⚝ 3 ⚝
Vào một buổi chiều Xuân ấm áp hơn lệ thường, trong lúc leo lên căn hộ ở tầng bốn của mình, gã phát hiện một cuộn pháo súng trên chiếu nghỉ cầu thang ở tầng ba. Nhớ lại những tràng súng pháo ầm ĩ hồi trưa nay ở hành lang, gã nhặt cuộn giấy lên, định giội xuống toa-lét khi về đến căn hộ của mình. Gã mất một chốc mới nhận diện được cuộn giấy nhỏ ấy, bởi lẽ nó có màu vàng tươi. Khi gã còn bé, các cuộn pháo súng luôn có màu đỏ, một màu đỏ gỉ sắt rất riêng, pháo súng và pháo đốt lúc nào cũng cùng một màu ấy, và những thứ pháo khác cũng vậy. Nhưng có vẻ giờ đây người ta làm ra pháo súng màu vàng, như làm ra những chiếc tủ lạnh hồng và những chiếc cốc vàng nhôm, và những đồ vật lạ kì đến phi lí tương tự. Gã tiếp tục đi lên cầu thang, người toát đầy mồ hôi, giờ đây gã vừa đi vừa nghĩ tới những quá trình hóa học phức tạp chỉ để làm ra những chiếc cốc vàng nhôm. Gã cho rằng những người tiền sử trong hang động uống nước bằng hai bàn tay chai cứng chụm lại có lẽ đã sống vô cùng yên ổn mà không cần toàn bộ kiến thức rắc rối về kĩ thuật hóa học - thứ kiến thức phức tạp, vô thần về hành vi ở cấp độ vi mô và các qui trình thương mại - những thứ mà, chính gã, Nathan Bryce, được trả tiền để nghiên cứu và công bố các thành quả nghiên cứu.
Lúc lên đến căn hộ của mình thì gã đã quên mất cuộn pháo súng. Có quá nhiều thứ khác để nghĩ ngợi. Vẫn luôn chễm chệ cùng một vị trí trong sáu tuần qua, ở một bên chiếc bàn gỗ sồi to lớn sứt sẹo của gã, là một chồng ngổn ngang tiểu luận của sinh viên, mà nghiền ngẫm thứ ấy là một việc kinh khiếp. Kế bên chiếc bàn là một máy tản nhiệt chạy bằng hơi nước được sơn xám, cổ lỗ, một món đồ lạc hậu giữa thời đại của hệ thống sưởi điện, trên lớp vỏ sắt đáng kính của chiếc máy ấy chất một đống lộn xộn, đầy vẻ khủng bố các quyển sổ ghi chép thí nghiệm của sinh viên. Những quyển sổ chất cao ngất ngưỡng đến độ bức tranh in Lasansky 3 cỡ nhỏ, vốn treo cách xa chiếc máy tản nhiệt, cũng gần như bị chồng sổ che khuất. Chỉ có đôi mắt nhắm hờ còn hiện ra - đôi mắt, có lẽ, của một vị thần khoa học ngán ngẩm, săm soi nhìn xuống những bài báo cáo thí nghiệm trong nỗi thống khổ câm lặng. Giáo sư Bryce, vốn là một người đàn ông có khuynh hướng cư xử thất thường và thích mai mỉa không giống ai, tưởng tượng ra cảnh ấy. Gã cũng để ý thấy bức tranh cỡ nhỏ - có hình một bộ mặt đàn ông để râu - là một trong số ít ỏi những món đồ đáng giá mà gã bắt gặp được trong ba năm sống tại thị trấn vùng Trung Tây này. Giờ đây nó đã mất hút phía sau công trình của các sinh viên mà gã, giáo sư Bryce, đang giảng dạy.
