B.52 tham gia chiến dịch "Linebacker II". Còn U-Tapao cũng là một căn cứ xuất phát thuộc tập đoàn này.
Ở Óp-phớt, dưới quyền chỉ huy của tướng bốn sao Mây-e, SAC nhận lệnh "đặc biệt" của Lầu năm góc và JCS, rồi cái guồng máy quân sự khổng lồ này bẳt đầu hoạt động. Chỉ có các sĩ quan, nhân viên, các máy tính điện tử... và bản thân Mây-a mới cảm nhận được cái vẻ khác thường của ngày hôm ấy: lần đầu tiên, từ khi có SAC, nó được chỉ huy một cuộc tiến công của B.52 lớn lao và quan trọng đến thế.
Ở Anderson và U-Tapao, bọn giặc lái B.52 cũng đã đánh hơi thấy có một cái gì rất quan trọng sắp xảy ra. Nhưng ngoài những chỉ thị khác thường: "Phải túc trực ngày đêm", "Phải sẵn sàng làm nhiệm vụ đột xuất", "Phải chuẩn bị cho rất nhiều B.52 cất cánh cùng một lúc"... và cứ thấy bọn chuyên viên phi hành B.52 từ Mỹ ùn ùn kéo tới chúng không được biết gì thêm.
Lầu năm góc, JCS và SAC đã bí mật đến phút chót chiến dịch "Linebacker II". Thậm chí khi bọn giặc lái B.52 ở Anderson được gọi lên buồng "bíp-phinh" (buồng hội ý), bọn ở U-Tapao vẫn chưa hay biết gì. Đến chiều, chúng mới được "bíp-phing" và cứ thế ra thẳng máy bay để thực thi "nhiệm vụ đặc biệt".
Vảo đến nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), Hen-ri Sác-Ba-râu giặc lái B.52 đă kể với nhà báo Thành Tín về buổi chiều "bíp-phinh" đầy những bẩt ngờ và lo âu của bọn chúng ở U-Tapao, như sau:
"...Hôm ấy chúng tôi bị gọi đi rất đông. Vâng, chưa bao giờ phòng "bíp-phinh" đông đến thế. Mỗi tổ bay sáu người. Có thể đến hơn 40 tổ bay. Tức là gần 250 người.. Lại còn bọn sĩ quan tham mưu. Được lệnh mặc nguyên quần áo bay đến họp. Họp là đi luôn, không được trở về buồng.
Bản đồ lớn treo trên tường. Trên bệ cao phía phải đặt một chiếc bàn gỗ, trên có đặt máy phỏng thanh. Ngồi hàng đầu, chính giữa là tướng một sao Xa-li-vân chỉ huy toàn căn cứ. Ông ta tóc nâu, người béo thẩp hơn tôi, 48 tuổi. Nghe nói nặng hơn 160 pao (một.pao gần nửa ki-lô-gam). Bên trái ông ta là đại tá Đê-vit chỉ huy biên đội 307. Bên trái Đê-vit là ba, bốn đại tá nữa ở cơ quan tham mưu.
Bộ mặt Xa-li-vân, Đê-vít đều rất nghiêm trang. Bọn sĩ quan tham mưu thay nhau báo cáo về nhiệm vụ, về tổ chức đợt đi ném bom, về kế hoạch cất cánh, đường bay. Một đại tá nói riêng về kế hoạch bay đêm cần chú ý những gì. Một trung tá báo cáo về thời tiết các vùng bay qua. Một trung tá báo cáo về những khu vực bị đe dọa. Chúng nó nói nhiều. Nhiều đến sốt ruột. Chúng tôi nghĩ, nhét lắm chuyện đến thế thì ai nhớ được! Mà giờ cất cánh chỉ còn 20 phút. Xa-Ịi-vân đứng dậy nói rất ngắn. Tôi không nhớ từng câu, nhưng đại ý là: đây là nhiệm vụ rất đặc biệt. Quan trọng lắm. Lệnh thẳng từ tổng thống Nich-xơn. Tướng Vốt, tư lệnh tập đoản không quân số 7, phó tổng tư lệnh bộ chỉ huy Mắc-vi Sài Gòn căn dặn là phải hoàn thành cho tốt đẹp.
