← Quay lại trang sách

Chương Bốn: Tội Ác Và Trừng Phạt.

* Chiến dịch đánh vào dân thường

Mỗi lần cỏ dịp nhắc lại chiến công đảnh thắng B.52 ờ Thủ đô Hà Nội chúng ta thường đặt lại câu hỏi: Giả sử nếu 12 ngày đêm ấy, nhân dân ta không đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ, cứ để mấy trăm lần chiếc B.52 và hơn một ngàn máy bay ném bom chiến thuật mặc sức hoành hành thì Thủ đô Hà Nội và một số nơi khác còn phải chịu sự tàn phá đến đâu? Và ở giai đoạn cuối của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta lúc ấy tình hình còn có thể diễn biến theo một sự bẩt ngờ nào?

Như đã nói ở trên, trong cuộc họp bàn định âm mưu dùng máy bay chiến lược B.52 tiến công vào Thủ đô Hà Nội, tướng Hây-gơ, trợ lý của Kít-xinh-giơ đã nói rằng: Chiến dịch "Lai-nơ bảch-cơ 2" sẽ tạo ra "A massive shock" đối với nhân dân Việt Nam Ních-xơn và những tên đầu sỏ ở Nhà trắng và Lầu năm góc, muốn thực hiện một chiến dịch đánh vào thường dân, đánh vào ý chí của đối phương.

Nich-xơn vẫn thường nói: y ngưỡng mộ Tơ-ru-man. Tơ-ru-man là "một tổng thống dũng cảm nhất của nước Mỹ". Việc làm của Tơ-ru-man được

Ních-xơn coi là "dũng cảm", là việc viên tổng thống đó đã quyết định dùng hai quả bom nguyên tử để đánh vào tinh thần nước Nhật, một nước Nhật đã đứng trước vực thẳm chiến bại và nhân thể đánh vào tinh thần nhân dân thế giới.

Ních-Xơn coi hành động của Tơ-ru-man là một tiền lệ. Lượng bom đạn mà chiến dịch "Lai-nơ bách-cơ 2" dội xuống miền Bắc Việt Nam, bằng sức phá hoại của năm quả bom nguyên tử mà người Mỹ đã ném xuống đất Nhật. Chỉ riêng Hà Nội thôi, đã phải chịu đựng tới hai quả bom như vậy rồi.

Báo "Sao và vạch" của quân đội Mỹ, đã từng viết như sau: "Về đợt B.52 đánh Hà Nội, Hái Phòng... nếu tính số bom ném xuống một ngày thì có thể chịu đựng bằng số bom ném xuống nước Đức, trong những tháng cuối đại chiến thứ hai. Nhưng xét về khu vực hạn chế (một vòng tròn có.đường kính một trăm dặm) thi có thề nói, chua bao giờ có nhiều tấn bom ném, xuống một khu vực trong một thời gian ngắn như vậy".

Các thống kê cho thấy: trong 12 ngày đêm tiến hành chiến dịch "Lai-nơ bếch-cơ 2" bom đạn Mỹ đã giết hại 4.025 dân thường, làm bị thương 3.327 người, phá hủy hoàn toàn 5.480 ngôi nhà, phá hỏng nặng 4.917 ngôi nhà khác. Ngoài ra, bom B.52 còn phá hủy 22 trưởng học, 3 bệnh viện, một số rạp hát, chùa chiền, di tích bảo tồn... ở Hà Nội.

Những con số đó làm chúng ta liên tưởng tới những vụ thảm sát ở Giéc-ni-ca, Vác-xa-va, Hi-rô-si-ma v.v... mà mục tiêu chỉ là những người dân lành và tổ ấm của họ.

Trở lại với đợt đánh phá đầu tiên của máy bay B.52, đêm 18 tháng 12 năm 1972 ở Hà Nội, chúng tôi đã đọc được những dòng sau đây ở một tài liệu hiện còn lưu trữ tại bộ tư lệnh phòng không Hà Nội:

"20 giờ 13 phút ngày 18 tháng 12 năm 1972: Tốp B.52 số 671 đi theo sườn Tam Đảo xuống đánh bom vào xã Uy Nỗ (Đông Anh). Tiểu đoàn 59 phóng hai đạn ở cự ly 34 và 32 ki-lô-mét. Đạn nổ gặp mục tiêu ở cự ly 27 ki-lô-mét. Máy bay cháy to. Rơi tại Phủ Lỗ".

Trong dòng tư liệu ngắn ngủi đó, chúng tôi đã chú ỷ đến "mục tiêu" mà B.52 ném bom là xã Uy Nỗ (Đông Anh). Giặc Mỹ đã lựa chọn một xã có mật độ dân số cao ở ngoại thành Hà Nội để tiến công. Như vậy là, một trong số những chiếc B.52 đến gây tội ác ở Uy Nỗ đã bị trừng trị. Còn những chiếc khác đã "thực thi" mệnh lệnh của tổng thống Ních-xơn ra sao?

Trước khi đến xã Uy Nỗ, để thu thập tải liệu về tội ác của B.52 đã gây ra ở đây, từ 10 năm trước, chúng tôi đã tìm được một đoạn ghi chép của nhà văn Ngô Văn Phú. Xin phép được trích ra đây, vì nó nói đến trận bom B.52 đêm 18, ở Uy Nỗ:

"...Những hố bom rất mau, đường kinh năm, sáu mét nằm đều đặn bên nhau. Gia đình ông Dị bị trúng bom. Ông bị sức ép nặng, vợ và bốn con

ông chết ở trong nhà. Bác Trạch, thợ cơ khí về hưu cũng bị bom giết hại, cả vợ lẫn con. Quả bom đến cửa hầm của chị Hà giết chết chị cùng đứa con trong bụng và cháu bé hai tuổi, con dâu của chị. Một người bạn gái của chị chết cạnh đó. Vệt bom B.52 đầu tiên ấy giặc Mỹ giết hại toàn đàn bà và trẻ con"1

Đêm 18 tháng 12, B.52 không chỉ ném bom rải thảm xuống Uy Nỗ có một lần, mà tới ba lần... Ngô Văn Phú đã ghi chép về đợt ném bom thứ ba như sau:

"Chị Thoa và anh Tụng nghe tiếng bom réo, lấy thân mình che chở cho đứa con nhỏ vừa sinh chưa kịp đặt tên, đều bị giết cả. Ở một căn nhà khác, khi giỡ ngói, gỗ ra thì bà Nụ và hai con đã chết trong giường. Người mẹ chết, bàn tay còn ôm choàng che chở cho con mình. Trong một căn hầm, anh Ly cùng ba con nhỏ chết không còn một ai. Cái làng bị đánh hết sức ác liệt, tàn bạo. Mỗi tấc đường, mỗi cành cây nát tướp, mỗi đống gạch vụn, mỗi giọt máu của người chết còn rớt lại là một lời tố cáo, lời kêu gọi trả thù"2. Bè lũ Ních-xơn đã dùng B.52 để mở màn cái gọi là "cú xốc ào ạt" của chúng như thế đấy!

Từ ngày 23 tháng 10 năm 1972; khi những tin tức phong thanh về hội nghị Pa-ri lan truyền ở Hà Nội, cùng với việc Ních-Xơn ngừng; ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, người Hà Nội nghĩ nhiều đến hòa bình. Hà Nội nhanh chóng bình yên trở lại. Vẫn biết kẻ thù thường tráo trở, vẫn biết một ngày nào đó máy bay Mỹ có thể ném bom trở lại... nhưng người Hà Nội vẫn quen tranh thủ từng ngày, từng tuần... thành phố tạm yên tiếng bom, tiếng súng đã tạo cho minh một cuộc sống yên ổn, thanh bình.

Tháng 11, từ những nơi sơ tán, người Hà Nội lục lục kéo về thành phố. Lần này những người trở về phập phồng hy vọng: biết đâu, sắp tới hiệp định Pa-ri sẽ được ký kết? Không ít những người trước khi về thành phố, đã liên hoan chia tay với bà con đã cưu mang mình trong những ngày sơ tán.

Kẻ ở người đi, vui vẻ nói với nhau: "Lần này về Hà Nội đón tin hòa bỉnh luôn!". Họ còn mời nhau Nô-en này ra Hà Nội chơi. Nhiều lứa đôi đã chọn dịp này đẽ làm lễ cưới.

Sau 55 ngày sống trong bình yên, không có bom đạn đe dọa. Không phải bỏ nhà đi sơ lán. Không phải sớm, tối mấy bận chui hầm... 55 ngày, vị ngọt của hòa bỉnh thấm đần vào từng con người, qua mọi chi tiết của đời sống thường ngày.