Trên phần mặt bàn thông thoáng, đã được dọn dẹp là chiếc máy đánh chữ, sừng sững như một vị thần hạ giới khác. Một vị thần hay yêu sách, nhỏ mọn, lỗ mãng vẫn đang giữ lấy trang thứ mười bảy một bài tiểu luận về ảnh hưởng của các bức xạ ion hóa lên nhựa polyester, một tiểu luận không được hoan nghênh, không được thừa nhận xứng đáng, một tiểu luận có lẽ sẽ mãi mãi dang dở. Bryce đưa mắt nhìn chòng chọc vào mớ hỗn độn ủ ê ấy: Những tờ tiểu luận nằm rải rác như một thành phố xây bằng các lá bài bị bom oanh tạc rồi phơi ra một đống đổ nát, những bài giải ngắn gọn đến kinh hãi kéo dài như vô tận cho các phương trình khử ô xi hóa và các qui trình điều chế công nghiệp ra các loại axit chẳng có gì hay ho; tẻ ngắt tương đương tiểu luận nhạt nhẽo về các loại nhựa polyester. Hai mắt gã chăm chăm vào những thứ nọ, hai tay thì thọc vào túi áo khoác, hết ba mươi giây tròn, gã chìm trong nỗi thoái chí trầm kha. Rồi, vì không khí trong phòng nóng bức, gã cởi phắt áo khoác, ném lên chiếc trường kỉ bọc gấm dệt kim tuyến, thò tay vào dưới áo sơ mi gãi bụng và bước vào nhà bếp, bắt đầu pha cà phê. Bồn rửa chén ngổn ngang các cốc chia vạch, bình cổ cong cáu bẩn và các chai lọ lỉnh kỉnh, cùng với mấy chiếc đĩa đựng phần ăn sáng, có đĩa còn hoen lại vết tròng đỏ trứng. Nhìn vào sự bừa bộn khó lòng chấp nhận ấy, gã cảm thấy trong một khoảnh khắc như muốn hét to lên tuyệt vọng, nhưng gã không làm gì. Gã chỉ đứng đó trong một phút và cất tiếng, khẽ khàng. “Bryce, mày đúng là một đống hổ lốn khốn kiếp.” Rồi gã tìm thấy một chiếc cốc chia vạch còn tàm tạm sạch, súc cốc, trút bột cà phê vào và hứng nước nóng từ vòi, khuấy bằng một cái nhiệt kế phòng thí nghiệm và uống cạn cốc, mắt lia tới bức tranh lớn, đắt tiền, in lại họa phẩm Icarus 4 rơi rụng của Brueghel 5 đang treo ở mặt tường bên trên bệ lò sưởi màu trắng. Một tuyệt tác. Đó là họa phẩm mà gã từng say mê một thuở nhưng giờ đây đã thành ra quá vãng. Lạc thú mà bức tranh ấy mang đến cho gã giờ chỉ còn lại cái phần thuộc về tri thức - gã yêu thích màu sắc, hình dạng, những thứ mà một kẻ ái mộ nghệ thuật yêu thích - và gã biết rất rõ đó là một dấu hiệu nguy hại, hơn nữa cảm giác ấy phần nhiều có liên hệ với đống tiểu luận đầy tai ương vây quanh chiếc bàn viết trong căn phòng bên cạnh. Uống xong phần cà phê, gã trích dẫn những dòng thơ của Auden 6 về bức tranh ấy, bằng một giọng khe khẽ, thành kính, mà không bộc lộ bất kì nét mặt hoặc tình cảm riêng tư nào.
...và con tàu đẹp đẽ xa hoa bắt gặp
Lạ lùng sao, cậu trai rơi xuống từ trời cao,
Nhưng tàu vẫn lướt đi, thản nhiên trong yên ả.
Gã đặt chiếc cốc chia vạch, không hề súc rửa, xuống bệ lò sưởi. Tiếp đó gã xắn tay áo, tháo cà vạt, và bắt đầu vặn nước nóng cho đầy bồn, ngắm nhìn lớp bọt xà phòng sủi tăm dưới áp lực của vòi nước như một sinh vật sống đa bào, như thứ mắt kép của một con côn trùng bạch tạng khổng lồ. Rồi gã đặt các chai lọ thủy tinh, xuyên qua lớp bọt, vào nước nóng bên dưới. Gã tìm được miếng bọt rửa chén và bắt đầu công việc. Gã phải bắt đầu từ đâu đó...
