⚝ 2 ⚝
Đôi khi y có cảm giác mình như sắp hóa điên theo cách thường thấy ở con người, dẫu rằng về mặt lý thuyết, điều đó chẳng bao giờ có thể xảy đến với một người Anthea. Y không hiểu chuyện gì đã và đang diễn ra với mình. Họ đã giúp y chuẩn bị sẵn sàng để đương đầu với những khó khăn phi thường trong sứ mệnh của y, và y được chọn để thực thi sứ mệnh ấy bởi có sức mạnh thể chất và khả năng thích nghi. Ngay từ đầu, y biết mình có thể thất bại theo nhiều cách khác nhau, rằng toàn bộ việc này là một sự mạo hiểm quá lớn, kế hoạch ngông cuồng của một chủng tộc đã lâm vào đường cùng, và y đã chuẩn bị tinh thần đón nhận thất bại. Nhưng y lại không chuẩn bị cho những gì thực sự xảy đến. Kế hoạch diễn ra rất suôn sẻ - việc kinh doanh đem lại một số tiền khổng lồ, việc khởi sự đóng con tàu hầu như không gặp khó khăn gì, không một ai nhìn ra bản chất thật sự của y (dù y tin rằng nhiều người đã và vẫn còn nghi ngờ), cơ hội thành công giờ đã nằm trong tầm tay. Thế mà y, một người Anthea, sinh vật siêu việt thuộc một chủng tộc siêu việt, lại đang dần đánh mất khả năng kiểm soát, trở thành một kẻ suy đồi, một bợm rượu, sinh vật lạc lối và ngu ngốc, kẻ phản bội, và có thể là một kẻ bội ước.
Có đôi lúc y đổ lỗi cho Betty Jo vì điều đó, vì sự yếu đuối của chính y khi đối diện với thế giới này. Cách nghĩ ấy cho thấy y càng ngày càng giống một con người biết chừng nào! Y trách cô khiến y dần đồng hóa với nhân loại, trở nên bị ám ảnh bởi những tội lỗi mơ hồ và những mối nghi hoặc thậm chí còn mơ hồ hơn thế. Cô dạy y uống rượu gin; cô cho y thấy một khía cạnh của con người, mạnh mẽ và tự tại, ưa khoái lạc và thiếu suy nghĩ, khía cạnh mà quá trình mười lăm năm nghiên cứu qua truyền hình không giúp y nhìn thấu. Cô cho y thấy thứ men say mơ màng của sức sống mà người Anthea, dẫu có kinh qua cuộc đời bất tận và sở hữu trí thông minh tuyệt đỉnh, có thể sẽ chẳng bao giờ biết đến hoặc mơ về. Y thấy mình giống như một người được vây quanh bởi những con vật khá dễ mến, ngốc nghếch và tương đối thông minh, để rồi dần dần phát hiện ra những khái niệm và mối quan hệ của chúng phức tạp hơn so với những gì anh ta được học. Và người đó có thể sẽ hiểu ra rằng, một trí tuệ thông minh khi nhìn nhận hoặc đánh giá về một hoặc nhiều khía cạnh cũng có thể thấy, những con vật xung quanh anh ta, những kẻ ăn đâu phá đấy, có lẽ còn hạnh phúc và khôn ngoan hơn chính bản thân anh ta.
Hay chỉ đơn giản là một người sống chung với động vật trong thời gian dài sẽ thành ra giống động vật hơn con người? Nhưng cách nghĩ này không công bằng, không đúng. Y và loài người có chung một tổ tiên gần gũi hơn so với mối quan hệ thông thường giữa các họ động vật có vú và sinh vật có lông nói chung. Cả y và con người đều là những sinh vật biết suy nghĩ, khá lý trí, có khả năng tư duy thấu đáo, biết dự đoán, mang trong mình những cảm xúc được gọi tên một cách chung chung là tình yêu, thương hại, sùng kính. Và, y nhận ra một đặc điểm nữa, đó là cả hai chủng tộc đều có khả năng say rượu.
