← Quay lại trang sách

⚝ 2 ⚝

Tiếng nhạc là bản Ngũ tấu cho kèn clarinet và dàn nhạc dây cung La trưởng của Mozart. Ngay trước nhịp allegretto 2 sau chót, Farnsworth đã điều chỉnh thanh âm trầm trên âm li và hơi tăng âm lượng lên. Rồi ông ta nặng nề gieo mình vào chiếc ghế bành bọc da. Ông thích nghe nhịp allegretto với những họa âm có âm trầm hùng hồn, những họa âm ấy cho tiếng kèn clarinet một sự cộng hưởng dường như có một hàm nghĩa gì. Ông ta nhìn chằm chằm bức màn cửa sổ, khung cửa trông xuống Đại lộ số Năm, đan những ngón tay mập mạp vào nhau, và thưởng thức bản hòa nhạc.

Khi nhạc đã ngừng và cuốn băng tự động tắt, ông ta nhìn về phía ngưỡng cửa thông ra văn phòng bên ngoài, trông thấy chị hầu gái đang đứng đó, nhẫn nại, chờ chủ. Ông liếc sang chiếc đồng hồ bằng sứ trên bệ lò sưởi, cau mày. Rồi ông ta nhìn chị này và hỏi: “Sao thế?”

“Một ông Newton nào đó đến nhà, thưa ông.”

“Newton nào?” Ông ta không quen tên Newton giàu có nào cả. “Hắn muốn gì?”

“Ông ấy không bảo, thưa ông.” Nói đoạn chị ta khẽ nhướn một bên mày. “Ông ta có vẻ kì quặc, thưa ông. Và trông ông ấy là người... quyền thế.”

Ông ta nghĩ ngợi một chốc, rồi bảo: “Cho hắn vào.”

Chị hầu gái nói đúng, người đàn ông ấy thật kì quặc. Cao, gầy, tóc trắng, khung xương mảnh khảnh, thanh tú. Y có làn da trơn nhẵn, bộ mặt như một thằng bé con... nhưng đôi mắt rất lạ, như thể hai mắt yếu ớt, nhạy cảm quá độ, nhưng toát lên một vẻ già giặn, thông tuệ và mệt mỏi. Người đàn ông ấy mặc bộ com lê xám đậm đắt tiền. Y bước lại chỗ chiếc ghế và ngồi xuống một cách thận trọng, nới lỏng thân mình trên ghế như đang mang vác một trọng lượng kinh khiếp. Rồi y nhìn Farnsworth và mỉm cười. “Ông là Oliver Farnsworth?”

“Ông uống gì chứ, ông Newton?”

“Xin cho tôi cốc nước.”

Farnsworth thầm nhún vai và truyền đạt mệnh lệnh với chị hầu gái. Rồi, khi chị này đã rời đi, ông ta nhìn vị khách của mình và nghiêng người, một cử chỉ quen thuộc hàm ý, “Ta tiếp tục câu chuyện nào.”

Newton vẫn ngồi thẳng, hai bàn tay dài, mảnh khảnh đan vào nhau đặt trên chân và nói, “Ông rất thông thạo trong lĩnh vực bằng sáng chế, theo tôi được biết?” Giọng y có pha chút âm sắc địa phương và cách y phát âm quá chính xác, câu nệ. Farnsworth không thể nhận diện được đây là giọng vùng nào.

“Phải.” Farnsworth đáp, và rồi hơi cộc cằn. “Tôi làm việc giờ hành chính, thưa ông Newton.”

Newton dường như không nghe gì. Giọng y hòa nhã, trầm ấm. “Tôi hiểu, thực chất mà nói, ông là người giỏi nhất ở Hoa Kì trong lĩnh vực bằng sáng chế. Cũng như giá thuê ông rất đắt đỏ.”

“Phải. Tôi thạo việc.”

“Tốt lắm.” Người kia bảo. Y thò tay xuống một bên chiếc ghế đang ngồi và cầm lên chiếc cặp tài liệu.

“Vậy ông cần gì?” Farnsworth đưa mắt nhìn đồng hồ lần nữa.