Bốn tiếng đồng hồ sau gã đã chấm được một chồng nhỏ tiểu luận và đưa tay mò mẫm trong túi tìm sợi dây thun để buộc lại thành xấp. Bấy giờ gã mới phát hiện ra cuộn pháo súng. Gã kéo cuộn giấy khỏi túi, giữ trong lòng bàn tay một chốc, rồi cười toe toét một cách ngốc nghếch. Đã ba mươi năm nay gã không hề bắn qua khẩu súng pháo nào... Không hề từ cái thuở xưa lơ xưa lắc, cái thuở thơ ngây mặt lấm tấm mụn, gã đã chuyển từ những khẩu súng pháo và tập Vườn thơ cho em 7 sang bộ đồ thí nghiệm hóa học kềnh càng, toát lên vẻ nghiêm túc mà ông của gã tặng như một sự khích lệ trực tiếp từ định mệnh. Đột nhiên gã ước ao có được một khẩu súng pháo, gã cảm thấy, ở đây, trong căn hộ trống vắng này, niềm mong mỏi được bắn những viên pháo súng, hết viên này đến viên khác. Và rồi gã nhớ ra, một lần nọ, có Chúa mới biết bao nhiêu năm về trước, gã đã tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu châm lửa đốt nguyên băng pháo súng... một ý tưởng lí thú, vượt lên lẽ thường. Nhưng gã chưa bao giờ thử cả. Chậc, còn lúc nào hay hơn lúc này. Gã đứng dậy, mỉm cười mệt mỏi và bước vào nhà bếp. Gã đặt cuộn pháo súng lên một tấm lưới mỏng bằng đồng, đặt tấm đồng ấy lên một cái giá ba chân, đổ lên chút cồn từ cây đèn cồn, lẩm bẩm đầy mô phạm “Đốt cháy cưỡng bức” rồi lấy ra một que gỗ, thắp lửa bằng chiếc bật lửa gã dùng hút thuốc, và thận trọng dí phần đầu que đang cháy vào băng pháo. Gã ngạc nhiên và thích thú với kết quả, gã cứ tưởng sẽ nghe thấy một tràng tiếng nổ lốp bốp không theo qui luật nào và trông thấy một làn khói xám, nhưng thay vào đó, cuộn pháo nhảy nhót điên cuồng trên tấm lưới mỏng bằng kim loại và nổ lên những tiếng đùng đoàng inh ỏi, đầy hỗn loạn, khiến cho gã khoái chí. Thật lạ lùng, không hề có khói bốc lên từ phần tàn dư đen sì. Gã cúi xuống ngửi đống vụn nhỏ màu đen ấy. Không một mùi gì. Quái lạ. Chúa ơi, gã nghĩ, mọi thứ mới chóng vánh làm sao! Một tay hóa học gia ngu xuẩn đáng thương nào đó đã tìm ra chất thay thế cho thuốc súng rồi. Gã tự hỏi trong chốc lát đó là chất gì, rồi nhún vai bỏ qua. Có lẽ gã sẽ tìm hiểu chuyện đó vào lúc khác. Nhưng gã thấy nhớ mùi thuốc súng... một thứ mùi hăng hăng tuyệt diệu. Gã nhìn đồng hồ đeo tay. Bảy giờ rưỡi. Bên ngoài các ô cửa sổ là ánh sáng chập choạng của buổi chiều Xuân. Đã quá giờ ăn tối. Gã bước vào phòng tắm, rửa tay và mặt, lắc đầu trước vẻ phờ phạc của chính mình đang hiện lên trong gương. Rồi gã nhặt chiếc áo khoác trên trường kỉ, mặc vào và bước ra khỏi nhà. Đầu óc lan man, gã vừa bước xuống vừa chăm chú nhìn các bậc thang, tìm xem còn cuộn pháo súng nào không, nhưng không thấy.
Sau khi ăn một chiếc bánh mì kẹp và uống một cốc cà phê, gã quyết định ra rạp xem phim. Gã đã có một ngày khó nhọc. Bốn tiếng đồng hồ làm việc trong phòng thí nghiệm, ba tiếng dạy học, bốn tiếng ngồi đọc các bài luận ngu ngốc. Gã tản bộ vào khu trung tâm, hi vọng là có một phim khoa học viễn tưởng. Một phim với những con khủng long sống dậy giẫm chân thình thịch quanh Manhattan, trong đầu chúng là bộ não kì thú nhỏ như não chim, hoặc những sinh vật Sao Hỏa ăn sâu bọ đến xâm lược địa cầu, phá hủy toàn bộ thế giới chết tiệt này (một sự thủ tiêu tốt đẹp) để chúng có thể ăn lũ trùng bọ. Nhưng không có phim nào theo kiểu ấy đang chiếu, gã đành chọn một phim nhạc kịch, mua bắp rang và một thanh kẹo trước khi đi vào phòng chiếu nhỏ hẹp, tối mù và tìm một chỗ ngồi cách biệt cạnh lối đi. Gã bắt đầu ăn bắp rang, cố gắng át trôi vị mù tạt rẻ tiền của chiếc bánh mì kẹp trong miệng. Màn hình đang chiếu một đoạn tin thời sự và gã xem đoạn tin ấy một cách uể oải, với đôi chút sợ sệt mà những thứ như vậy thường gây ra cho gã. Trong bản tin là hình ảnh các cuộc bạo loạn ở châu Phi. Người ta bạo loạn ở châu Phi bao nhiêu năm rồi? Có phải từ hồi đầu thập niên sáu mươi không? Rồi đến bài diễn văn của một tay chính trị gia Bờ Biển Vàng, đe dọa sẽ sử dụng “các vũ khí nhiệt hạch chiến lược” chống lại một vài “thành phần quá khích” đáng thương. Bryce vặn vẹo thân mình trong ghế, hổ thẹn vì nghề nghiệp của gã. Nhiều năm trước, là một sinh viên vừa tốt nghiệp với tương lai xán lạn, gã đã làm việc ít lâu cho đề án vũ khí nhiệt hạch đầu tiên. Giống như ông bạn già Oppenheimer 8 tội nghiệp, gã đã nhen nhúm những mối hoài nghi sâu sắc kể cả vào lúc đó. Đoạn tin thời sự chuyển sang các địa điểm phóng tên lửa dọc sông Congo, rồi các dòng tên lửa có người lái ở Argentina, và cuối cùng là các xu hướng thời trang của New York, với kiểu áo trễ ngực cho nữ giới và kiểu quần xếp diềm cho cánh mày râu. Nhưng Bryce không tài nào gạt bỏ hình ảnh những người châu Phi ra khỏi đầu, những thanh niên da đen nghiêm nghị ấy là hậu duệ của những tộc người da đen u tối, tay lấm chân bùn trong tạp chí Địa lí Quốc gia, những tờ tạp chí mà người ta lật nhanh giết thời giờ ở hằng hà sa số phòng mạch bác sĩ và phòng khách của những người quen đáng kính. Gã nhớ tới bộ ngực xệ của những người đàn bà, tới chiếc khăn choàng đỏ lúc nào cũng có mặt trong các tấm ảnh màu. Giờ đây hậu duệ của những con người ấy khoác lên mình bộ đồng phục và đến các trường đại học, uống martini, chế tạo bom nhiệt hạch của riêng họ.