Người Anthea không quá xa lạ với rượu, mặc dù đường và chất béo chỉ đóng một vai trò rất nhỏ trong hệ sinh thái của thế giới ấy. Có một loại quả mọng vị ngọt đôi khi được dùng để làm ra một loại rượu nhẹ, tất nhiên rượu nguyên chất có thể được tổng hợp một cách tương đối dễ dàng, và thi thoảng cũng có người Anthea uống say. Nhưng ở đó không có thói quen uống rượu đều đặn, không có thứ gì gọi là người Anthea nghiện rượu. Cả đời y chưa bao giờ nghe nói bất kì ai ở Anthea uống rượu theo cách giống như y ở Trái Đất: Giờ thì đều đặn, ngày nào cũng uống.
Y không say rượu theo kiểu của con người, hoặc ít nhất y nghĩ rằng không giống thế. Y không bao giờ muốn uống đến mất cả tri giác, đến mức cuồng hoan, hoặc cảm giác như sánh vai cùng thánh thần. Y chỉ muốn được giải tỏa, dẫu giải tỏa điều gì thì y cũng không rõ. Y không phải chịu cảm giác váng vất sau cơn say, bất kể uống bao nhiêu đi chăng nữa. Phần lớn thời gian y sống trong cô độc. Có lẽ khó mà không uống cho được.
Sau khi cử Brinnarde chở Bryce về, y bước vào phòng khách chưa bao giờ được sử dụng trong nhà và lặng thinh đứng đó khoảng một phút, tận hưởng không khí mát mẻ cùng sự âm u tĩnh lặng của căn phòng. Một con trong đàn mèo uể oải đứng dậy khỏi sô pha, vươn vai duỗi mình, tiến đến bên y và bắt đầu dụi vào chân y, kêu gừ gừ. Y âu yếm nhìn nó. Tới giờ y đã trở thành người yêu mèo. Ở chúng có nét gì đó khiến y nhớ đến Anthea, mặc dù xứ sở của y không có loài vật nào giống như thế. Nhưng loài mèo dường như cũng chẳng thuộc về thế giới này.
Betty Jo đi từ bếp vào phòng khách, vẫn mặc nguyên chiếc tạp dề. Cô lặng lẽ nhìn y giây lát bằng ánh mắt dịu dàng, rồi gọi: “Tommy?”
“Có chuyện gì vậy?”
“Tommy này, ông Farnsworth ở New York gọi điện cho anh đấy. Những hai lần.”
Y nhún vai. “Giờ thì hầu như ngày nào ông ta chẳng gọi, đúng không?”
“Đúng.” Cô khẽ mỉm cười. “Dù sao, ông ta nói có chuyện quan trọng và muốn anh gọi lại cho ông ta càng sớm càng tốt.”
Y biết rõ Farnsworth đang gặp vài vấn đề, nhưng chuyện đó phải để sau. Giờ y chưa có lòng dạ nào xử lí. Y xem đồng hồ đeo tay. Đã gần năm giờ rồi. “Cô dặn Brinnarde liên lạc với ông ta lúc tám giờ. Nếu Oliver lại gọi đến thì cứ bảo tôi đang bận, tám giờ tôi sẽ gọi trao đổi với ông ta.”
“Được rồi.” Cô ngần ngừ chốc lát rồi hỏi: “Anh có muốn tôi ngồi cùng không? Và nói chuyện với nhau một chút?”
Y nhận thấy nét mặt cô, nét mặt chan chứa hi vọng mà y biết điều đó có nghĩa là cô cần y làm người bầu bạn cũng như y cần cô. Họ đã trở thành những người đồng hành kì lạ của nhau! Vậy nhưng, dù biết cô cũng cô đơn như y, có chung cảm giác lạc lõng giống y, đến giờ phút này y vẫn cảm thấy không thể trao cho cô quyền được ngồi với mình trong im lặng. Y cố mỉm cười thân ái hết mức. “Xin lỗi, Betty Jo. Tôi cần chút thời gian riêng.” Nụ cười máy móc ấy ngày càng trở nên khó khăn biết bao!