“Tôi muốn bàn bạc vài chuyện với ông.” Người đàn ông cao ráo lấy ra một phong bì từ trong cặp.

“Nhưng giờ không phải khá muộn rồi ư?”

Newton mở phong bì, rút ra một xấp tiền giấy mỏng, được buộc bằng sợi dây thun. Y nhìn lên và mỉm cười hòa nhã. “Ông có thể vui lòng đến đây lấy không? Tôi đi lại rất khó khăn. Do chân tôi.”

Bực bội, Farnsworth nhấc mình khỏi ghế, đi về phía người đàn ông cao ráo, nhận lấy tiền, trở lại chỗ và ngồi xuống. Đó là một xấp những tờ tiền mệnh giá một nghìn đô.

“Có mười tờ.” Newton nói.

“Ông thật biết bày trò quỉ tha ma bắt quá đi.” Ông ta nhét xấp tiền vào túi áo choàng mặc nhà. “Thế tiền này để làm gì?”

“Để có được đêm nay.” Newton trả lời. “Ba giờ đồng hồ được ông tiếp đãi thân cận.”

“Nhưng Chúa ơi, tại sao lại là ban đêm chứ?”

Người kia nhún vai ra chiều thờ ơ. “Ồ, nhiều lí do. Một trong số đó là tính riêng tư.”

“Ông có thể khiến tôi chú ý với số tiền ít hơn mười nghìn đô la.”

“Phải. Nhưng tôi cũng muốn gây ấn tượng cho ông về... tầm quan trọng của cuộc nói chuyện giữa hai ta.”

“Chậc.” Farnsworth nhàn tản ngả lưng vào ghế. “Ta nói chuyện nào.”

Người đàn ông gầy gò dường như thư giãn hơn, nhưng y không tựa người ra sau. “Đầu tiên, ông kiếm được bao nhiêu tiền một năm, thưa ông Farnsworth?”

“Tôi không làm công ăn lương.”

“Vậy thì. Ông kiếm được bao nhiêu tiền năm vừa rồi?”

“Thôi được. Ông đã chi tiền cho cuộc nói chuyện này. Khoảng một trăm bốn mươi nghìn.”

“Tôi hiểu. Vậy là ông, nếu mọi chuyện vẫn thế, là một người giàu có?”

“Đúng vậy.”

“Nhưng ông có thích được thêm không?”

Chuyện trở nên khôi hài. Nghe như một chương trình truyền hình rẻ tiền. Nhưng người đàn ông kia đã chi tiền nên tốt hơn hết là vẫn tiếp tục thôi. Farnsworth rút một điếu thuốc từ chiếc hộp bọc da và đáp: “Dĩ nhiên tôi muốn có nhiều hơn.”

Lần này Newton nghiêng về trước đôi chút. “Nhiều hơn rất nhiều chứ, ông Farnsworth?” Y nói, mỉm cười, bắt đầu tận hưởng tình thế hiện tại.

Hẳn rồi, lại là một tình tiết hệt như trên truyền hình, nhưng cũng là một lối truyền đạt dễ hiểu. “Có.” Farnsworth đáp, và hỏi thêm. “Ông hút thuốc chứ.” Ông chìa chiếc hộp về phía vị khách.

Làm lơ lời mời ấy, người đàn ông với mái tóc trắng đáp lại: “Tôi có thể khiến ông rất giàu, ông Farnsworth ạ, nếu ông chịu cống hiến cho tôi toàn bộ năm năm tới đây của ông.”

Farnsworth giữ vẻ mặt vô cảm, đưa tay châm thuốc trong lúc đầu óc làm việc tức tốc, tua đi tua lại toàn bộ cuộc trò chuyện lạ lùng này, bị đánh đố với tình huống hiện tại, hoang mang với một khả năng mong manh rằng lời đề nghị của người đàn ông này là tỉnh trí. Nhưng người đàn ông ấy, dù quái lạ đi nữa, có tiền. Hay tốt hơn là cứ chiều theo y một lúc. Chị hầu gái bước vào, tay bưng khay bạc có cốc và đá.