Giữa hoàn cảnh ấy, máy bay B.52 ập đến. Sự ác liệt trở nên tàn khốc hơn nhiều. Chính kẻ thù muốn tạo ra một cú sốc như thế. Tiếng máy bay. Tiếng súng. Tiếng bom nối nhau, từng đợt dài, bất thần ập đến giữa một đêm đông, mọi người đoàn tụ cả trong các tổ ấm của mình.

Những bài học xương máu ở Hải Phông là một lời nhắc nhở nghiêm khắc. Làm thế nào để một thành phố có hơn một triệu dân vừa chiến đấu tốt, vừa phòng tránh tổt?

Tiếng bom B.52 lúc đầu còn dội lẻn từ hướng Sơn Tây, Nội Bài. Đợt hai bom nổ ở Đông Anh. rồi Yên Viên, Gia Lâm... Trong đêm tối, cứ ngỡ từng thảm bom, đợt bom, đủ cào bằng đi những dãy phố quen thuộc ở Hà Nội...

Mặc dầu chưa một lần nào phải đối phó với B.52 nhưng nhân dân Hà Nội không hề hoảng hốt. Cảnh sơ tán khá bình tĩnh, trật tự. Nhiều nơi các đội dân phòng phải đến từng nhà giục đi sơ tán.

Sự gian truân, vất vả thì không tránh khỏi. Đầu đội trời, chân đạp đất, tất cả ra đi giữa đêm đông giá rét. nhiều mẹ già, nhiều em nhỏ của chủng ta còn thiếu áo ấm, tất ấm, thậm chí quên cả đôi dép để đi. Những bàn chân can trường ấy đã phải cuốc bộ hàng chục cây số... Những tiếng "B.52! B.52!" thốt ra ở nhiều người, được hiểu là "tội ác", là "man rợ", là những tai ương không lường hết được...

Mặc dầu Hà Nội đang trải qua một cuộc sơ tán lớn nhất trong lịch sử, nhiều người trong thành phố vẫn nấn ná chưa muốn đi. Đối với họ phải thay đổi nấp sống quen thuộc thường ngày quả là một thử thách còn lớn hơn cả bom đạn... Một buổi hẹn hò chưa đến được với nhau. Một mái gà vừa xuống ổ. Một con lợn chưa biết nên giữ hay mang nó đi theo. Vì mấy thứ tem phiếu chưa mua được... Chỉ cần một trong ngần ấy lý do cũng đủ để cho mỗi người tìm cách nấn ná thêm một ngày, thậm chí chỉ là một đêm, ở lại Hà Nội.

Ở đây, đang có một ngọn đèn điện một vòi nước, một bản nhạc hay mà nơi sơ tán thì chẳng bao giở có... Thế rồi, lũ B.52 ập vảo đánh nhiều điểm ở nội thành. Bom rơi ở khu tập thể An Dương, ở bệnh viện Bạch Mai, ở đường Láng và ở Khâm Thiên... Sự nấn ná thường tình, đáng thương biết bao, đã trỏ thành sự chậm trễ không còn sửa chữa được. Biết bao người đã phải trả giá cho sự chậm trễ ẩy ngay trên giường nằm của họ.

Một chiến sĩ lái xe chở đạn tên lửa đă kể với chúng tôi câu chuyện san đây:

"Sáng 21 tháng 12. chúng tôi đang lo cuống lên vì thiếu đạn. Tôi phóng chiếc xe TZM của mình như bay đến gần Cầu Giấy thi gặp một bà cụ đứng chắn giữa đường, tay vẫy một vuông vải.

- Mẹ ơi! Xe của con đang đi chở đạn. Con không tiếc mẹ đâu! - Tôi nói với bà cụ như vậy.

- Chú làm ơn làm phúc! Thương lấy mẹ con nó! - Bà cụ chỉ vào bên đường. Nép dưới một gốc bàng có một chị phụ nữ đang ẵm con. Nhìn khăn áo của chị, tôi đoán chị mới sinh nở được mấy ngày. Hoàn cảnh thật éo le. Tôi còn đang suy nghĩ thỉ bà cụ lại van vỉ:

- Em nó mới sinh được hai hôm! Chú làm ơn, làm phúc...

Thấy tôi im lặng, bả mẹ quả quyết gọi:

- Này, con ơi, bế nỏ ra đây! Cha đẻ thằng Ních-xơn, cũng là vì nó cả! - Bà cụ coi như tôi đã xuôi, chạy vảo đỡ sản phụ. Tôi đành phải mở cửa buồng lái làm theo "mệnh lệnh" của bà mẹ.

Một gương mặt trẻ trung, trắng bủng. Đôi mắt thì mọng đỏ vi khóc nhiều... Nhìn người phụ nữ mới sinh nở lả lướt như một tàu lá, lòng tôi nhói lên. Tôi giục bà cụ: "Mẹ lên xe đi, con chạy đây nảy". Cắt ngang câu nói của tôi là tiếng khóc của đứa trẻ sơ sinh. Tiếng "oa... oa" thoảng trong từng cơn gió bấc đang gào rít.

- Nó đói, nó rét đấy, con ạ! - Bà cụ thầm thì. Bàn tay già nua xoa xoa vảo tấm mền quấn chặt lấy đứa trẻ.

Tôi đang định đỡ bà cụ ngồi vào buồng lái thí cụ lại tụt xuống:

- Tôi không đi đâu. Trăm sự nhờ chú giúp mẹ con cháu nhé!

Tôi rất vội. Không kịp hỏi vì sao bà cụ lại không theo con và cháu. Đóng cửa xe lại, tôi "vù" ngay.

Xe chạy đến cầu Diễn, tôi hỏi người mẹ trẻ:

- Bà cụ là bà nội hay bà ngoại của cháu đấy?

- Dạ, không phải đâu ạ. Em ở trong thành phố, đưa cháu đi sơ tán. Ra đến Cầu Giấy thì gặp bà cụ... Thấy mẹ con em chạy giặc khổ sở quá, cụ giúp em cho cháu bú rồi đứng ra giữa đường vẫy xe cho em. Xe nào cũng đỗ lại, nhưng đã chở chật ních người đi sơ tán rồi. May quá, cụ đã vẫy được xe của anh...

Tôi chì kịp "à" lên một tiếng rồi lắng tai nghe người phụ nữ ngồi bên cạnh kể tiếp:

- Sáng 19 em sợ quá, theo hàng phố đi sơ tán ngay. Đến nơi mới nghĩ đến việc em có thể sinh cháu ở nơi sơ tán. Lúc ẩy mới thấy thiếu đủ thứ. Không ngờ ngay chiều hôm ấy quay lại Hà Nội để chuẩn bị thêm một ít đồ dùng, em trở dạ. Bom đạn như thế anh bảo em đến nhà hộ sinh sao được? Em sinh nở lần đầu, không cỏ người đỡ đần lại không đến nhà hộ sinh, nên vật vã khổ sở lắm. Cũng may có một bà cụ hàng xóm chạy sang. Lúc đó B.52 đang ném bom, em vừa khóc; vừa giục bà cụ xuống hầm. Bà cụ gắt: "Tôi sống để mẹ con cô chết ư?".

Sinh cháu rồi em liều nằm lại nhà. Đêm hôm qua nó lại đánh dữ quá. Mỗi lần báo động B.52 các anh "dân phòng" lại phải chạy đến giúp em và cháu xuống hầm.

Sáng nay em quyết định đưa cháu đi sơ tán. Ở lại thành phố làm cho bao nhiêu người phải bận bịu, khổ sở vì mẹ con em.

Cô ấy vừa sụt sịt khóc, vừa kể chuyện. Tôi đã đưa hai mẹ con đến Phùng. Biết làm thế nào được... hai mẹ con lại phải đứng ở bên đường vẫy một chiếc xe khác. Ngay sau đó, tôi đã kể lại câu chuyện trên đây cho các chiến sĩ lắp ráp đạn và các chiến sĩ ở trận địa tên lửa nghe".

*

* *

Đêm 18 ấy, một chiếc xe "ca" chở khách từ Bắc Ninh về đến thị trăn Yên Viên thì gặp bom B.52. Chiếc xe bị lật ngửa xuống giữa một hố bom lớn. Tiếng kêu từ trong chiếc xe bẹp dúm vọng ra. Đội "dân phòng" và các chiến sĩ cảnh sát chạy ngay đến. Những người bị thương, bị chết lần lượt được đưa ra khỏi xe. Duy có một cô gái ngồi ở cuối xe, hai bắp chân bị kẹp cứng dưới một một khung ghế bẹp, không làm sao gỡ ra được. Cuốc chim, xà beng dược dửng để bẩy phá thành xe một cách tuyệt vọng. Tiếng kim loại va đập chát chứa không át nồi tiếng kêu tuyệt vọng, đau đớn của cô gái còn nằm lại trong xe...

Cùng giờ ấy, một vệt bom B.52 "đi" vào giữa làng Gia Thụy. Làng này bị tàn phá không khác gì Uy Nỗ, Yên Viên.