- Ý chừng ông ta biết chúng tôi đều lo vì phải đi vào vòng hỏa lực dày đặc, ông ta dặn câu cuối cùng: phải cẩn thận. Nhưng không cỏ gì phải lo ngại, chúng ta đi đêm. Được hộ tống tốt. Chắc chắn sẽ về đủ. Chúc mọi người về đủ! Cả hội trường im lặng. Chẳng ai thấy yên tâm hơn về lời chúc ấy.
Đại tá Đê-vít cũng đứng dậy. Ông ta nói rất khó nghe, chỉ dặn chúng tôi: "Chớ cớ nói ra-đi-ô nhiều. Bám nhau cho tốt. Bình tĩnh xử trí mọi tình huống".
Giờ đây Hen-ri Sác Ba-râu đang làm gì và ở đâu? Chắc chắn những gì đã xảy ra trong ngày và đêm 18 tháng 12 năm 1972 không bao giờ hết nhức nhối trong đầu óc hắn.
Ở Gu-am, trong căn cử Anderson buổi "bíp-phinh" diễn ra sớm hơn ở U-Tapao. Chỉ huy buổi "bip-phinh" là tướng ba sao Gi-rôn Giôn-xơn.
Đúng 12 giờ trưa, bọn giặc lái ùa ra sân đông như một đàn kiến chúng nặng nề bước đến những chiếc "pháo đài bay" to đùng, già cỗi, sơn màu đen. Mấy ngày hôm nay, bọn kỹ sư, thợ máy xoay trần ra sửa chữa, tu chỉnh cho những chiểc máy bay đã có giờ bay quá cao, máy móc rão rợt rồi. Thấy bọn kỹ thuật cắm cúi làm, lũ giặc lái càng lo. Cấp trên của chúng trấn an: chớ có lo gì hết; sẽ bám đuôi nhau đi, bám đuôi nhau về đầy đủ. Bọn chỉ huy thi bao gỉờ chẳng nói vậy.
Lũ giặc lái ở đây đã quen "làm chiến tranh sạch sẽ", "lảm chiến tranh quý tộc bằng bấm nút điện". Chúng đã đi ném bom ở Lào, Căm-pu-chia và ở Nam Việt Nam. Ở những nơi đó không có tên lửa và Mich. Những loại hỏa lực khác không sao với tới tầm bay của chúng. Vì thế các phi vụ ném bom thật đơn giản: "Bíp-phinh". Cất cánh. Bay theo đường bay đã định sẵn, đến vị trí ném bom (đã vạch sẵn trên bản đồ). Thêm một chút tính toán về sức gió. Tên sĩ quan hoa tiêu ra-đa sẽ bấm một cái nút rất nhỏ sơn màu đỏ. "Tách", nhẹ như bấm bút chì bi. Hòm đựng bom sẽ mở bằng máy điện. 150 hay 200 quả bom sẽ từ trên cao 3 vạn "phít" rơi xuống. Sau đỏ là hạ cánh. Lả những trận "đập phá" chết thôi ở câu lạc bộ sĩ quan hoặc ở các Hô-ten ngoài thành phố A-ga-na (Gu-am). Nếu cần, có thể đi Hồng Kông, Phỉ-lỉp-pỉn. Ở đấy có đủ thứ cỏ ngon, vật lạ, gái đẹp... cho chúng hưởng lạc.