Newton cẩn thận lấy cốc nước khỏi khay, rồi một tay cầm cốc, tay kia y rút từ trong túi ra một hộp aspirin, mở nắp bằng ngón cái, và thả một viên thuốc trong số đó vào nước. Viên thuốc tan ra, một thứ nước trắng đục. Y cầm chiếc cốc và ngắm nghía trong một thoáng, rồi bắt đầu nhấp từng chút một, chậm rãi tột độ.

Farnsworth là một luật sư, ông ta để mắt tới các chi tiết. Ông thấy ngay có gì đó dị kì về hộp aspirin. Một món đồ thông thường, rõ ràng chỉ là hộp aspirin hiệu Bayer; nhưng có gì đó không đúng. Có gì đó không đúng với cách Newton nhấp từng ngụm nước, chầm chậm, thận trọng không để sánh ra lấy một giọt... như thể thứ nước ấy rất đỗi quí giá. Nước lại còn đục ngầu vì một viên aspirin, dường như không đúng lắm. Ông ta sẽ thử với một viên aspirin sau vậy, khi người đàn ông này rời đi, để xem sao.

Trước khi chị hầu gái rời phòng, Newton nhờ chị này mang chiếc cặp tài liệu của y cho Farnsworth. Khi chị ta đi rồi, y nhấp một một ngụm sau chót, hết mực kính cẩn, và đặt chiếc cốc vẫn còn gần như đầy qua bên cạnh y trên bàn. “Có một số thứ trong cặp tài liệu xin nhờ ông đọc cho.”

Farnsworth mở túi, thấy một xấp dày giấy tờ và lấy ra, đặt vào lòng. Thứ giấy ấy, ông ta chú ý ngay lập tức, gây cảm giác khác thường. Cực mỏng, cứng cáp nhưng vẫn đàn hồi. Tờ trên cùng là các công thức hóa học được in rõ ràng bằng thứ mực màu lam. Ông ta lật nhanh các trang còn lại; các sơ đồ mạch điện, biểu đồ và bản vẽ giản lược thể hiện thứ gì như trang thiết bị nhà máy. Các dụng cụ và khuôn. Nhìn thoáng qua, một vài công thức có vẻ quen thuộc. Ông ta ngước lên. “Điện tử à?”

“Phải. Một phần. Ông rành về loại trang thiết bị này sao?”

Farnsworth không trả lời. Nếu người đàn ông kia biết chút gì về ông ta, y hẳn đã biết ông ta kinh qua nửa tá trận chiến với vai trò cầm đầu một nhóm gần bốn mươi luật sư, chiến đấu vì số phận của một trong các hãng sản xuất linh kiện điện tử lớn nhất thế giới. Ông ta bắt đầu xem các giấy tờ...

* * *

Newton ngồi thẳng trên ghế, nhìn Farnsworth, mái tóc trắng của y lóng lánh dưới ánh đèn chùm. Y đang mỉm cười, dẫu toàn thân y đau nhức. Sau một lúc, y nhấc chiếc cốc lên và bắt đầu nhấp nước, ở chốn quê nhà của y, ròng rã suốt cuộc đời y, nước là thứ quí giá đứng trên mọi thứ. Y chậm rãi nhấp từng ngụm và quan sát Farnsworth đọc. Sự căng thẳng mà y cảm thấy trước đó, nỗi âu lo được y che đậy cẩn thận mà văn phòng tuyệt đối lạ lẫm này trong một thế giới vẫn còn xa lạ đã khơi gợi lên, nỗi hãi hùng mà nhân loại béo tốt này, với phần hàm bạnh ra, làn da căng khít hộp sọ và hai mắt ti hí như mắt lợn đã gây cho y, giờ đây bắt đầu tan biến. Giờ đây y biết rằng y đã có được con người này, y đã đến đúng chỗ...

* * *

Hơn hai tiếng đồng hồ trôi qua Farnsworth mới ngẩng lên từ mớ giấy tờ. Suốt thời gian ấy ông ta uống hết ba cốc whiskey. Khóe mắt ông ta ửng hồng. Trông về phía Newton, hai mắt ông ta nhấp nháy, ban đầu không nhìn rõ được y, rồi tiêu cự dần trở lại, hai con mắt ti hí của ông ta mở to.