Mười năm sau, năm 1982, chúng tôi được nghe chị Phưọng, nguyên là bí thư chi bộ thôn Gia Thụy người đã có danh hiệu là "Tư lệnh bám trụ" trong suốt 12 ngày đêm ấy, kể chuyện. Chị Phượng nói:

"Chiều ngày 18, chúng tôi nhận được chỉ thị khẩn cấp của thành ủy, huyện ủy về khả năng B.52 có thể đánh vào Thủ đô Hả Nội. Làng tôi ở sát sân bay Gia Lâm, đã nhiều lần bị máy bay Mỹ tàn phá nặng nề nên chúng tôi rất nhạy với chỉ thị tác chỉến này.

Chi ủy, chi bộ họp ra nghị quyết ngay. Chúng tôi dự kiến sáng 19 sẽ lãnh đạo, giáo dục nhân dân tình hình rồi tổ chức triệt để sơ tán. Họp xong thi tối. Trời rét, một số đồng chí lớn tuổi trong chi bộ còn ngôi quây quần quanh ấm trà nóng. Lúc đó anh H. cán bộ quân đội về hưu nói với mọi người: "Yên trí, B.52 chỉ đánh ban ngày, ít đánh đêm". Biết anh đã từng lăn lộn nhiều năm ở chiến trường miền Nam, chắc có kinh nghiệm về B.52 chúng tôi tin ngay. Vả lại, lúc đó tâm lý chung, chẳng ai mong lũ quỷ dữ ấy đến.

Tuy vậy, từ chập tối hễ có còi "ủ" báo động bên thành phố là tôi lại chạy đến từng nhà, thúc bà con xuống hầm.

Trời tối, đến nhà ai tôi cũng đánh tiếng từ ngoài cổng: "Nhà ta đã xuống hầm cả chưa?". Nhận được lời đáp từ các cửa hầm, tôi mới yên tâm quay ra.

Vào đợt báo động thứ ba, đến nhà cụ Đ. tôi thấy mấy bà cháu vẫn ngồi túm tụm bên miệng hầm. Hỏi mới biẽt, trong hầm có rắn. Tôi soi đèn cầm gậy vào hầm đập chết một con rắn mòng. Rồi dắt bà, bế cháu vào hầm. Con bé út mới đầy tuổi ngủ oặt ngủ oẹo trên tay bà, nom đến thương. Chị nỏ đã năm tuổi thì lại đang run bắn trên tay tỏi. Tôi cảm thấy cháu đang khiếp hãi mội cái gì đó hơn là sợ máy bay Mỹ. Nó cứ níu chặt lẩy áo tôi không chịu buông ra. Khi tôi đặt cháu xuống hầm, con bé vừa úp mặt vào ngực tôi, vừa mếu máo: "Cô ơi, bố con rắn có về giả thù không hả cô?";

Lời con trẻ như cứa vào gan ruột. Rời khỏi căn hăm, tôi vùng chạy trong đêm tối. Một tình cảm lạ lùng uất nghẹn làm tôi suýt bật khóc. Chợt nghĩ đến bọn con nhỏ của tôi. Đêm nay các cháu cũng phải chui xuống căn hầm ầm ướt với ông bà. Cũng: rất sợ rắn. Sợ bóng tối. Thằng cu Hiển còn có thêm nỗi sợ mẹ đi đêm nhiều, ngã xuống ao, con thuồng luồng ăn thít...

Tôi có ngờ đâu chỉ mấy chục phút sau, bom đạn của giặc Mỹ đã cướp đi của dân làng chúng tôi mấy bà cháu cụ Đ, Cứ nghĩ đến đứa cháu gái, đến lúc sắp bị giết hại vẫn còn sợ "Bố con rắn trả thù", tôi lại không cầm được nước mắt.

Đợt một, bom nổ ở phía Đông Anh, đồng chí H. vẫn nói: "Đây là "ép" chứ không phải "bê"!", Tôi lại tin anh một lần nữa. Hơn một tháng rồi, ắng đi không có bom đạn ở Hà Nội. Dân làng tôi đi sơ tán nhao về cả. Bây giờ "bê" hay "ép" đến đều nguy hiểm cả.

Gần nửa đêm. thằng "bê" lần đến làng tôi. Lúc ấy tôi vẫn đang ngồi dưới hầm nói chuyện với mấy cô dân quân. Chủng tôi hỏi nhau: Đêm nay sao thao thức khó ngủ làm vậy?

Bỗng ruỳnh! ruỳnh!... ruỳnh! ruỳnh!...

Tiếng nổ của bom B.52, không dữ tợn như tôi vẫn nghĩ. Sức ép thì mạnh lắm. Chiếc hầm kèo của chúng tôi bị bóp méo sệch. Ngực tôi bị ép tê điếng, đau nghẹn. Dứt tiếng bom, tôi bật dậy, cố trườn lách, chui ra khỏi hầm.

Thật là khủng khiếp ghê rợn! Nhà cửa, cây cối, xóm ngõ, rậm ngợp là thế, bỗng bị quét quang đi đâu cả. Trước mặt tôi là một vùng bằng địa, xơ xác. Hố lớn, hố nhỏ sâu hoắm, đen ngòm nham nhở trước mắt tôi. Tất cả hoang vắng, rùng rợn quả! "Cứu bà con, các đồng chí ơi!". Tôi chạy tới cốc cửa hầm quỳ phục xuống, gào gọi các cô dân quân. Tiếng gọi giúp tôi trấn tĩnh lại.

Chợt nghĩ đến hai bố mẹ già và các con nhỏ chân tay tôi bủn rủn, muốn khuỵu xuống. Nhưng những tiếng kêu cứu vẳng đến không cho phép tôi nghĩ ngợi nhiều hơn... Một đồng chí dân quân báo cho tối biết: Nhà anh H. bị trúng bom. Mẹ anh, vợ vả tám đứa con anh bị bom Mỹ giết cả. Cho đến bây giờ anh vẫn day dứt ân hận: "Tại sao đêm ấy tôi lại cỏ thể nói một cách chủ quan B.52 không đánh đêm?".

... Chạy về đến ngõ nhà minh, tôi gặp ông Q., ông là người nhát bom đạn lắm. Nhà cỏ hai cái hầm, cái chắc chắn hơn ông dành cho mẹ già và các con nhô. Còn hai vợ chông ông thời chui vào căn hầm tuềnh toàng chẳng ra gi. Bom B.52 đã nhấc bổng căn hàm của vợ chồng ông. Họ bị ném xa ra vườn chuối. Khi tỉnh lại, ông bà Q. chạy đến căn hầm mà mẹ già và các con ẩn nấp. Chỗ đó là một hố bom sâu...

Hai vợ chồng ông Q. như phát điên, gào khóc thảm thiết. Rồi có lẽ vì hoảng sợ quá, họ cứ thế lội ào qua ao mà chạy. Sang bên kia ao, ông Q. vấp phải một đứa trẻ nằm vật trên bờ. Xốc đứa trẻ đã mềm xỉu bên vai. ông Q. vừa chạy vừa la làng: "Bà con ơi có đứa trẻ nhà ai đây này!... ". Các cô dân quân chặn ông lại, làm hô hấp nhân tạo cho thằng bé.

Khi tôi đến, ông Q. đang gục xuống khóc nức nở bên đứa trẻ. Nó chính là con trai út của ông. Một cô dân quân ghé vào tai tôi nói sẽ: "Chị Phượng ơi, nhà chị mất sạch rồi!". Thấy tôi chết đứng vì câu nói lỡ lời của cô, cô dân quân kéo tôi ra một chỗ thì thầm. Thì ra bom B.52 quét sạch ngôi nhà bồn gian mà gia đỉnh tôi giành dụm hàng chục năm trời mới xây dựng được. Ông bà và các cháu nhà tôi thoát chết, được dân quân dẫn ra ngoài đường năm, dặn: "Cứ xuôi về hướng Như Quỳnh mà chạy".

Lúc đó, dân từ thị trấn Gia Lâm, Thượng Cốt, Cầu Chui và dân làng tôi tất tả chạy đi sơ tán đông vô kể. Xe vận tải của bộ đội chỉ dành cho cụ già, em nhỏ lên xe, rồi "bốc" xuống một làng nào đó trên đường năm để sơ tán. Ông bà tôi vừa đưa được các cháu lên xe, còn đang lúng túng, chưa kịp lên xe thi xe chạy. Các cụ chỉ kịp nghĩ: "Cốt sao cứu được lũ trẻ, mình già rồi chậm chân, có chết cũng không sợ!".