Nhưng hôm nay không thuộc cái chu trình ngon lành và suôi sẻ ấy. Chúng đang bay tới Hà Nội. Chúng linh cảm thấy những điều chẳng lành. Chúng bò cả cái thói quen của đám gà nòi vẫn chào nhau bằng cách xòe ngón tay trỏ và ngón tay giữa thành hình chữ V (chữ đầu của Victory - chiến thắng). Chừ V không chỉ là Victory mà còn là Việt Nam! Chúng sợ. Có những tên không nói được, đã bật ra nói với đồng bọn rằng: xuẵt phát từ căn cứ Anderson chỉ sui thôi! Rồi cũng đến theo số kiếp của lão Anderson cho mà xem (Anderson là viên tướng lái B.29 đã chết trong chiến tranh thứ hai. Được Mỹ lấy tên đặt cho căn cứ này).
Tất nhiên, trong suốt thời gian bay đến vùng trời Việt Nam, bọn giặc lái không phải chỉ lo âu, sợ hãi, chúng còn hy vọng, chúng tin vào những chiểc "hộp đen" (thiết bị điện tử) sẽ làm "mù" các ra-đa của đối phương. Ở Vinh, ở Thanh Hóa và ở Hải Phòng trước đây, những chiếc hộp đen đó đã có thời tỏ ra hữu hiệu. Chúng hy vọng, ở độ cao 3 vạn phít, ban đêm, thời tiết xấu, máy bay Mích sẽ không làm gì được chúng. Lại còn có F.4 nghi binh, có F.4 chặn Mich... hôm nay, lũ máy bay chiến thuật bâu theo chúng đông hơn bao giờ hết...
Thật là một chuyến bay rất dài. Dài đến mức làm cho đầu óc chúng càng thêm nghĩ ngợi, rối bận. Chưa bao giờ trên đường đi ném bom đầu óc chúng lung bung đến thế.
*
* *
Phương vị 300 độ
Trong mỗi chiến công bắn rơi. máy bay Mỹ trên bầu trời mỉền Bắc đều có trong đó một phần chiến công thầm lặng của bộ đội ra-đa những chiến sĩ ngày đêm canh trời Tổ quốc.
Mở đầu trận chiến đấu chống cuộc tập kích bằng B.52 vào Hà Nội, binh chủng ra-đa đã thực hiện trọn vẹn lời hứa: " Không để Tổ quốc bị bất ngờ". Phát hiện dược B.52 từ xa, mạng lưới ra-đa tình báo đã giành cho các đơn vị hỏa lực ở Hà Nội nửa giờ chủ động đón đánh địch. Trong chiến tranh, đó là những giây phút vàng ngọc.
Suốt 12 ngày đêm binh chủng ra-đa đac liên tục bắt tất cả các loại mục tiêu, dẫn dắt chính xác, tạo mọi cơ hội cho bộ đội tên lửa, không quân và pháo cao xạ đánh trả những đòn quyết định vào cuộc tập kích chiến lược của kẻ thù.
Diễn biến trận đầu, đón bẳt B.52, có thể tỏm tắt như sau:
18 giờ 40 phút ngày 18 tháng 12. Sở chỉ huy trung tâm báo động mạng ra-đa cảnh giới.
19 giờ. Đại dội 15(trung đoàn 291) ở phía tây Trường Sơn phát hiện có một tốp máy bay từ Mường Phin (hạ Lào) leo lên phía bắc. Một phút sau, đại đội 16 của trung đoàn ấy báo có nhiễu B.52. Sau đó, mặc dầu mục tiêu chưa hiện rõ, nhiễu tạp lại dày nhưng bằng những kinh nghiệm đã tích lũy được, trắc thủ máy đo cao Tô Trọng Huy vẫn mạnh dạn quả đoán B.52 ở tọa độ X. Nhận báo cáo, trung đoản trưởng Đỗ Nam cho đại độỉ 45, đơn vị chủ công của trung đoàn mở mảy. Mệnh lệnh đó đã được đại đội trưởng Đinh Hữu Thuần thực hiện nhanh chỏng. Chỉ mấy phút sau, đài trưỏng Nghiêm Đình Tích và các trắc thủ Phạm Hoàng Cầu, Nguyễn Văn Xích đã thấy ba dải nhiễu B.52 ỏ đúng tọa độ mà Tô Trọng Huy đã thông báo. Lúc đầu toàn kíp vẫn rất bình thản. Mảy "pờ-35" của họ vẫn bắt được những tốp máy bay B.52 đi ném bom Cánh đồng Chum - Xỉêng Khoảng (thượng Lào). Những tốp B.52 này thường cất cánh từ U-Tapao (Thái Lan) bay qua sông Mê Công, ngược lên phía bắc. Thường thì cứ đến các phương vị 270 độ, 280, 290 là chúng rẽ trái, tiến vào các mục tiêu đánh phá. Vi vậv những tọa độ ấy đã trở nên quen thuộc đối với Tích và các trẳc thủ.