Bộ phim nhạc kịch ập đến với những sắc thái thô thiển táo bạo, như thể, bằng sức mạnh của sự lòe loẹt, bộ phim ấy có thể xóa đi kí ức về đoạn phim thời sự vừa xong. Tên phim là Chuyện về Shari Leslie , một bộ phim tẻ nhạt, chí chóe. Bryce cố gắng để tâm trí chìm vào những màu sắc và cử động vô định trên màn hình nhưng không thể, và đành phải an ủi bản thân bằng cách trước tiên thưởng thức bộ ngực căng đầy và đôi chân dài của người đàn bà trẻ tuổi trong phim. Tự thân hình ảnh ấy đã đủ gây xao nhãng rồi, sự xao nhãng này lại còn là thứ đầy khốn khổ, dù lố bịch, với một người đàn ông trung niên góa vợ. Vặn vẹo thân mình, chịu đựng dục cảm đang gào thét, gã hướng sự chú ý sang kĩ thuật quay, và lần đầu nhận ra chất lượng kĩ thuật của hình ảnh trong phim thật ấn tượng. Đường nét và hình ảnh, dù phóng lớn trên màn hình Dupliscope to tướng, hiện ra sắc nét như một bức ảnh in theo kĩ thuật tiếp xúc. Gã chớp mắt, nhìn lên màn ảnh, rồi lau cặp kính bằng chiếc khăn mùi soa. Không nghi ngờ gì, hình ảnh hiện ra hoàn hảo. Gã có lõm bõm kiến thức về lĩnh vực quang hóa, chất lượng như vậy có vẻ bất khả thi, với những gì gã biết về qui trình in chuyển sắc và những loại phim màu tráng ba lớp nhũ tương. Gã ngạc nhiên nhận ra mình vừa huýt sáo khe khẽ, và cực kì hứng thú xem phần còn lại của phim - chỉ thỉnh thoảng mất tập trung khi một trong các bóng hồng loay hoay cởi chiếc nịt ngực - một mô típ gã không bao giờ quen nổi trong phim.
Sau đó, trên đường ra khỏi rạp chiếu bóng, gã dừng lại một chốc để quan sát các áp phích quảng cáo phim, xem thử người ta có đề cập gì tới kĩ thuật màu sắc không. Rất dễ nhìn thấy, giăng ngang những quảng cáo lòe loẹt là một tấm áp phích đề dòng chữ: Cảm thụ màu sắc tối tân với WORLDCOLOR. Tuy nhiên, chẳng có gì hơn nữa, trừ biểu tượng chữ R nằm trong vòng tròn nhỏ, đánh dấu “nhãn hiệu đã đăng kí bản quyền”, và dòng chữ in bé xíu bên dưới: “Bản quyền thuộc tập đoàn W. E.” Gã sục sạo trong đầu tổ hợp từ nào trùng với hai chữ viết tắt ấy, nhưng với bản tính đôi khi thất thường quái đản của tâm trí, gã chỉ toàn tìm ra những từ thật lố bịch, phi lí: Wan Eagles (Những con đại bàng bệnh hoạn), Wamsutta Enchiladas (Bánh ngô enchilada hiệu Wamsutta 9 ), Wealthi Engineers (Những kĩ sư kếch xù), Worldly Eros (Dâm dục cõi thế). Gã nhún vai, tay thọc túi quần, gã bắt đầu đi xuôi xuống con phố đã về đêm, vào khu trung tâm nhấp nháy đèn neon của thị trấn đại học bé nhỏ này.