Bốn cháu nhỏ nhà tôi đã nhập vào dòng người đầu tiên chạy khỏi thành phố đêm hôm đó. Cháu Loan, chị cả, mới mười tuổi đầu, cháu Hữu bé nhất mới hai tuổi. Sau mười hai ngày đêm, tôi mới gặp lại các cháu. Giặc Mỹ thì tàn ác là thế, mà tình nghĩa đồng bào thì thật là quý hóa. Nếu không có sự đùm bọc, cưu mang ấy thì cháu Loan làm sao có thể đưa ba em đi "sơ tán" với hai bàn tay trắng. Cháu Loan kể, lúc bế các cháu xuống ô tô, chú lải xe thấy thằng cu Hiền khóc, chú đã lấy trong buồng lái cho cháu một phong lương khô... "

*

* *

Mùa hẻ năm 1982

Chỉ còn mấy tháng nữa là đến ngày kỷ niệm mười năm đánh thắng B.52. Chúng tôi đã lần lượt trở lại Uy Nỗ, Yên Viên, Gia Thụy, Khâm

Thiên... Đó chưa phải là tất cả những nơi B.52 đã gây tội ác ở Hà Nội. 12 ngày đêm "chiến dịch đánh vào dân thường" của đế quốc Mỹ đã gây biết bao đau thương, tang tóc ở thành phố này. Bên cạnh những "bảng vàng chiến công" chúng ta đã có những "hồ sơ tội ác" của kẻ thù.

Những ngày chiến đấu bảo vệ Hà Nội, các chiến sĩ Phỏng không - Không quân đã được mắt thấy, tai nghe những tội ác mà kẻ thù gây ra ngay tại Thủ đô. Lòng căm thù giặc đã nhân lên nguồn sức mạnh kỳ lạ. Chúng ta đã nghe nói nhiều về một khoa - học - căm - thù. Trận đánh này, tiền tuyến, hậu phương quyện lại trong thành phố rộng năm trăm cây số vuông. Đến trận địa của tiểu đoàn 59 phải đi qua đống quan tài chở đến mai táng các nạn nhân ở Cổ Loa, Uy Nỗ... Đến tiểu đoàn 77, phải đi qua khu tập thể An Dương, nơi B.52 vừa rải thảm... Và một Khâm Thiên lay động tâm can quân dân cả nước và dư luận thế giới, đã trực tiếp tác động đến tâm tư, tình cảm, trách nhiệm của những chiến sĩ đang chiến dấu bảo vệ bầu trời Hà Nội.

Trước khi mang bom B.52 rải thảm trên những khu phố đông dân ở Hà Nội, đế quốc Mỹ đã lừng phạm những tội ác tương tự ở Hải Phòng. Không phải ngẫu nhiên Ních-xơn và bọn tướng tá Mỹ đã chọn đêm 15 rạng ngày 16 tháng 4 năm 1972 để tiến công vào thành phố cảng, đông dân thứ nhì miền Bắc. Đêm hôm đó là thứ bảy. Bom B.52 đã rải thảm trên những căn nhà êm ấm vào một đêm xum họp cuối tuần.

Mùa hè năm nay chúng tôi dã trở lại khu phố Khâm Thiên. Nơi cách đây mười năm, B.52 đã ném bom rải thảm trên mặt phố!

Hôm nay đường phố Khâm Thiên tuy chưa xây dựng lại được bao nhiêu, nhưng cảnh phố rất nhộn nhịp. Người, xe qua lại như nước chảy.

Một ngõ chợ Khâm Thiên người mua, kẻ bán đông chặt như nêm. Những tà áo phụ nữ nhiều màu làm cho cảnh chợ thêm đẹp. Mùa hạ, có biết bao thứ hoa quả bày bán ở chợ này. Mùi dứa chín, ổi chín, mùi hoa thiên lý, hoa nhài... Màu sắc chói chang, sinh hoạt tấp nập, dưới một vòm trời trong vắt, xanh thăm thẳm... Tất cả không gợi cho ta những gì là đau thương, thảm họa đã xảy ra ở đây trong quá khứ. Nói đến tội ác của máy bay B.52 ở Hà Nội không thể không nhắc đến Khâm Thiên. Khâm Thiên là bản cáo trạng điển hình nhất, tố cáo âm mưu đánh vào các khu dân cư của chiến dịch "Laỉ-nơ bách-cơ 2".

Trước khi đến đây, chúng tôi đã tìm đọc nhiều sách báo, tài liệu nói về trận bom B.52 đánh vào Khâm Thiên đêm 26 tháng 12 năm 1972. Chứng tôi muốn nhìn, muốn nghe nói về Khâm Thiên ngay tại nơi đã xảy ra vụ thảm sát. Đã mười năm trôi qua, cách nghe, cách nhìn này vẫn là cách tiếp cận với sự thật đáng tin cậy nhất.

Chúng tôi đứng trước đài kỷ niệm Khâm Thiên. Bức tường gạch bị sức bom xén tiện, vẫn y nguyên từ cải đêm 26, đêm căm thù ấy. Tượng đài người phụ nữ bồng con, nét mặt căm hờn mà nhà điêu khắc Diệp Minh Châu đã sáng tạo ngay sau trận bom B.52 đã đưa chúng tôi trở lại quá khứ.., Một nén hương thơm, một đĩa hoa tươi dưới chân tượng đài, gợi nhớ những mất mát, đau thương.

Những ai chưa một lần được đến đài Kỷ niệm Khâm Thiên, xin nhớ cho rằng, từ đêm 26 tháng 12 năm 1972 cùng với rất nhiều mất mát khác,

Khâm Thiên mất đi ba số nhà 47, 49 vả 51. Ngày nay, nếu các bạn đến Khâm Thiên, chỉ thấy bên số lẻ có số nhả 45 rồi đến số nhà 53. Thay vào ba số nhà đã mát là đài kỷ niệm Khâm Thiên.

Cùng đến đài kỷ niệm với chúng tôi, có đồng chí Trần Tuế, phó chủ tịch ủy ban nhân dân phường Khâm Thiên. Theo yêu cầu của chúng tôi, hôm nay ở trụ sở ủy ban sẽ có một buổi tiếp xúc giữa chúng tôi và những người đã chiến đấu ở Khâm Thiên đêm 26 tháng Chạp.

Trên đường từ đài kỷ niệm về trụ sở Ủy ban phường, anh Trần Tuế khẽ giật tay áo tôi rồi chỉ một phụ nữ mặc chiếc áo "đuôi tôm" đúng "mốt" thời trang, hỏi khẽ:

- Anh hãy nhìn kỹ cô gái kia... Cô ấy có đặc điểm gì nào?

- Một phụ nữ đẹp! - Tôi buột miệng trả lời. Cô gái có gương mặt rất xinh, nhưng cũng không còn ở tuổi thanh xuân rực rỡ nữa... Nhìn theo cô gái, tôi bỗng kêu lên khe khẽ:

- Cô ấy bị cụt một tay thì phải...

- Chưa thật đúng. Cô ấy bị cụt cả hai tay! Nạn nhân bị bom B.52 đó!

Cô gái đã đi khuất. Đồng chí phó chủ tịch phường buông một tiếng thở dài, kể tiếp: Cô tên là Kim X, cô bị thương năm 17 tuổi. Hồi đó cô đang bước vào cái tuổi rực rỡ nhất của thời con gái. Cô là một "hoa khôi" của khu phố ba vạn dân này. Mười năm qua, quãng đời đẹp nhất của người con gái của Kim X. trôi qua trong cảnh tật nguyền. Cô vẫn chưa lấy chồng...

- Một cô gái như thế, đành chịu lỡ làng sao? Tôi thốt lên phẫn uất...

- Cùng chưa hẳn đã lỡ làng. Nhưng tuổi trẻ thì đã đi qua rồi! - Trần Tuế nói vậy rồi im lặng.

- Các anh nên giúp đỡ cô ấy! - Tôi buột ra một lời đề nghị.

- B.52 của giặc Mỹ đã để lại cho chúng ta biết bao hậu quả! - Anh Trần Tuế nói với tôi như vậy rồi im lặng, cắm cúi bước.

Tôi được biết, anh là người sinh ra ở Khâm Thiên. Năm 1972 khi B.52 đánh vào khu phố của anh, Tuế đang chiến đấu ở mặt trận Quảng Trị. Đến hôm nay, quân thù còn để lại bao nhiêu hậu quả mà thường ngày các anh ở phường vẫn phải quan tâm giải quyết. Biết tôi chưa dứt khỏi những ý nghĩ về quá khứ, Trần Tuế chậm rãi nói:

- Cũng khó lắm anh ạ: Chiến tranh đâu chỉ làm khổ một cuộc đời cô X.? Hôm qua, ông cụ Thúy mất năm người con trong trận bom B.52, bây giờ phải nuôi năm đứa cháu dại, mới đến gặp tôi. "Chưa hết tháng đã hết gạo, chú ạ!". Ông cụ chỉ nói như một lời tâm sự mà chúng tôi phải nghĩ nhiều lắm. Nhà cụ dột nát quá rồi, mùa mưa này ỏng cháu sống ra sao đây?