Nhưng lần này ba chấm sáng tín hiệu vượt qua phương vị 290 rồi mà vẫn chưa đổi hướng bay. Thấy lạ Phạm Hoàng Cầu và Nguyễn Văn Xích liếc nhanh về phía Nghiêm Đình Tích chờ đợi.
Mục tiêu đã đến phương vị 300 độ. Thế này là thế nào? Thằng Mỹ thường hành động chính xác, ít khi đi "mua đường". Chợt một ý nghĩ lóe sáng trong đầu Tích. Anh quả quyết nhận xét:
- B.52 bay vào miền Bắc!
Tích nghe thấy đại đội trựỏng Thuần hỏi đốp ngay:
- Có đúng B.52 không?
Nếu không phải B.52 thì đường bay này hết sửc thông thường. Máy bay chiến thuật thường vuợt lên trên phương vị 300 để rẽ vào vùng trời miền Bắc. Tích trả lời ngay:
- Đúng là B.52!
Ngay tức khắc, trung đoàn truởng Năm cũng hỏi lại:
- Xác định lại xem! Có đúng B.52 vào miền Bắc không?
Phương vị 300 đã lùi lại phía san tốp mục tiêu. Tích hiểu, gần đây có mội vài lần ra-đa hoang báo B.52 nên cả đại đội trưởng lẫn trung đoàn trưởng đều thận trọng. Cố nén xúc động. Tích nói bình tĩnh, rành rọt, có vẻ hơi gắt nữa:
- Đúng B.52! Mục tiêu sắp bay vào vùng trời miền Bắc.
Tích trưởng tượng, nến thể hiện trén tiêu đồ, đường bay cùa địch sắp cắt ngang đường biên giới Việt - Lào. Giọng nói nghỉêm trang, đĩnh đạc của Tích chắc đã thuyết phục trung đoàn trưởng, không thấy anh hỏi gì thêm.
(Sau này Tích được trung đoàn trưởng Năm kể lại: Đêm ấy khi trung đoàn 291 báo về sở chỉ huy trung tâm. Nhận được tin ấy, tham mưu phó binh chủng còn hỏi đến hai lần: "Có đúng B.52 không?".
Kể đến đây, trung đoàn trưởng đã vỗ vai Tích: "Không phải thiếu tin ở các cậu. Nhưng đây là một tình báo vô củng quan trọng. Không thể không thận trọng trước khi báo cáo cấp trên". Rồi tủm tỉm cuời một mình, anh Năm gật gù nói thêm; "Nghĩ cũng lạ! Hàng ngày quân chủng. binh chủng vẫn gọi điện nhắc trung đoàn: "Chú ỷ B.52 bay vào Hà Nội!". Trung đoàn cũng nhắc các đại đội na ná như vậy. Đến khi nghe báo cáo: "B.52 vào hướng Hà Nội!" vẫn cứ hỏi đi hỏi lại "Có thật không?". Thế mới kỷ chử!"
Các phần tử của đạí đỏi 45 được phát thẳng về trung tâm và được báo cáo ngay với tư lệnh quân chủng: "B.52 có khả năng vào đánh Hà Nội!". Tư lệnh chạy sang sở chí huy ra-đa. nhìn vào đường bay của tốp B.52 đầu tiên, đồng chí ra lệnh: "Thông báo tín hiệu 313" (lệnh báo động B.52 cho toàn miền Bắc).