Bồn chồn, hơi cáu kỉnh, không muốn lúc này phải trở về nhà và lại chúi mũi vào những bài tiểu luận, gã đưa mắt tìm kiếm một trong các quán bia nơi sinh viên thường hẹn nhau. Gã tìm được tiệm rượu nhỏ tên là quán Henry, một chốn khiêm nhường trông có vẻ nghệ sĩ với những vại bia Đức trưng ở ô cửa kính phía trước. Gã từng vào quán này trước đây, nhưng chỉ vào các buổi sáng. Đó là một trong các thói hư tật xấu ít ỏi mà gã vẫn duy trì. Gã đã nhận ra, từ hồi tám năm trước, khi vợ gã qua đời (trong một bệnh viện sang trọng, với một khối u nặng ba cân Anh trong dạ dày), rằng có những lí lẽ hiển nhiên để ủng hộ cho việc uống rượu vào buổi sáng. Gã đã khám phá ra, một cách khá tình cờ, rằng sẽ rất tuyệt, trong một buổi sáng u ám, xám xịt - một buổi sáng với tiết trời tù mù, ủ rũ - nếu được ngà ngà say nhưng vẫn còn minh mẫn, đó quả là một cái thú sầu tư. Nhưng cái thú ấy phải được bảo đảm bằng sự chính xác từng li từng tí của một nhà hóa học, những chuyện tồi tệ có thể xảy ra nếu xuất hiện dù chỉ một sai sót. Có những vách đá không tên mà từ đó ta có thể ngã nhào, và trong những ngày âm u người ta rất dễ rơi vào cơn sầu tủi hay gặm nhấm những nỗi tang thương, như lũ chuột cần mẫn trong một góc của cơn say xỉn buổi sáng. Nhưng gã là con người khôn ngoan, và gã thành thạo với những chuyện này. Giống như morphine, tất cả tùy thuộc vào liều lượng thích đáng.
Gã kéo cánh cửa quán Henry và được chào đón bởi tiếng rền rĩ thiểu não của chiếc máy hát tự động chễm chệ ngay trung tâm quán, chiếc máy ấy rung bần bật với những tiếng bass và ánh đèn đỏ, như một trái tim bệnh tật và cuồng loạn. Gã bước đi, có đôi chút loạng choạng, giữa những dãy bàn nhựa, thường vắng khách và trông buồn tẻ vào các buổi sáng, giờ đây đông nghịt sinh viên. Một vài người đang thì thầm đầy háo hức, nhiều người để râu và vận thứ quần áo rách rưới theo mốt. Trông như những kẻ theo chủ trương vô chính phủ toát ra điệu bộ màu mè, hoặc “lũ tay sai của một đế chế ngoại quốc” từ những bộ phim cũ, xưa lắc của thập niên ba mươi. Và đằng sau những bộ râu ấy có gì? Tao nhân mặc khách? Nhà cách mạng? Trong số đó có một sinh viên tham dự lớp Hóa hữu cơ của gã, cậu này đã viết nhiều bài cho các báo sinh viên, về tự do yêu đương và “cái xác phân hoại của giáo lí Công giáo, làm ô nhiễm suối nguồn đời sống”. Bryce gật đầu chào cậu ta, cậu này đáp lại gã bằng đôi mắt trừng to, bối rối trên bộ mặt rậm râu, sưng sỉa. Các cậu trai đến từ những nông trại ở Nebraska và Iowa, hầu hết đều kí tên vào những đơn kiến nghị giải trừ vũ khí, đang thảo luận về Chủ nghĩa xã hội. Trong một thoáng gã thấy bứt rứt, như một người Bôn sê vích già nua mỏi mệt mặc một chiếc áo khoác vải tweet ở giữa đám người giai cấp mới.