Trần Tuế thôi không nhắc đến Kim X, cô gái xinh đẹp bị tật nguyền. Tôi biết anh muốn nói với tôi: Làm sao có thể giải quyết mọi việc trong, cùng một lúc?

Ở trụ sở ủy ban nhân dân phường, chúng tôi được gặp bác Kiệm, bác Thê và nhiêu bà con là nạn nhân của B.52. Chúng tôi đã động đến nỗi đau của những người dân Khâm Thiên. Mới nhắc đến chuyện cũ, bác Kiệm đã rưng rưng lệ. Nhìn người nữ cán bộ đã về hưu ấy. tôi cố hình dung ra một bác Kiệm cách đây mười năm, đã xông pha trên đường phố Khâm Thiên, tìm hầm, cứu bà con trong khối phố. Chính bác đã đi nhặt từng phần thi thể khâm niệm cho các nạn nhân bị bom B.52 giết hại. Mặc dầu nhân dân Khâm Thiên đã đi sơ tán khá nhiều, nhưng khu phố vào loại có mật độ dân số cao nhất ở Hà Nội này, đêm 26 tháng 12 vẫn còn khá nhiều người ở lại. Nhà cụ Trịnh Phúc ở ngõ ba, cả chín người bị bom B.52 giết hại. Cụ Trịnh Phúc năm ấy đã 72 tuổi. Cháu nội của cụ mới ba tháng tuổi cũng bị giết hại cùng với cha mẹ và ông bà. Nhà ông Phạm Ngọc Thuyết ở số 22 Khâm Thiên cũng bị mất chín người. Ở số nhà 42, Phượng và Lan là hai chị em ruột. Phượng vừa tròn 18 tuổi, còn Lan 20. Phượng vừa có giấy gọi vào học trường Đại học bách khoa cách đó mấy ngày. Một quả bom lớn rơi trúng hầm của Lan và Phượng. Quả bom tàn ác chỉ để lại những vụn vải hoa thấm máu của hai chị em, hai cô sinh viên trẻ ấy.

Ở Khâm Thiên còn biết bao nhiêu chuyện thương tâm nữa. Một quả bom rơi trúng nhà ông Nhâm, giết chết một lúc bốn thế hệ. Nhà bà Đ. mất bốn người. Bốn người bị bom B.52 giết bằng bốn cách khác nhau. Ông chạy vào gầm cầu thang, bom đánh sập. Bà xuống hầm cá nhân, làm bằng một chiếc thùng "phuy" chôn sâu xuống đất. Bom B.52 ép mạnh, thùng "phuy" bị bẹp, giết chết bà. Hai chị em cô L. xuống một chiếc hầm xây vững chắc. Bom chỉ đánh sập cửa hầm, lẽ ra không thể chết được. Nhưng ác độc thay, bom đã đánh vỡ một đường ống nước. Nước tràn vào hầm của hai cô. Dâng cao dần lên. Mặc dầu hai cô đã kêu cứu. cố bởi cửa hầm để chui ra nhưng cha mẹ thì đã chết, cửa hầm bị lấp kín. Khi đội dân phòng bới được cửa hầm ra, hai cô gái còn ôm nhau chết chìm trong nước...

Cách đây mười năm, tin B.52 ném bom rải thảm vào khu phố Khâm Thiên đã đến các trận địa, sân bay rất nhanh. Ngay buổi sáng 27 tháng 12 năm 1972 nhiều cán bộ, chiến sĩ đi công tác đã rẽ qua Khâm Thiên. Nhiều đồng chí đã len lỏi trong những dãy nhà sụp đổ để tận mắt chứng kiến tội ác man rợ của kẻ thù. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 77 kể với chúng tôi: sáng 27 tháng 12 xuống phổ biến nhiệm vụ chiến đấu cho đơn vị, đứng trước hàng quân đồng chi phó tư lệnh sư đoàn phòng không Hà Nội, Lê Huy Vinh mới nói được mấy lời: "Tôi vừa mới đến Khâm Thiên.. " đã không cầm được nước mắt.

Đồng chí Trần Xanh kể rằng: Buổi sáng hôm ấy đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đến Khâm Thiên. Đại tướng đã đến những nơi bom đạn tàn phá nặng nề nhất. Đồng chí rất ít nói. Thỉnh thoảng, Đại tướng lại quay sang nói với những người cùng đi, những câu vắn gọn: "Dã man! Dã man đến thế là cùng!".

Trên đường về sở chỉ huy quân chủng, Đại tướng yêu cầu chúng tôi báo cáo những biện pháp mà bộ đội phòng không Hà Nội phải làm ngay để đêm nay trừng phạt đích đáng tội ác giết hại dân thường của chúng ở Hà Nội.

Chiếc máy bay B.52 bị bắn rơi xuống đường Hoảng Hoa Thám trong đêm 27 tháng 12 chính là đòn trừng phạt đó.

Ngày nay, Khâm Thiên được nhân dân cả nước và nhiều bè bạn quốc tế biết đến. Trước khi chúng tôi đến Khâm Thiên ít ngày, khoảng giữa tháng tư năm 1982, có một đoàn các nhà điện ảnh Pháp, Ca-na-đa, Mỹ... đã đến Khâm Thiên. Tội ác của đế quốc Mỹ ở Việt Nam vẫn đang là đề tài của nhiều tác phẩm nghệ thuật của thế giới.

Những ngày công tác ở Khâm Thiên, chúng tôi còn được nghe một câu chuyện, một huyền thoại về tượng đài người phụ nữ bồng con ở đài Kỷ niệm Khâm Thiên.

Số nhà 49, nơi ngày nay đặt đài kỷ niệm vốn là một ngôi nhà ba tầng. Bom B.52 đã đánh sập hai tầng của ngôi nhà ấy. Khi những ngôi nhà số 47,49 và 51 đổ xuống thành một đống gạch vụn khổng lồ, những người cứu sập chạy đến đau xót, bất lực trước đống gạch vụn đó. Bên trong đống gạch vỡ vẫn vọng ra những tiếng kêu khe khẽ và tiếng khóc của một em bé... Những tấm bê-tông của những tầng trên phủ lên tầng một nặng hàng tấn. Không thể dùng xẻng, cuốc đào bới được. Phải chờ cần cẩu đến.

Mãi sáng hôm sau, xe cần cẩu mới tới được. "Vẫn còn nghe thỉnh thoảng cỏ tiếng trẻ khóc và tiếng người phụ nữ kêu rất nhỏ! Những người cứu sập không ngờ trong đống gạch vụn ấy các nạn nhân còn sống đến bây giờ. Họ cuống lên, niềm hy vọng làm cho họ cương quyết hành động. Nhưng suốt buổi sáng hôm đó chiếc cần cẩu loại nhỏ không nâng nổi những tâm bê-tông nặng nề đó.

Trong khi chờ đợi cần cầu khỏe hơn đến cứu, hình như vẫn cỏ tiếng rên, tiếng trẻ khóc từ ngôi nhà 49 vọng ra. Có ở đâu, vào lúc nào sự bất lực của con người trước tội ác, làm cho con người đau đớn, khổ sở như lúc này. Những người cứu sập mặt mày hốc hốc, đen nhẻm. Chân tay họ rớm máu... Vậy mà khi chiếc cần cẩu cỡ lớn vừa được đưa tới, Họ lại lao vào cuộc chiến đấu mới, cố giành từ bàn tay thần chết người mẹ trẻ và đứa con nhỏ của chị. Đã muộn mất rồi. Những tấm bê-tông được cẩu lên. Các vòm chân cầu thang lộ ra. Ở phía trong cùng người mẹ trẻ đang ngồi dựa lưng vào tường, đầu ngoẹo đi. Đứa con nhỏ trong tay chị như vừa thiếp đi trong giấc ngủ...

Người mẹ ấy và đứa con yêu của chị đã trở thành hình tượng nghệ thuật, đứng mãi mãi ở nền nhà số 49 để tố cáo tội ác rất dã man của đế quốc Mỹ. Câu chuyện người mẹ bồng con sống trong tuyệt vọng ở ngôi nhà bị sập tới hai ngày đã trở thành một huyền thoại. Ngay ở Khảm Thiên đã có những chi tiết khác nhau. Cũng như rất nhiều người khác, nếu không đến Khâm Thiên, làm sao chúng tôi được nghe câu chuyện đau thương ấy.

Tháng chạp năm 1972 "cú sốc ào ạt" của Ních- xơn đã chụp xuống đầu người già, phụ nữ và trẻ em ở Hà Nội. Chỉ riêng ở Uy Nỗ Đông Anh, mười lăm phụ nữ đang mang thai bị bom Mỹ giết hại. Hai cháu sinh đôi Nguyễn Thị Trước, Nguyễn Văn Sau chưa bập bẹ gọi "mẹ" thì đã phải chịu cảnh mồ côi cả cha lẫn mẹ.