Lúc ấy là 19 giờ 15 phút, ngày 18 tháng 12 năm 1972. 35 phút sau, quả tên lửa đầu tiên của tiểu đoàn 78, trung đoàn 257 đã bay vút lên nhằm chiếc máy bay B.52 đầu tiên lao tới.
Sự thắng bại của mạng lưới ra-đa quốc gia thường đuợc tính từng phút một. Viết đến đây chúng tôi không thể không liên tưởng tới ngày 6 tháng 8 năm 1945. Hôm ấy mạng ra-đa của Nhật đã không phát hiện được chiếc máy bav Mỹ mang bom nguyên tử tiến về Hi-rô-si-ma. Khi thành phố báo động thì quả bom nguyên tử đã rơi xuống bung dù và nổ cách mặt đất 800 mét, giết chết tại chỗ 240.000 người dân vô tội Nhậl bản.
Binh chủng ra-đa đa viết nên những dòng chiến công đầu tiên của trận "Điện Biên Phủ trên không" như thế đấy. Ngày 22 tháng 12 năm 1972
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đến thăm trung tâm chỉ huy ra-đa.
"Thủ tướng bước đến bảng mica chăm chú theo dõi đườug bay của máy bay địcb đang được các chiến sĩ đánh đấu đường bay vạch lên theo phân tử của các đài ra-đa báo về.
Thủ tướng thân mật hỏi:
- Các đồng chí phát hiện được B.52 xa bao nhiêu?
Đồng chí phó tư lệnh binh chủng báo cáo:
- Báo cáo Thủ tướng, đợt B.52 đầu tiên đêm 18 tháng 12 bộ đội ra-đa báo trước cho Hà Nội được 35 pbút ạ!
Thủ tướng vui vẻ nói:
- Cám ơn các đồng chí!
Rồi bắt tay từng cán hộ, chiến sĩ có mặt trong sở chi huy. Ai nấy lặng đi vi xúc động".
*
* *
Đoạn tường thuật trên ghi theo lời kể của thượng úy Nghiêm Đình Tích, đài, trưởng của đại đội 45 năm xưa. Hiện nay anh đang công tác tại cục chính trị quân chủng Phòng không.
Chúng tôi còn biết vì chiến công phát hiện B.52 ngay từ đợt đầu tiên chúng tiến công Hà Nộí, Tích đã được thưởng Huân chuơng Chiến công hạng hai. Ảnn của anh được phóng to treo trân trọng trong phòng truyền thống của binh chủng. Những cuốn sổ tay ghi chép đường bay B.52 của anh trở thành những hiện vật quý của nhà bảo tàng binh chủng. Trong tập sách "Bầu trời tháng Chạp" Thái Đăng đã ghi chép về anh. Một đôi lần, khi những kỷ niệm chiến tranh ồ ạt, xô bồ trở lại với anh, Nghiêm Đình Tích có nói cho anh em chúng tôi nghe về những ngày tháng chạp rực rỡ một quãng đời của anh.
Song phải đến hôm nay chúng tôi mới được nghe anh kể đầy đủ hơn. Vốn là chỗ quen biết, chúng tôi đề nghị với anh "Hôm nay có tò mò vặn vẹo đôi chút, anh vui lòng trả lời nhé!», Nghiêm Đình Tich cười đồng tình. Chả là trước đây, mỗi lần hé mở chút đỉnh về chuyện đánh B.52, Tích hay nói: "Đi sâu vào bản chất, còn nhiều vấn đề lắm!".
Chúng tôi xin ghi lại toàn bộ cuộc phỏng vấn của chúng tôi và những câu trả lởi của Nghiêm Đình Tích. Hy vọng bằng cách này, "bản chất của vấn đề" được bộc lộ rõ hơn chăng?
*
* *
Hỏi - Theo anh, cuộc chiến đấn của bộ độí ra-đa năm 1972 có gi khác trước?