“Sao nào?” Newton hỏi, vẫn mỉm cười.

Người đàn ông mập mạp thở một hơi, rồi lắc lắc đầu như thể cố gắng làm tâm trí sáng tỏ lại. Khi ông ta lên tiếng, giọng ông ta mềm mỏng, do dự, thận trọng cực độ. “Tôi không hiểu được hết. Chỉ một vài thôi. Một vài. Tôi không hiểu lĩnh vực quang học... hay phim chụp ảnh.” Ông ta lại nhìn xuống mớ giấy tờ trong tay, như để chắc là chúng vẫn còn ở đó. “Tôi là luật sư, ông Newton ạ. Tôi là một luật sư.” Và rồi, đột nhiên, giọng ông ta nhiệt thành, run rẩy và hùng hồn, cơ thể phốp pháp và hai con mắt ti hí toát lên vẻ sôi nổi, chuyên chú. “Nhưng tôi biết về điện tử. Và tôi biết về các loại phẩm màu. Tôi nghĩ tôi hiểu được thứ... thứ máy khuếch đại của ông và tôi nghĩ tôi hiểu được thứ máy truyền hình của ông, và...” Ông ta ngừng một chốc, mắt nhấp nháy. “Chúa ơi, tôi nghĩ những thứ ấy có thể sản xuất được theo cách ông phác thảo.” Ông ta thở ra, chầm chậm. “Có vẻ thuyết phục, ông Newton ạ. Tôi nghĩ chúng sẽ hoạt động.”

Newton vẫn đang mỉm cười với ông ta. “Chúng sẽ hoạt động. Toàn bộ.”

Farnsworth rút ra một điếu xì gà và châm lửa, tự trấn tĩnh. “Tôi sẽ phải kiểm tra lại. Các hợp kim, các mạch điện...” Và rồi, đột nhiên, tự ông ta ngắt ngang, hai ngón tay mũm mĩm quắp chặt lấy điếu xì gà, “Chúa ơi, ông này, ông có biết toàn bộ những thứ ấy nghĩa là sao không? Ông có biết rằng ông có chín... chín bằng sáng chế tiên phong ở đây không?” Ông ta nhấc một tấm giấy lên bằng bàn tay múp míp, “Ở đây ta có máy phát thị tần và ở đây là vi mạch chỉnh lưu? Và... ông có biết như thế nghĩa là sao không?”

Biểu cảm của Newton vẫn không đổi. “Có. Tôi biết như thế nghĩa là sao.” Y trả lời.

Farnsworth chầm chậm rít một hơi xì gà. “Nếu mọi thứ đúng là vậy, ông Newton ạ,” ông ta nói giọng điềm tĩnh hơn, “nếu mọi thứ đúng là vậy thì ông có thể nắm trong tay công ty Vô tuyến Hoa Kì, hãng Eastman Kodak. Chúa ơi, ông có thể sở hữu tập đoàn DuPont. Ông biết mình có gì ở đây không?”

Newton chăm chú nhìn ông ta một lúc. “Tôi biết tôi có gì ở đây.” Y đáp.

* * *

Họ mất sáu tiếng đồng hồ lái xe tới biệt thự điền dã của Farnsworth. Newton cố gắng duy trì cuộc nói chuyện một quãng thời gian, gắng gượng trong góc ghế sau chiếc limousine, nhưng những cú tăng tốc nặng nhọc của chiếc xe khiến cơ thể y đau đớn tột độ, trong khi cơ thể ấy đã quá tải vì sức trì của lực hấp dẫn mà y biết sẽ mất nhiều năm để làm quen. Y buộc lòng phải nói với tay luật sư là y rất mỏi mệt và cần được nghỉ ngơi. Rồi y nhắm mắt lại, để phần lưng ghế tựa đỡ lấy trọng lượng của y càng nhiều càng tốt, và chịu đựng cơn đau. Không khí trong xe cũng quá nóng với y... Đây là mức nhiệt vào những ngày nóng bức nhất ở nơi quê nhà y.