Gã tìm thấy một chỗ chật hẹp ở quầy bar và gọi một cốc bia với người đàn bà tóc hoa râm, cắt mái, trên mũi là cặp kính gọng đen. Gã chưa từng trông thấy bà ta trước đó, vào các buổi sáng gã được phục vụ bởi một người đàn ông già mắc chứng khó tiêu và lầm lì tên là Arthur. Ông ta là chồng của người đàn bà này chăng? Gã mỉm cười lơ đãng với bà ta, nhận lấy cốc bia. Gã uống ực thật nhanh, cảm thấy khó chịu, muốn ra ngoài. Trên chiếc máy phát nhạc tự động, giờ ở đằng sau gã, là một đĩa hát bắt đầu phát một bài dân ca, với tiếng gảy đàn zither 10 dây sắt. Ôi Chúa ơi, vác lên một kiện bông! Ôi chúa ơi... Ngồi kế gã ở quầy bar là một cô gái da trắng đang tán gẫu với một cô có đôi mắt buồn về “cấu trúc” của thi ca và hỏi ý cô bạn liệu bài thơ có “được” không, một thể loại trò chuyện khiến Bryce phải rùng mình. Lũ trẻ ranh này biết nhiều đến mức chết tiệt! Rồi gã nhớ lại những lời lẽ màu mè rỗng tuếch mà gã từng phát biểu, trong năm gã theo học chuyên ngành tiếng Anh, khi gã ở lứa tuổi hai mươi: “Các tầng bậc ý nghĩa”, “vấn đề ngữ nghĩa”, “tầng nghĩa tượng trưng”. Ôi chao, có hằng hà sa số thứ thay thế cho tri thức và sự thấu triệt... những ẩn dụ giả trá đầy rẫy khắp mọi nơi. Gã uống hết cốc bia và rồi, không biết tại sao, gọi thêm cốc khác, dù gã muốn rời đi, muốn thoát khỏi sự ầm ĩ và những trò làm bộ làm tịch. Chẳng phải gã đang bất công với những đứa trẻ này sao, tự biến mình thành một tên khốn hợm hĩnh, tự cao tự đại? Những người trẻ tuổi lúc nào cũng dại dột, bị mờ mắt bởi cái gọi là diện mạo bên ngoài - mà chẳng phải phần còn lại của loài người cũng y hệt hay sao. Tốt hơn là chúng nên nuôi râu chứ đừng gia nhập hội này hội nọ hay mở mồm tranh biện. Sớm thôi, chúng sẽ được học đến phát ngấy về sự ngu xuẩn nhạt nhẽo của những thứ ấy khi rời trường, mặt mày nhẵn nhụi bôn ba tìm việc. Hay là gã cũng đã nhầm về chuyện này? Lúc nào cũng có khả năng rằng chúng - ít nhất là một vài trong số chúng - sẽ trở thành những Ezra Pound 11 đầy chính trực, không bao giờ cạo râu, thành ra những đảng viên đảng Xã hội, những người vô chính phủ hay những tay phát xít nói nheo nhéo sáng chói, và bỏ mạng ở những thành phố châu Âu hẻo lánh, những nhà thơ viết nên những thi phẩm thượng hạng, những họa gia vẽ nên những họa phẩm sâu sắc, những con người vô sản, chỉ có mỗi cái tên để xưng danh. Gã uống cạn cốc bia và tiếp tục một cốc khác. Trong lúc uống, tâm trí gã lóe qua hình ảnh tấm áp phích ở rạp chiếu bóng và cái từ to tướng, WORLDCOLOR, lúc này gã mới nghĩ ra chữ W trong tập đoàn W. E., có lẽ là chữ viết tắt của Worldcolor chăng. Hoặc, có lẽ, là từ World (Thế giới). Và chữ E? Elimination? (Sự trừ khử) Exhibitionism? (Chủ nghĩa phô trương) Eroticism? (Chủ nghĩa khiêu dâm) Hoặc, gã nhếch mép ác nghiệt, đơn giản là Exit (Biệt thế)? Gã mỉm cười lịch duyệt với cô gái mặc chiếc áo khoác đỏ ngồi kế bên, cô này giờ đang nói về “chất liệu” của ngôn ngữ. Cô bé ắt hẳn chưa quá mười tám tuổi. Cô nhìn gã với vẻ hoài nghi, cặp mắt đen ánh lên nét nghiêm nghị. Và rồi gã cảm thấy một cơn đau nhói, cô ta thật là xinh đẹp. Gã ngừng cười, uống vội cốc bia cho hết, và rời đi. Khi gã đi ngang chiếc bàn ở lối ra, cậu sinh viên môn Hóa hữu cơ với bộ râu nói: “Xin chào, giáo sư Bryce.” Giọng cậu ta rất phải phép. Bryce gật đầu với cậu chàng, lầm bầm trong miệng, và len lỏi tìm đường ra khỏi cửa, hòa vào buổi đêm ấm áp.
Đã mười một giờ, nhưng gã không muốn về nhà. Trong một thoáng gã nghĩ tới việc gọi Gelber, bằng hữu thân thiết duy nhất của gã trong khoa, nhưng rồi thôi. Gelber là một người biết cảm thông, nhưng dường như gã không có bất kì thứ gì để kể lể ngay lúc này. Gã không muốn nói về chính mình, về nỗi sợ hãi của mình, về dục vọng hèn mạt, về cuộc sống ngu dại và ghê tởm của gã. Gã tiếp tục bước đi.