Đến Đông Anh. chúng tôi gặp lại cháu Đỗ Anh Lực tức Đỗ Anh Dũng. Lực chính là chú bé mới sinh dược 18 ngày con anh Tụng, chị Thoa mà cách đây mười năm nhà văn Ngô Văn Phú đã nhắc đến trong đoạn văn chúng tôi trích dẫn ở phần trên. Anh Ngô Văn Phú có viết cháu bé mới sinh của anh Tụng, chị Thoa chưa kịp đặt tên đã chết cùng bố mẹ. Thực ra lúc đó cháu đã có tên Đỗ Anh Lực. Và nhiều người vẫn tưởng Đỗ Anh Lực đã bị chết cùng bố mẹ. Nhưng ngay đêm 18, chú bé mới sinh được mười tám ngày vừa qua một trận B.52 khủng khiếp, đã được đưa đến bệnh viện Đông Anh. Các y, bác sĩ ở đây đã cứu sống cháu. Xúc động trước sống sót đến lạ lùng của cháu, các bác sĩ đã đặt cho cháu một cái tên mới: Đỗ Anh Dũng!

Anh Tụng và chị Thoa mất đi để lại bốn con nhỏ Phương - Châm - Hiệp - Lực. Phương năm nay vừa tròn hai mươi tuổi. Cô đã trở thành một cô nuôi dạy trẻ. Đỗ Anh Lực - Đỗ Anh Dũng năm tròn mười tuổi. Cánh cửa cuộc đời đang rộng mở đón Phương và các em cô bước vào cuộc sống.

Những cô bé, chú bé chào đời vào tháng chạp năm 1972 sắp tròn mười tuổi! Đã có ai, các thày, cô giáo, các bậc cha mẹ... nói với các em: Đáng lẽ các em cất tiếng khóc chào đời vào những ngày hòa bình đầu tiên của đất nước này. Nhưng Nich-xơn, đã cướp mất của các em niềm hạnh phúc đó. Chính hắn đã mang B.52 tới. Tiếng khóc chào đời của các em đã chìm mất đi trong tiếng bom B.52 hủy diệt.

* Quả đạn cuối cùng

Đằng sau những chiến công nổi bật của bộ đội tên lửa ở Hà Nội hồi tháng chạp năm 1972 còn có một thực tế không thể không nói tới: Lúc đó ở Hà Nội chỉ có trên dưới mười tiểu đoàn tên lửa SAM-2. Đã thế, suốt mười hai ngày đêm chiến đấu các tiểu đoàn đó đã phải đánh trong tình trạng khan hiếm đạn. Sau mười năm, nhìn lại trận đánh lịch sử đó, một câu hỏi được đặt ra: Nếu hồi đó ở Hà Nội có nhiều bệ phóng hơn, các bệ phóng đó được cung cấp đầy đủ đạn hơn, thì số máy bay B.52 bị bắn rơi, còn nhiều đến mức nào?

"Không cần có thêm lực lượng. Chỉ cần có thêm nhiều đạn thôi, chiến quả cũng đã khác lắm rồi!". Nhiều cán bộ.tên lửa đã chiến đấu ở Hà Nội thời kỳ này, nói với chúng tôi như vậy.

Nhắc đến chuyện thiếu đạn, đồng chí Đinh Thế Văn cũng nói: "Đêm 18 tháng 12 tiểu đoàn 77 bắn rơi tại chỗ một B.52. Những đêm sau tiểu đoàn chúng tôi còn bắn rơi tại chỗ mấy B.52 nữa. Điều đó chứng tỏ bộ đội tên lửa có đầy đủ khả năng tiêu diệt loại mục tiêu này. Rất tiếc, chúng tôi đã không có thật nhiều đạn để giành thắng lợi lớn hơn. Ở trận địa của chúng tôi ra-đa bị nhiễu B.52 nhẹ hơn ở các trận địa khác. Các trắc thủ của 77 lại bắt mục tiêu B.52 khá thành thục. Được phóng "thoải mái" hơn, chắc chắn phép xác suất còn cho tiểu đoàn 77 những kết quả khả quan hơn.

"Hồi đó chúng ta đã không lường hết được quy mô to lớn của trận tập kích chiến lược mà kẻ thủ đã tiến bành. Phải qua đêm 18,- thực tế mới làm sáng tỏ khái niệm về một đợt tập kích lớn bằng B.52 vào Hà Nội là như thế nào. Khi nhận thức ra, có những thiếu sót sửa chữa không phải dễ. Chuyện chuẩn bị đạn tên lửa là một ví dụ.

Vì lực lượng tên lửa có hạn, đạn lại không có nhiều nên ngay sau đêm chiến đấu đầu tiên, Bộ tư lệnh quân chủng đã sớm chủ trương giành tên lửa để đánh B.52. Toàn bộ gánh nặng phải đương đầu với hàng ngàn lần chiếc máy bay chiến thuật đánh phá cả ngày lẫn đêm dồn cho bộ đội cao xạ và không quân. Sẽ không có những chiến công oanh liệt của bộ đội tên lửa mà ngày nay chúng ta hằng ca ngợi, nếu ngày đó tên lửa không được đặt trong một thế trận hiệp đồng, thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc đã được xây dựng chuẩn bị rất công phu từ nhiều năm trước và đặc biệt được tổ chức khá năng động và hoàn chỉnh trong đợt chiến đấu hồi tháng Chạp ấy. Có thể ví trong bản hùng ca tháng Chợp tiếng súng giòn giã bền bỉ của bộ đội cao xạ, không quân và lực lượng dân quân là bè trầm, là cái nền tạo nên những chương cao trào của bản hùng ca ấy.

Mặc dầu chỉ giành đạn đánh B.52, các đơn vị tên lửa vẫn rơi vào tinh trạng khan hiếm đạn. Hầu như đêm nào cũng có một vài tiểu đoàn phải đánh đến quả đạn cuối cùng. Đến đêm 20, trước những đợt tiến công ào ạt của máy bay B.52, nhiều tiểu đoàn đã bị "trắng tay". Bước vào ngày 21, các cấp đứng trước một bài tính gay gắt nhất. Mọi người hồi hộp chờ đợi một đêm chiến đấụ dồn dập, quyết liệt không kém gì đêm hôm trước. Chưa bao giờ vấn đề đạn cọ sát dữ dội như thời điểm sắp bước vào đêm 21. Số đạn tên lửa ỏ mỗi tiểu đoàn là một con số "khánh kiệt". Mọi người đều hiểu rằng, chúng ta sẽ phải trải qua những thử thách nghiệt ngã nhất.

Nhưng những điều dự đoán đã không xảy ra. Sau ba đêm đánh dồn dập, ác liệt, kẻ thù chỉ gặt hái được những đòn giáng trả đau đớn, chúng buộc phải dửng lại. Đêm 21, SAC bỗng trùng xuống, chỉ tung ra một đợt tiến công chớp nhoáng của 24 chiếc B.52.

Đêm 22 tháng 12, địch quay ra đánh Hải Phòng.

Đêm 23 tháng 12, B.52 đánh Thái Nguyên. Kép.

Phảì chăng ngày 20 tháng 12 lả đinh cao nhất của trận tập kích vào Hà Nội? Bị thua đau, địch đã từ bỏ mục tiêu chiến lược Hà Nội chưa?

Câu trả lời: chưa. Trận đánh lớn nhất, ảc liệt nhất vẫn đang còn ở phía trước. Hà Nội vẫn là nơi đọ sức cuối cùng.

Một lần nữa bằng phương pháp xem xét khoa học và kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh đầy bản lĩnh, các cấp chỉ huy chiến lược và chiến dịch không một chút mơ hồ trước những trận đánh giãn ra xa Hà Nội của máy bay B.52. Khi địch đánh xuống Hải Phỏng, đánh lên Thái Nguyên và Kép thỉ quân chủng lại điều hai tiều đoàn tên lửa 71 và 72 từ Hải Phòng lên Hà Nội.

Tranh thủ địch đang đánh giãn ra, "tương kế, tựu kế", chúng ta dồn sức chuẩn bị đối phó với những trận đánh lớn hơn sẽ còn xảy ra ở Hà Nội.

Với những nhận định và chủ trương trên, việc chuẩn bị đạn tên lửa ở Hà Nội trờ nên khẩn trương, cấp bách biết chừng nào.

*

* *

Ngay từ khi bắt đầu có những tín hiệu cấp cứu đánh đi từ các trận địa tên lửa báo động chuyện thiếu đạn, tư lệnh quân chủng đã gọi cục trưởng cục kỹ thuật Lương Hữu Sắt lên hỏi:

- Lảm thế nào để có đủ đạn đánh? Và còn nhỉều câu hỏi "cấp tập" khác.