Trả lời - Có thể nói cuộc chiến đấu của bộ đội ra-đa trong thời kỳ ấy là điển hình của cuộc đọ sức trên lĩnh vực chiến tranh điện tử. Cuộc chiến đấu ấy thầm lặng nhưng vô cùng quyết liệt. Năm 1972, Nich-xơn triển khai chiến tranh điện tử quyết liệt hơn truớc nhiều. Có thể mấy năm chiến tranh vừa qua kẻ thù đã rút ra được nhiều kinh nghiệm. Các loại nhiễu mới lại tác yêu tác quái. Chỉ cần ngồi ở ghế trắc thủ theo dõi những thay đổi trên mặt đèn huỳnh quang, chúng tôi cũng biết cuộc chiến tranh trên làn sóng này đang diễn tới đâu. Chúng tôi lại chấp nhận những cuộc chiến đấu mới với những máy nhiễu "mới loanh": ALQ-87, ALQ-100...
Năm 1972, cùng với các binh chủng bạn,- chúng tôi phải đối mặt với B.52. B.52 mở những đợt đánh ồ ạt ra miền Bắc, Hà Nội và Hải Phòng... Nhiệm vụ của ra-đa là phải "vạch nhiễu" tìm bắt không sót một tốp B.52 nào khi chúng mò vào đánh phá. Và nếu xảy ra một cuộc tập kích chiến lược thì bằng mọi giá không để Tổ quốc bị bất ngờ.
"Không để Tổ quốc bị bất ngờ", chỉ có ngần ấy lời thôi, muốn thực hiện được hàng vạn cán bộ, chiển sĩ quân chủng ta đã phải lao tâm khổ trí, đổ nhiều mồ hôi và xương máu. Chiến công vẻ vang của tháng chạp năm 1972 ở Hà Nội tựu trung đã nói một cách đầy đủ cái đích mà binh chủng ra-đa đã đi tới trong năm 1972 hay suốt cả cuộc chiến tranh cũng vậy.
Những điều tôi vừa nói với các anh là tất cả những gì thu hoạch được trong năm 1972 đáng ghi nhớ ấy. Khi tôi ngồi trên chiếc ghế của đài trưởng, cứ nhìn mãi, nhìn mãi vào cái màn hiện sóng của tôi mà suy nghĩ.
Hỏi — Xung quanh cái màn hiện sóng ấy còn điều gì hay, anh có thể "tiết lộ quân cơ" được không?
Trả lởi — Có cái nói được. Cũng có cái chưa nói được (cười to).
Hỏi -?
Trả lời (sau tiếng cười) — Bày giờ chúng ta đã biết về B.52 khá rõ. Nào là từ B.52-A đến B.52-H, đã cải tiến bao nhiêu bước. Nào là B.52 có 16 máy gây nhiễu tích cực, 2 máy phóng giấv thiếc gây nhiễu tiêu cực. Tên các máỵ nhiễu là gì. tính năng ra sao, thậm chí do hãng nào sản xuất và giá bao nhiêu đô-la nữa. Ta đều biết tường tận, gần gũi, quen thuộc và dễ hiểu quá: Đại úy La Văn Sàng, kỹ sư điện tử, một cán bộ kỹ thuật đã lăn lộn khắp các chiến trường để thu thập, theo dõi về chiến tranh điện tử. Các anh nên đọc một tài liệu rất phong phú về chiến tranh giữa các làn sóng, về nhiễu mà anh ấy mới viết xong. Nhưng đây là những kiến thức của hôm nay. Chúng ta đang nói chuyện năm 1972. Mười năm trước đây tôi biết về B.52 quá ít. Những điều chưa biết baơ giờ chằng ghê gớm? Rồi cũng phải nhờ ở cấp trên, nhờ các nguồn thông tin do quân chủng cung cấp... chúng-tôi biết đại thể B.52 mang nhiễu gì. Điều chúng tôi quan tâm nhất là máy bay B.52 hiện