Cuối cùng, khi họ vượt qua bên kia rìa thành phố, người tài xế mới lái vững vàng hơn, và những cú giật đau đớn vì hết thắng lại thả mới bắt đầu ngớt đi. Y liếc nhìn Farnsworth vài lần. Tay luật sư không hề chợp mắt. Ông ta ngồi đó, khuỷu tay chống lên đầu gối, vẫn lật tới lật lui những giấy tờ mà Newton đã đưa, hai con mắt ti hí của ông ta sáng ngời, sôi nổi.

Biệt thự này đồ sộ, nằm cách biệt trong rừng cây rộng lớn. Tòa nhà và cây cối trông ẩm ướt, lóe sáng lòa nhòa dưới ánh ban mai màu xám, trông rất giống ánh sáng vào buổi chính ngọ ở Anthea. Khung cảnh này giúp đôi mắt nhạy cảm quá độ của y được khoan khoái. Y thích những cánh rừng, cái cảm giác u tịch của sự sống nơi ấy, và ánh lóng lánh của nước đọng lại... Cảm giác về sự lai láng của nước và vẻ màu mỡ tràn ngập địa cầu này, ngay cả những tiếng rả rích rền vang miên viễn của lũ trùng bọ cũng khiến y thích thú. Đây ắt là một nguồn hạnh phúc vô biên so với thế giới của chính y, với sự khô kiệt, trống rỗng, tịch liêu của những hoang mạc cô quạnh, mênh mông giữa các đô thị gần như bỏ hoang, chỉ còn mỗi một âm thanh là tiếng than van của ngọn gió lạnh lẽo, ngọn gió vĩnh hằng cất lên tiếng kêu thống khổ của chính dân tộc y, một dân tộc đang hấp hối...

Một người hầu ngái ngủ trong bộ áo choàng tắm tiếp họ ở cửa. Farnsworth cho gã lui và ra lệnh mang cà phê lên, rồi gọi với theo, căn dặn gã chuẩn bị phòng cho khách cũng như ông ta sẽ không tiếp cuộc gọi nào trong ít nhất là ba ngày sắp tới. Rồi Farnsworth đưa y vào thư viện.

Thư viện lớn và thậm chí còn bài trí xa hoa hơn cả thư phòng ở căn hộ tại New York. Rõ ràng Farnsworth đã đọc các tạp chí hàng đầu về giới nhà giàu. Ở giữa phòng là một bức tượng trắng hình người đàn bà trần truồng nâng một cây đàn lia tinh xảo. Hai bức tường lắp đầy kệ sách, trên mặt tường thứ ba là một bức tranh lớn vẽ một hình tượng tôn giáo mà Newton nhận ra được là Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá bằng gỗ. Bộ mặt trong tranh khiến y thoáng giật mình... Cái vẻ gầy trơ xương và đôi mắt lớn trừng trừng ấy có khi là bộ mặt của một cư dân Anthea.

Rồi y nhìn Farnsworth, người này dù mắt lờ đờ giờ đã bình tĩnh hơn, ngả lưng vào chiếc ghế bành, hai bàn tay nhỏ đan vào nhau đặt trên bụng, đang quan sát vị khách của mình. Mắt họ gặp nhau, lúng túng trong một thoáng, và tay luật sư lia mắt sang nơi khác.

Rồi rất nhanh, ông ta nhìn trở lại và nói nhẹ giọng: “Chậc, ông Newton, các kế hoạch của ông ra sao?”

Y mỉm cười. “Rất đơn giản. Tôi muốn kiếm được càng nhiều tiền càng tốt. Càng nhanh càng tốt.”

Mặt tay luật sư không hiện lên biểu cảm gì, nhưng giọng ông ta ra vẻ giễu cợt. “Sự đơn giản của ông thật là tao nhã, ông Newton ạ,” ông ta nói. “Vậy trong đầu ông đã hình dung ra bao nhiêu tiền?”

Newton lơ đãng ngắm nghía những đồ mĩ nghệ xa hoa trong phòng. “Chúng ta có thể kiếm được bao nhiêu trong vòng, chẳng hạn như, năm năm?”