Vẫn chl xoay quanh chuyện đạn.

Ngồi trước tư lệnh, đồng chí cục trưởng cục kỹ thuật chưa nghĩ ra được một bí quyết nào có khả năng tháo gỡ những bế tắc về đạn tên lửa hỉện nay. Đồng chí chậm rãí báo cáo, những cố gẳng phi thường của hai dây chuyền sản xuất đạn duy nhất ở Hà Nội. Ở đó đang làm ngày làm đêm. Sản lượng đạn đã tăng gấp hai lúc bình thường, nhưng những nỗ lực đó lại chưa thấm tháp gì với mức "ngốn" đạn ghê gớm của các trận địa hỏa lực.

Cảnh chạy đạn cho các bộ phóng như nhà nghẻo chạy ăn từng bữa. Bãi lắp ráp làm được quả đạn nào, xe TZM trực sẵn, lấy ngay quả đạn đó. Trong ánh chớp bom, những quả đạn mới "bóc tem" được đưa ngay lên bệ. Mấy phút sau, những quả đạn đó đã lao lên trời tìm diệt B.52. Chưa bao giờ "cuộc đời" của một quả đạn tên lửa được sản xuất ra lại ngắn ngủi và vinh quang như trong những ngày này.

Từ trước đến nay, thông thường đạn lên lửa được lắp ráp phục vụ những trận đánh trước mắt. Không có đạn đã được lắp ráp sẵn, cất trong kho chiến lược. Trước khi xảy ra trận tập kích bằng B.52 vào Hà Nội, các trung đoàn tên lửa ở đây cũng có một số đạn dự trữ nhưng không đáng kể. Vì những trận đánh dữ dội, bất ngờ ngay từ đêm 18 nên số đạn được coi là dự trữ này đã phải đem ra dùng ngay trong đêm đó.

Đạn tên lửa không giống các loại đạn khác. Trước khi đem dùng nó phải qua một dây truyền lắp ráp khá phức tạp và mất thời gian. Chính vì thế hai tiểu đoàn lắp ráp đã phải thực hiện một cuộc chạy đua phi thường để có đạn cho hàng chục tiểu đoàn đánh liên tục, quyết liệt hơn bất cứ thời kỷ nào trước đây.

*

* *

Ngày 20 tháng 12 năm 1972, cả hai đồng chí cục trưởng và cục phó cục kỹ thuật, chia nhau xuống hai tiểu đoàn 80 và 95, hai dây chuyên lắp ráp duy nhất ở Hà Nội. Cách tháo gỡ chính, nếu không muốn nói là lối thoát duy nhất hiện nay cho tình trạng thiếu đạn là nâng cao năng suất, chất lượng, sản lượng của các tiểu đoàn lắp ráp này. Trước khi đi, đồng chí cục trưởng dặn cục phó Phan Thái: "Anh xuống dưới đó, khi nào tinh hình thật ổn hãy về!". Phan Thái hiểu thêm tầm quan trọng của chuyến đi, từ chỉ thị này của cục trưởng.

Ngay sau hôm xảy ra trận tập kích, cục kỹ thuật có điều thêm lực lượng cho hai tiểu đoàn lắp ráp. Đó là hai dây chuyền rút ra từ một công trưởng cải tiến tên lửa và một đơn vị kho. Một năm "xuân thu nhị kỳ" họ mới phải làm đạn một, hai lần. Vỉ thế lực lượng bổ sung này không làm được chức năng "cứu tinh" của họ. Gánh nặng của hai tiểu đoàn lắp ráp vẫn chưa được ai chia xẻ.

Rạng sáng ngày 19, xe TZM ùn ùn kéo tới các bãi lắp ráp. Những người lái xe nhăn nhó, kêu trời: "Hết đạn rồi các bố ạ!".

Tiếng kêu cấp cứu đạn thật khẩn thiết. Không có đạn sẽ không có gì nữa! Một cuộc chạy đua với thời gian, với kẻ thù đang bùng nồ ở trận tuyến phía sau này.

Từ sáng ngày 19 các tiểu đoàn bắt đầu tổ chức làm hai ca. Nhiều người chẳng có ai thay phải làm hai ca liền. Thôi thì sức còn cố được đến đâu hãy dốc hết ra tới đó. "Tất cả sản xuất ra nhiều đạn!". Đó là mệnh lệnh của trái tim đồng thời là sự thúc bách của hoàn cảnh, của nhiệm vụ. Làm xong mỗi quả đạn, các chiến sĩ lấy sơn trắng kẻ vào vỏ tên lửa những dòng nguệch ngoạc: "Trả thù cho đồng bào Hà Nội!". Họ đang viết cho các chiến sĩ ờ trận địa hay viết cho chính mình?

Họ mải miết làm việc trong tiếng bom B.52. Đôi khi lại được náo nức ôm lấy nhau gào thét, chỉ trỏ. Lúc ấy ngay trên trời cao, một B.52 đang bùng cháy. Rồi những người lái xe TZM kể cho họ những mẩu chuyện đau thương mới xảy ra ở đâu đó trong thành phố. Rồi tiếng bom B.52, cái chết, sự căng thẳng mệt mỏi bỗng nhiên chìm đi tất cả. Chỉ còn mấy anh lái xe nôn nóng, bẳn gắt và những tiếng kêu khô khan: "Đạn? đạn..."

Sang ngày thứ ba những ý chí, nhiệt tình, nỗ lực... khó có thể lấn lướt, gắng gượng qua những cơn đói ngủ và những, nỗi mệt mỏi ê hề. Mấy ngày hôm nay họ đă bắt cơ thể cố gắng đến mức tối đa. Như chiếc máy chạy hết công suất, họ không thể "tự đốt cháy" mình lâu hơn nữa. Bây giờ chỉ cần tự cho phép mình thì bất kỳ lúc nào họ cũng có thể nằm vật xuống thiếp đi trong giác ngủ ngon lành.

Xuống đến tiểu đoàn 95, cục phó Phan Thái nhận ra "khí thế thi đua" đang chững lại. Đi tìm nguyẻn nhân ở đâu: Ỷ chí? Quyết tâm? Hay công tác tổ chức? Nhìn vào bữa ăn của chiến sĩ có thể thấy được điều gỉ trong đỏ?

- Chúng tôi đói lắm! Bảy lạng gạo chứ một "ký" cũng "đánh" hết veo! - Một anh chàng bé choắt thót đi vì mất ngủ lại nói trắng ra như vậy.

- Ăn uống tốt, làm việc năng suất hơn! - Đó là một ý kiến chững chạc. Nhìn vào gượng mặt hốc hác, xanh xao của anh em không ai dám nghĩ rằng họ đang cất lời vòi vĩnh một cách tầm thường.

- Sẽ có lương khô, đường, sữa! - Phan Thái mạnh bạo hứa vậy. Hứa xong anh cũng hơi lo. Lương khô, đường, sữa do cục hậu cần quản lý. Xưa nay xin hoặc mua những thứ hàng "chiến lược" này phải qua nhiều cửa, nhiều thủ tục giấy tờ phiền hà Nhưng hôm nay, trong tình hình khẩn trương này, không thể làm khác, nghĩ khác.

Nghĩ thế anh gọi điện thoại cho đồng chí Mai Xuân Tiếu, quyền cục trưởng cục hậu cần. May sao tiếng đồng chí cục trưởng đã vang ở trong máy. Anh quyết định chưa đi thẳng vào "lương khô, đưởng, sữa" vội. Hãy nói về sự vất vả, gian khổ ở "mặt trận" nóng bỏng này.

Hình như đồng chí cục trưởng đã hiểu ra rồi câu chuyện sẽ đi đến đâu, nên mới nói ngay:

- Tôi hiểu ý anh rồi! Chiều nay đường, sữa, lương khô và cả thuốc chống buồn ngủ nữa, sẽ được đưa xuống dưới đó. Chấp hành chỉ thỉ mới nhất của bộ tư lệnh, chúng tôi sẽ "mở cửa kho" để phục vụ bộ đội ta chiến đẩu!

Phan Thái sững sờ vì vui sướng và ngạc nhiên. Có bao giờ con người giữ "tay hòm chìa khóa" này lại rộng rãi như vậy đâu!

*

* *

Mới đến tiểu đoàn 80, cảnh đầu tiên đập vào mắt cục trưởng Lương Hữu Sắt là những chiếc xe TZM nép mình dưới đường cây chờ lấy đạn. Đứng trước đầu xe, một chiến sĩ áo buông ngoài quần đang nạt nộ một chuyện gi đó. Chỉ nghe được một câu cuối rất ngang tàng:

- Các anh phải cấp cho chúng tôi quả đạn này!

- Phải đợi. May lắm được quả sau!

Thì ra còn một người nữa ngả người trên "tai" xe. Mắt vẫn nhắm nghiền mà đối đáp chí chát.