trên màn huỳnh quang ra-đa như thế nào. Vâng cuối cùng vẫn phải trụ bám trên cái màn hiện sóng ấy mà xem xét. Cụ thể hơn, màu sắc nhiễu, độ rộng, độ mịn của nhiễu B.52, bộc lộ trên màn hiện sóng máy pờ-35 của tôi như thế nào. Làm quen nó, nhìn cho kỹ, ghi nhớ trong óc. Cần thiết thì phải mày mò vẽ lại, ghi chép cẩn thận rồi tìm ra quy luật. Sau đó xem có lợi dụng gì được ở những quy luật đó? Đấy mới là nhiễu. Vậy có nhìn thấy tín hiệu B.52 không? Và nếu nhìn thấy thì có phân biệt được tốp, chiếc không? Phải lần lượt trả lời những câu hỏi đó. Ai cũng biết chúng tôỉ không phải là những nhà khoa học. Chúng tôi chỉ là những người lính, văn hóa không quá lớp 10. Cũng như cuộc vật lộn với bọn máy bay "ép" trước đây, chúng tôi lại quên ăn, quên ngủ. Vì công việc mà lỡ hẹn với người yêu. Soi gương thấy mình già đi nhanh, mới hai mươi mấy tuồi đầu mà tóc đã sợi đen sợi bạc. Rồi có lúc phải to tiếng với nhau. Đâu là "nhiễu tư tưởng", đâu là nhiễu thật. Khoa học và duy ý chí. Biết bao cái bảo thủ kỹ thuật đơn thuần lười nhác nó ngáng đường. Làm gì có những thành, công dễ dàng. Có lần vợ tôi cắm củi đọc một cuốn sảch viết về "12 ngày đêm". Cô ấy không ham sách lắm, thế mà đọc một hơi. Xong thở dài khoan khoái, nói với tôi thế này: "Đánh B.52 đơn giản thế, máy móc nó tính cho cả! Thế mà anh hay quan trọng hóa".
Tôi lặng đi, bàng hoàng về câu nói của vợ. Tôi không tự ái cho riêng tôi. Chỉ thấy tiếc một điều: biết bao mồ hôi, xương máu đã đổ xuống để cho trận đánh ấy thành công một cách đến là dễ dàng! Vợ tôi đã từng bật khóc khi nhìn thấy xác chiếc B.52 cháy bùng, rơi tả tơi trong đêm nhưng cô ấy vẫn trở thành người vô tình với những điều chúng ta đang nói. Xin các anh đừng giận, tôi cho đó là lỗi của người viết. Tất nhiên, chúng ta không phải là những người ưa nói hay cho mình. Hồi ấy chúng tôi đã vấp váp, đã có những "mối hận" không thể nào quên.
Hỏi - Xin anh cho ví dụ.
Trả lời - Ở Vinh ngày 10 tháng 4 năm 1972 và ở Hải Phòng ngày 16 tháng 4 năm 1972.
Về những ngày trong tháng 4 năm 1972 ấy, chúng tôi buộc phải xen vào giữa những câu trả lời của Nghiêm Đình Tích bằng lời kể của trung tá Đỗ Văn Chung. Hy vọng làm sáng tỏ thêm những "mối hận" mà Tích chỉ nói thoáng qua.
"Ngày 10 tháng 4 năm 1972, B.52 lần tiên ra đến Vinh. Đánh đêm. Ra-đa cảnh giới đã để lọt những tốp B.52 này, thậm chí còn coi như không có chúng".
Sau đó bộ tư lệnh quân khu Bốn báo ra: "B.52 đánh Vinh!". Không rõ thực hư ra sao, quân chủng cử chúng tôi vào Vinh xác minh.
Chúng tôi gặp anh Nguyễn Cận. chủ nhiệm phòng không quân khu bốn. Anh nói cho nghe tình hình rồi bảo: "Thôi, nghiên cứu gì thì tùy. Đúng B.52 rồi đấy! Về mà lo cách đánh đi".