Farnsworth nhìn y một lát rồi đứng lên. Ông ta bước đi phục phịch sang chỗ kệ sách và bắt đầu xoay mấy chiếc núm nhỏ ở đó cho tới khi những chiếc loa đặt khuất đâu đó trong phòng bắt đầu phát tiếng vĩ cầm. Newton không biết giai điệu này, một giai điệu nhẹ nhàng với nhiều thanh âm đan xen. Vừa điều chỉnh các thông số Farnsworth vừa nói, “Tùy thuộc vào hai điều.”

“Đó là?”

“Đầu tiên, ông muốn làm ăn ngay thẳng ở mức độ nào, hả ông Newton?”

Newton tập trung sự chú ý trở lại với Farnsworth. “Hoàn toàn ngay thẳng. Một cách hợp pháp.”

“Tôi hiểu.” Farnsworth có vẻ như không chỉnh được âm cao cho vừa ý. “Vậy thì, điều thứ hai, phần của tôi sẽ là bao nhiêu?”

“Mười phần trăm lãi ròng. Năm phần trăm cổ phần toàn bộ tập đoàn.”

Đột ngột, Farnsworth giật các ngón tay khỏi mấy nút điều khiển âm li. Ông ta chầm chậm quay trở lại chiếc ghế của mình. Rồi ông ta cười mỉm. “Được rồi, ông Newton. Tôi nghĩ ta có thể đạt lãi ròng khoảng... ba trăm triệu đô la, trong vòng năm năm.”

Newton nghĩ ngợi một lát. Sau đó y nói: “Không đủ.”

Farnsworth nhìn y chòng chọc một lúc lâu, cặp lông mày của ông ta nhướn cao, đoạn ông ta hỏi: “Không đủ cho cái gì kia, thưa ông Newton?”

Hai mắt Newton đanh lại. “Cho một... dự án nghiên cứu. Một dự án tốn kém.”

“Tôi cam đoan với ông là đủ.”

“Giả sử, tôi có thể cung cấp cho ông qui trình tinh luyện dầu mỏ hiệu quả hơn bất kì qui trình nào đang được áp dụng tầm mười lăm phần trăm, thì liệu có thể nâng con số của ông lên năm trăm triệu chăng?”

“Ông liệu... qui trình ấy có thể thiết lập trong vòng một năm không?”

Newton gật đầu. “Trong vòng một năm ta có thể sản xuất vượt Công ty Dầu Standard... và tiếp đó, tôi cho là, ta có thể cho công ty ấy thuê lại.”

Farnsworth nhìn chòng chọc y lần nữa. Cuối cùng ông ta cất lời: “Chúng ta sẽ lên kế hoạch cho các thứ giấy tờ vào ngày mai.”

“Tốt.” Newton nhấc mình khỏi ghế một cách cứng nhắc. “Ta có thể nói về các thỏa thuận chi tiết hơn lúc ấy. Thực chất chỉ có hai điều quan trọng cần lưu ý: Ta kiếm tiền một cách trung thực, và tôi yêu cầu được hạn chế liên lạc với bất kì ai, ngoại trừ ông.”

Phòng ngủ cho y ở tầng trên, trong một thoáng y nghĩ mình sẽ không thể leo lên cầu thang nổi. Nhưng rồi y cũng xoay xở được, từng bậc một, trong khi Farnsworth đi bên cạnh y, không nói năng gì. Rồi, sau khi ông ta đưa y đến phòng, tay luật sư nhìn y và nhận xét: “Ông là một người lạ lùng, thưa ông Newton. Ông có phiền không nếu tôi hỏi ông là người ở đâu?”

Câu hỏi ấy thình lình nhảy xổ ra, nhưng y vẫn giữ được bình thản. “Không hề chi.” Y đáp. “Tôi đến từ Kentucky, ông Farnsworth ạ.”

Hàng lông mày của tay luật sư nhướn lên rất khẽ. “Ra thế.” Ông ta bảo. Rồi Farnsworth xoay người và bước đi phục phịch về phía cuối hành lang, sàn lát đá hoa cương vang vọng tiếng bước chân...