- Anh tưởng đánh "bê" dễ lẳm hả?

- Dễ, khó đây không biết! Các anh chưa bắn được "bê" nào là xoàng, rất xoàng!

- Thể các anh bắt chúng tôi chờ mọc rễ ra đây ra chưa cỏ đạn thì là giỏi à?

Thấy có người lạ đi lại, Người chiến sĩ lái xe còn ấm ức lắm, nhưng cùng chuyển giọng:

- Các anh thiên vị "thằng" 77 tôi còn lạ gỉ!

- Đừng nói thế, mất đoàn kết! - người nằm trên «tai» xe bật dậy.

- Thôi đễ tôi vào nói lại với ông Huy xem sao. Đạn đã có đâu mà cứ cuống lên! Cứ phải ngủ di một giấc, "con giời" ạ!

Nói rồi anh ta bỏ đi. Người lái xe chưa hết bực dọc. Vào buồng lái nằm thật nhưng làm sao ngủ được. Nhìn nét mặt còn non, râu ria đã đâm ra tua tủa của anh ta, đủ biết mấy hôm nay liên tục rong xe trên đường mệt nhọc lắm. Những lúc như thế này làm gì chẳng dễ đụng chạm to tiếng, Mà sự nôn nỏng, bực bõ cũng chỉ là đòi lấy sớm một quả đạn về cho đơn vị mình.

Biết bao nhiêu con người đàng sôi sục lên vì chuyện đạn. Đi qua buồng lái chiếc TZM, đồng chí cục trưởng có cảm giác như minh vừa mới tham gia cuộc đối thoại với người lái xe. "Ngủ đi, ngủ đi lấy một giấc!". Anh thầm thì. Giá lúc này được nói vài lời âu yếm với người chiến sĩ kia.

*

* *

Nhìn thấy bóng cục trưởng cục kỹ thuật thấp thoáng ngoài bãi một, tiểu đoàn phó Nguyễn Huy mừng rỡ chạy ra. Cục trưởng xuống đây chắc chắn sẽ gỡ cho tiểu đoàn anh vài nước "bí". Nhưng kế hoạch sản xuất đạn đang chồng chất lên vai anh những gánh nặng. Anh đang cần sự chi viện, giúp đỡ của cấp trên.

- Tôi biết thế nào thủ trưởng cũng xuống! - Huy hồ hởi xiết chặt tay cục trưởng. Mấy hôm nay tiểu đoàn 80 của anh là một "điểm nóng", chuông điện thoại réo đến sốt ruột. Xe con lên xuống rậm rịch. Anh cần những giúp đỡ thiết thực, kể cả những lời phê phán nghiêm khắc. Miễn sao anh và đơn vị tìm cách sản xuất ra được nhiều đạn tên lửa.

- Hôm qua các anh làm được bao nhiêu đạn?

- Báo cáo, mười sáu quả!

- Đó là tốc độ của con rùa!

Sau máy lời hỏi đáp đầu tiên, chủ khách đều im lặng.

Cùng ngày tiểu đoàn 95 báo cáo làm được hai mươỉ bốn quả. Họ còn phải làm đạn cũ, mất hết cả chốt cánh. Phải đưa cả xe công trình xuống tiện chốt cánh tại trận. Vậy mả... ở đây làm ăn ra sao đây?

Biết thủ trưởng không bằng lòng. Điều đó không quan trọng, Huy cử báo cáo thật, như vậy cấp trên mới biết mà giúp đỡ.

- Chủng tôi xin cần cẩu K.61, cấp trên lại cho xe kíp! Lính của thủ trưởng đưa xuống là lính công tử. Làm ăn lóng ngóng, chán chết!

Huy liếc nhanh về phía cục trưởng, vẫn im lặng. Lúc đó anh nghĩ, không còn dịp nào may hơn để mình trình bày những khó khăn đang cản trở việc sản xuất đạn.

- Chúng tôi thiếu cả pin và đèn pin nữa. Làm đêm anh em phải xỏ lỗ cặp chì bằng đèn dầu. Tăng, bạt che mưa cũng thiếu.

Huy chợt bùng một tiếng thở dài. Ngoài kia một quả đạn vừa làm xong đang được càn cẩu đưa lên xe TZM.

Huy lúng túng, không biết nên nói nữa hay im lặng. Anh không thể nói một mình trong khi người khác cứ níu thinh.

- Thế tức là các đồng chí không có khuyết điềm gỉ phải không? - Không nhìn Huy, cục trưởng hỏi. Huy chưa kịp trả lởi đã nhận thêm một câu hỏi khác - vỏ đạn chồng chất thế này xe vào, xe ra phải mất máy "đỏ"? Đây có phải nguyên nhân chậm không?

Đến lượt Huy im lặng. Cục trưởng đã chỉ đúng một khỏ khăn của đơn vị anh. "Tại không có cần cẩu K.61 nén mới phải thế". Huy thầm chống chế như vậy.

- Phải tìm nguyên nhân ở công tác tổ chức, đồng chí kỹ sư ạ. Ban nãy đồng chí chính trị viên báo cáo với tôi: 100% quân số đi làm, kể cả anh em đang yếu mệt. Đơn vị đang thực hiện phong trào "Thi đua quyết thắng B.52" do trung đoàn phát động. Quyết tâm của cả đơn vị rất tốt! Vậy tại sao sản lượng đạn còn thấp?

Tôi đã đến xem anh em ở xe kíp lảm việc. Trẳc thủ số hai là lính mới, chưa làm thạo. Trẳc thủ số ba là lính cũ. Thế là một người làm một người chờ... Kể cả ở dây chuyền cục mới đưa xuống, còn có cách sắp xếp nào đồng bộ hơn không?

Anh em đều đã thấm mệt. Không thể đưa nhau ra bãi đạn làm quần quật từ sớm đến tối mãi được. Phải tổ chức lại!

Ở bãi hai, Huy lo lẳng nhìn anh em nạp nhiên liệu đã cởi hết quần áo phòng độc ra, chỉ còn đi mỗi một đôi ủng. Quy tắc an toàn quy định phải mặc áo cao su, đeo mặt nạ phỏng hóa và đi ủng. Vì muốn lảm cho nhanh, anh em trút mọi thứ áo quân vướng bận đó ra. Ở một đống vỏ thùng gần đấy, có một chiến sĩ đang ngả người vào chiếc vỏ thùng giá lạnh ngủ ngon lành, Huy toan chạy ra đánh thức, nhưng cục trưởng giữ lại.

- Đồng chí cho anh em mặc quần áo phòng hóa vào. Không phải vì nhanh mà làm ẩu, vứt bỏ hết quy tắc!

Huy nóng bừng cả mặt. Bãi sản xuất càng nhìn kỷ, càng bề bộn. Nhếch nhác. Trước đây cẩm ăn, ngủ ờ bãi nạp nhiên liệu. Nhưng nay phải tạm gác lệnh ấy. Anh em phải "bám trụ" ờ cả nơi có chất độc hại này đề sản xuất.

Mấy ngày nay, mọi người đã quên ăn, quên ngủ để làm việc thì các quy định về vệ sinh, phòng hóa hầu như cũng chẳng ai chú ý tới. Ở đây thời gian còn eo hẹp hơn cả ở các trận địa. Từng giờ, từng ngày, từng con người cụ thể bị kéo căng ra, ràng buộc diết dóng vào dây chuyền, vào các định mức, sản lượng... Suốt ngày, lúc nhàn rỗi nhất là bữa ăn, có người còn tranh thủ lúc đó để chợp mắt ngủ một tý.

Đi với Huy một vòng, cục trưởng thấy rõ hơn những điều mình xét đoán khi mới xuống đâỵ. Tinh thần làm việc của anh em rất đáng khen, có những thiếu thốn về trang bị có thể khắc phục được như cho thêm cần cẩu. đèn pin, tăng cường các máy đo tốt hơn, v.v... (và rất tự nhiên, ở đấy cục trưởng cũng nhắc đến bữa ăn và đời sống của bộ đội). Còn công tác tổ chức? Liệu ban chi huy tiểu đoàn có biết sử dụng cái "đòn bẩy" ấy để đưa sản lượng đạn lẻn cao hơn không?

- Huy này, có chuyện các cậu thiên vị cấp đạn trước cho 77 không?

Huy hơi ngạc nhiên trước câu hỏi bất ngờ của cục trưởng. Nhưng anh trả lời rất tự nhiên:

- Tiểu đoàn không có chủ trương ấy. Đồng chí trợ lý đạn có tự ý tuyên bố "thằng" nào đánh giỏi cấp trước, "thằng" nào đánh xoàng cấp sau! Chúng tôi đã "sửa sai" rồi!

- Có chuyện "tranh nhau" là vì chúng ta làm ra ít đạn. Phải có nhiều đạn mới vui vẻ, mới công bằng được!