Chúng tôi đi xem vệt bom. Một bãi bom rải rất dày. Hố bom nọ chỉ cách hố bom kia 20 mét. Cứ chi chít, tít tắp như vậy hàng cây số vuông. Rẽ vào một trận địa cao-xạ ven bãi bom, chúng tôi tìm gặp đại đội trưởng. Anh có nước da đen cháy, nét mặt dữ dội. Hỏi, anh chỉ nói cộc lốc "Nghe tiếng bom rơi, rồi nghe nó nổ... không phải B.52 cứ chém đầu tôi đi!". Mọi ngưởi nhìn chúng lôị vừa ngạc nhiên vừa trách cứ. Có người lầu bầu trong miệng: "Bây giờ mà đi hỏi có phải B.52 không thì quá lắm". Chúng tôi cũng cảm thấy việc làm của mình vô duyên. Nhưng ra-đa không bắt được thì phải hỏi cho kỹ, xác minh cho đúng về Hà Nội mới rút kinh nghiệm được.
Khi chúng tôi trở ra, B.52 lại vửa đánh Hàm Rồng. Đêm ấy trung đoàn tẽn lửa 236 không bắt được và không đánh được B.52. Hôm sau chúng tôi cùng trèo lên đỉnh núi Quyết Thắng (Hàm Rồng) quan sát vệt bom B.52 với đồng chí trung đoàn trưởng trung đoàn 236. Nhìn thấy vệt bom B.52 rảì thảm chúng tôi càng lo đến trách nhiệm của người chiến sĩ canh giữ bầu trời.
Chúng tôi tìm gặp Nguyễn Đình Đông, Lê Văn An trắc thủ ra-ra của đại đội 4, trung đoàn 228 ở Hàm Rồng. Họ nói bằng những động tác kỹ thuật họ dùng ra-đa pháo bắt được mục tiêu B.52. Tín hiệu của loại máy hay này nổi rõ như nhân hạt lạc! Lần ấy Đông và An có hỏi tôi: Ra-đa của tên lửa bắt được mục tiêu ở cự ly bao nhiêu? Sóng về có rõ khỏng? Tôi không trả lờỉ họ mà lái sang chuyện khác...".
Ngoài câu chuyện của Chung vừa kể, trong tài liệu tổng kết của binh chủng tên lửa năm 1972 cũng cỏ đoạn viết: "Ngày 10 tháng 4 năm 1972 ở Vinh không có tình báo B.52. Trung đoàn 263 chuyển cấp chậm. Cường kích vào đánh sớm hơn B.52 10 phút. Các tiểu đoàn không đánh vào tốp nghi binh, nhưng khi thấy bom nổ nhiều lại đánh vào haí tốp cường kích.Một ngày sau mới xác định đưọc là B.52 đánh Vinh".
Về trận B.52 đánh Hải Phòng ngày 16 tháng 4 năm 1972 cũng vẫn tài liệu tổng kết ấy viết: "B.52 vào ném bom lủc 2 giờ 50 phút đến 3 giờ 5 phút. Tình báo B.52 bị đứt đoạn. Đợt đầu địch vào 10 tốp mà không đơn vị nào đánh được. Có tiểu đoàn bắt đuợc dải nhiễu B.52 hỏi lên trẻn nhưng không được khẳng định. Bỏ, sục sạo tốp khác thì nghe tiếng bom nổ".
*
* *
Chúng ta trở về với cuộc "phỏng vấn" còn dang dở:
Hỏi - Sau những "mối hận" ấy, tình hình thế nào?
Trả lời - "Mỗi lần vấp là một lần bớt dại". Đến tháng 12 năm 1972, xác định nhiễu B.52 không còn là vấn đề nan giải nữa. Muốn đạt được trình độ này, không dễ dàng gì, vất vả lắm. Tôi không kể những vất vả ra đây. Tôi đã nói rồi: cò cái nói được, cũng có điều chưa nói ra được. Những có điều khẳng định là không có chuyện ăn may. Đây thực, sự là một cuộc thi gan đấu trí, đấu kỹ thu