Ngay trước lúc nửa đêm gã dừng chân ở một hiệu thuốc mở xuyên đêm, cửa hiệu vắng tanh, không có ai ngoài một người bán hàng luống tuổi ngồi phía sau quầy bán đồ ăn trưa làm bằng nhựa lóng lánh. Gã ngồi xuống, gọi cà phê và, sau khi cặp mắt đã quen với ánh sáng nhân tạo của những bóng đèn huỳnh quang, gã bắt đầu lơ đễnh nhìn về phía quầy nhựa, đưa mắt đọc những nhãn dán trên các lọ aspirin, thiết bị máy ảnh, các gói dao cạo... Trong lúc gã đang nheo mắt nhìn, đầu gã đâm ra đau điếng. Món bia, ánh sáng... Lọ kem rám da và những chiếc lược bỏ túi. Rồi mắt gã bắt gặp một thứ và dính chặt vào đó. Worldcolor: Phim chụp ảnh 35 mm , dòng chữ được in trên từng chiếc hộp vuông màu lam xếp thành dãy, kế bên những chiếc lược bỏ túi, bên dưới một tấm bìa trưng các đồ cắt móng. Thứ ấy khiến gã giật mình mà không biết vì sao. Người bán hàng đang đứng gần đó, bất thình lình Bryce bảo: “Làm ơn cho tôi xem qua thứ phim kia.”
Ông ta nheo mắt nhìn gã - ánh sáng cũng làm mắt ông ta khó chịu ư? - và bảo: “Phim gì kia?”
“Phim chụp ảnh màu ấy. Worldcolor.”
“Ồ. Tôi không...”
“Phải, tôi biết.” Gã ngạc nhiên thấy giọng mình nóng nảy. Gã không có thói quen ngắt lời người khác.
Ông già khẽ nhăn nhó, rồi lê chân qua và kéo xuống một hộp phim. Ông ta dằn mạnh món đồ ấy xuống mặt quầy ngay phía trước Bryce, không nói một lời.
Bryce cầm chiếc hộp lên, nhìn vào chỗ nhãn hộp. Phía dưới những chữ cái in lớn là dòng chữ nhỏ: Phim màu đã cân bằng, không tạo hạt . Và bên dưới nữa là: ASA: 200 tới 3000, tùy theo lựa chọn tráng . Chúa ơi! Gã nghĩ, độ nhạy sáng không thể nào cao đến thế. Lại còn tùy chọn ư?
Gã ngẩng lên nhìn người bán hàng. “Bao nhiêu tiền thứ này?”
“Sáu đô la. Cho ba mươi sáu kiểu. Hai mươi đô la cho hai cuộn bảy mươi nhăm kiểu.”
Gã cầm chiếc hộp trong tay, thứ hộp ấy nhẹ bẫng. “Khá mắc đấy nhỉ?”
Người bán hàng nhăn mặt, cái lối nhăn nhó của một ông già thấy phiền hà. “Không mắc nếu ông tính cả tiền tráng phim.”
“Ồ, tôi hiểu rồi. Họ tráng phim luôn cho ta. Ta sẽ nhận một phong thư...” Gã ngưng ngang. Thật là một cuộc trò chuyện ngu ngốc. Ai đó phát minh ra một thứ phim mới. Gã quan tâm làm gì, gã có làm nghề chụp ảnh đâu.
Sau khi ngừng một chút, người bán hàng lại nói: “Không.” Và rồi, ông ta xoay người ra hướng cửa. “Phim tự tráng.”
“Tự cái gì kia?”
“Tự tráng. Xem nào, ông có mua hay là không?”
Không trả lời, gã lật đi lật lại chiếc hộp trong tay. Ở mỗi đầu hộp được in đậm dòng chữ Phim tự tráng khiến gã phải sửng sốt. Tại sao mình chưa bao giờ nghe đến chuyện này trong các tạp chí chuyên ngành hóa học? Một qui trình mới...
“Có,” gã đáp, vẻ phân tâm, mắt nhìn vào nhãn hộp. Ở đáy hộp là dòng chữ in rõ nét Tập đoàn W. E. “Có, tôi mua.” Gã mò mẫm lấy ví ra, và đưa cho người đàn ông kia sáu tờ tiền nhàu nát. “Thứ này hoạt động ra sao?”
“Ông cho nó trở vào hộp.” Người đàn ông cầm tiền lên. Ông ta dường như đã nguôi lại, bớt phần nào hùng hổ.
“Cho trở vào hộp ư?”
“Cái hộp nhỏ đựng phim bên trong. Ông đặt phim trở lại khi nào chụp hết cuộn. Rồi ông nhấn một cái nút nhỏ ở đầu hộp. Có hướng dẫn đấy. Bên trong có hướng dẫn sử dụng. Ông nhấn cái nút nọ một lần, hoặc nhiều lần... tùy theo cái mà họ gọi là ‘độ nhạy sáng’. Toàn bộ phụ thuộc vào thứ đấy.”