Phòng dành cho y có trần cao và được bài trí công phu. Y trông thấy một máy truyền hình đặt âm tường, thiết kế để có thể nằm xem trên giường, y nhìn nó và mỉm cười mệt mỏi... Y sẽ phải bật lên xem một lúc nào đó, để so sánh khả năng thu hình của nó với kĩ thuật truyền hình ở Anthea. Và hẳn là xem lại một số chương trình cũng giúp y tiêu khiển. Y từng rất thích các phim cao bồi, dù các chương trình đố nhanh và các chương trình “giáo dục” ngày Chủ Nhật cung cấp cho đội ngũ của y hầu hết thông tin mà y đã thuộc làu. Y không hề xem chương trình truyền hình nào trong... chuyến du hành mất bao lâu nhỉ... bốn tháng. Và y đã hiện diện trên hành tinh này được hai tháng... xoay tiền, nghiên cứu các vi khuẩn gây bệnh, nghiên cứu thực phẩm và nước uống, hoàn thiện khẩu âm, nghiên cứu báo chí, trang bị bản thân cho cuộc trò chuyện mang tính quyết định với Farnsworth.

Y hướng mắt ra ánh sáng ban mai giờ đây đã rực rỡ hơn ngoài cửa sổ, ra vòm trời xanh nhợt nhạt. Đâu đó trên bầu không kia, có lẽ chính chỗ mắt y đang hướng tới, là Anthea. Một nơi lạnh lẽo, đang hấp hối, nhưng là nơi mà y có thể hoài nhớ, một nơi có những người y yêu, những người mà y sẽ không được gặp trong một quãng thời gian đằng đẵng... Nhưng rồi y sẽ thấy lại họ.

Y khép màn cửa sổ, và rồi, chầm chậm thả lỏng cơ thể đau nhức, kiệt lực của y lên chiếc giường. Không biết nhờ đâu mà tất cả sự kích động dường như tan biến, và y thấy an nhiên, thanh thản. Y rơi vào giấc ngủ chỉ trong vòng vài phút.

Ánh nắng chiều đánh thức y, và dù ánh nắng chói lóa làm mắt y đau đớn... bởi lẽ tấm vải màn xuyên thấu... y tỉnh giấc, cảm thấy sảng khoái và thư thái. Có lẽ nhờ sự mềm mại của chiếc giường so với thứ giường trong các nhà trọ tối tăm mà y đã trọ lại, và có lẽ nhờ y thấy yên lòng bởi thắng lợi đêm qua. Y nằm trên giường, ngẫm nghĩ, trong vài phút và rồi ngồi dậy, đi vào phòng tắm. Ở đó người ta đặt sẵn dao cạo râu điện cho y, cùng với xà phòng, khăn mặt và khăn tắm. Y mỉm cười trước cảnh ấy, dân Anthea làm gì có râu. Y gạt vòi nước ở bồn rửa mặt và ngắm nghía trong một lúc, mê mẩn như thường lệ với cảnh tượng nước tuôn chảy. Rồi y rửa mặt, không dùng xà phòng. vì thứ này khiến da y kích ứng... thay vào đó dùng một thứ kem từ chiếc lọ y mang theo trong chiếc cặp tài liệu. Rồi y uống những viên thuốc thường lệ, thay quần áo, và đi xuống cầu thang để bắt đầu công cuộc kiếm nửa tỉ đô la...

* * *

Tối đó, sau sáu tiếng đồng hồ bàn bạc và lên kế hoạch, y đứng một lúc lâu trên ban công phòng mình, tận hưởng bầu không khí mát mẻ và ngắm nhìn bầu trời đen thẳm. Các vì sao và hành tinh toát lên vẻ lạ lẫm, lung linh mờ ảo trong bầu khí quyển đậm đặc, và y thích thú quan sát chúng hiện diện ở những vị trí khác thường. Nhưng y biết rất ít về thiên văn, và không nhìn ra được hình dạng các chòm sao... trừ chòm Bắc Đẩu và một vài chòm phụ cận. Cuối cùng y trở vào phòng. Lòng y sẽ hân hoan biết mấy nếu xác định được ngôi sao nào là Anthea, nhưng việc ấy nằm ngoài khả năng của y...