“Ồ.” Gã đứng dậy, mặc cho cốc cà phê hẵng còn uống dở, và thận trọng đặt chiếc hộp vào túi áo khoác. Trong lúc ra cửa, gã hỏi người bán hàng, “Thứ này được bán bao lâu rồi?”
“Phim này à? Khoảng hai, ba tuần. Hoạt động tốt. Chúng tôi bán được nhiều.”
Gã đi bộ một mạch về nhà, kinh ngạc về cuộn phim. Làm thế nào lại có thứ tuyệt vời và thuận tiện đến thế? Ngơ ngẩn, gã lôi chiếc hộp ra khỏi túi, lấy đầu ngón tay cái cạy mở vỏ hộp. Bên trong là một hộp kim loại màu lam, phần đầu có nắp vặn gắn một cái nút màu đỏ. Gã mở nắp. Bọc trong tờ hướng dẫn sử dụng là một cuộn phim 35 mm trông có vẻ bình thường. Bên dưới hộp đựng, dưới cái nút, là một tấm lưới nhỏ. Gã lấy ngón cái sờ thử. Có vẻ như thứ ấy được làm bằng sứ.
Về đến nhà, gã lục được một chiếc máy ảnh Argus kiểu cổ từ một ngăn tủ. Rồi, trước khi lắp phim vào máy, gã kéo tấm phim ra khỏi cuộn tầm một bộ, cho phơi sáng, sau đó xé toạc phần phim ấy. Gã sờ lên đó và thấy bề mặt trơ trơ, không có cảm giác trơn bóng thông thường của lớp nhũ tương gelatin. Gã lắp phần phim còn lại vào chiếc máy ảnh, chọn tốc độ màn trập nhanh, chụp tùy ý mấy kiểu ảnh chỗ bức tường, máy tản nhiệt, chồng tiểu luận trên bàn, chụp với ISO 800 trong ánh sáng lờ mờ. Chụp xong, gã tráng cuộn phim trong hộp đựng, nhấn nút tám lần và mở ra, vừa làm vừa ngửi chiếc hộp ấy. Từ đó tỏa ra một làn khí mỏng màu lam có mùi hăng hắc, không nhận ra được là mùi gì. Không có chất lỏng nào trong hộp đựng. Tráng phim bằng khí ư? Gã vội vàng lấy cuộn phim ra, kéo phim khỏi vỏ cuộn và giơ lên chỗ ánh sáng, gã trông thấy một dải phim trong mờ hoàn hảo, với chi tiết và màu sắc sống động như thật, tuyệt diệu. Gã huýt sáo to và thốt lên: “Mẹ kiếp.” Rồi gã cầm lên mảnh phim trống không, cùng dải phim trong mờ, và đi vào nhà bếp với hai thứ ấy. Gã bắt tay vào chuẩn bị các vật liệu để làm thí nghiệm phân tích nhanh, sắp xếp những hàng cốc chia vạch, lấy ra dụng cụ chuẩn độ. Gã phát hiện chính mình làm việc say sưa, sốt sắng, không có thì giờ để tự hỏi điều gì đã khiến gã điên cuồng tò mò về món đồ ấy đến vậy. Có điều gì đó về thứ này quấy quả tâm trí gã, nhưng gã lờ đi... gã quá bận rộn...
* * *
Năm tiếng đồng hồ sau, vào lúc sáu giờ sáng, bên ngoài cửa sổ là bầu trời xám xịt và ríu rít tiếng chim, gã ngả lưng xuống chiếc ghế trong bếp, mệt lử, tay cầm một mảnh phim. Gã vẫn chưa thử hết mọi cách với thứ phim ấy, nhưng gã đã thử đủ để biết rằng không có hóa chất nhiếp ảnh thông thường nào, không có thứ muối bạc nào trên tấm phim ấy cả. Gã ngồi xuống, mắt đỏ vằn, thất thần trong vài phút. Rồi gã đứng dậy, bước đi với sự mỏi mệt cực độ về phòng ngủ và gần như mê man ngã lên chiếc giường vẫn còn chưa trải. Trước khi chìm vào giấc ngủ, trên người còn nguyên quần áo, bên ngoài cửa sổ là tiếng chim ồn ã và vầng dương đang mọc trên nền trời, gã nói to, giọng cộc cằn và chua chát: “Ắt là một kĩ thuật hoàn toàn mới... ai đó đang đào bới kĩ thuật khoa học trong các tàn tích của dân Maya... hoặc đến từ một hành tinh nào khác...”