“Được thôi, Tommy.” Cô nói, rồi quay người đi quá nhanh. “Tôi vào bếp đây.” Đi đến ngưỡng cửa, cô ngoái lại nhìn y. “Khi nào muốn dùng bữa tối thì anh gọi nhé, để tôi mang lên.”
“Ừ.” Y bước đến cầu thang và quyết định lên lầu bằng chiếc ghế leo cầu thang nhỏ đã mấy tuần nay y không dùng. Cảm giác mệt mỏi rã rời bắt đầu kéo đến. Khi y ngồi xuống, một con mèo nhảy tót lên lòng y, và bằng một cái rùng mình lạ lẫm, y gạt phắt nó ra. Con mèo đáp xuống sàn không một tiếng động, rũ người một cái rồi ung dung bỏ đi, không thèm quay lại nhìn y. Thấy vậy y nhủ thầm: Phải chăng mi mới là giống loài thông minh trên hành tinh này. Mà có khi đúng là thế thật, y nghĩ, với nụ cười có phần chua chát.
Có lần, cách đây hơn một năm, y nói với Farnsworth rằng y bắt đầu quan tâm tới âm nhạc. Điều này chỉ đúng một phần, vì những giai điệu và hệ thống âm sắc trong âm nhạc của con người luôn khiến y cảm thấy có chút khó chịu. Tuy nhiên, y dần quan tâm đến khía cạnh lịch sử của âm nhạc, bởi y có niềm hứng thú của một sử gia đối với gần như tất cả các lĩnh vực trong văn hóa dân gian và nghệ thuật của con người - niềm yêu thích được vun đắp bằng nhiều năm nghiên cứu qua truyền hình và tiếp nối bằng những đêm dài miệt mài đọc sách khi ở Trái Đất. Không lâu sau lần đề cập tình cờ đó của y, Farnsworth đã giới thiệu hệ thống loa bát âm với độ chính xác tuyệt vời - trong đó có vài cấu phần được sản xuất dựa theo sáng chế của Tập đoàn World Enterprises - cùng các thiết bị cần thiết khác như bộ khuếch đại, bộ nguồn và những thứ tương tự. Ba người đàn ông có bằng thạc sĩ kĩ thuật điện đã lắp ghép hệ thống loa trong thư phòng cho y. Việc đó đúng là phiền phức, nhưng y không muốn làm tổn thương lòng thành của Farnsworth. Họ bố trí tất cả các nút điều khiển trên một tấm bảng bằng đồng thau - dù y thích dùng chất liệu khác đỡ khô khan hơn, như gốm hoặc sứ được trang trí tinh xảo chẳng hạn - tấm bảng ấy được đặt ở một đầu của tủ sách. Farnsworth cũng tặng y một máy phát nhạc tự động gồm năm trăm bản thu âm, tất cả đều được ghi trên những trái cầu nhỏ bằng thép mà Tập đoàn World Enterprises giữ bằng sáng chế và nhờ đó công ty đã kiếm được ít nhất hai mươi triệu đô la. Khi ta nhấn nút, một trái cầu có kích thước bằng hạt đậu được thả vào vị trí trong đầu máy. Cấu trúc phân tử của nó được quét bằng một máy quét siêu nhỏ với tốc độ chậm, và các vết khắc trên đó được chuyển đổi thành âm thanh của dàn nhạc, ban nhạc, nghệ sĩ guitar, hoặc tiếng hát. Newton hầu như không bao giờ chơi nhạc. Y đã thử nghe một số bản giao hưởng và tứ tấu trước sự nài nỉ của Farnsworth, nhưng chúng hầu như chẳng đem lại cho y cảm giác gì. Thật kì lạ khi y không thấy được ý nghĩa của âm nhạc. Một số loại hình nghệ thuật khác, dù bị truyền hình Chủ Nhật (loại truyền hình buồn tẻ và giả tạo nhất) xem thường và hiểu sai, vẫn có thể khiến y xúc động sâu sắc - nhất là điêu khắc và hội họa. Có lẽ y nhìn nhận nhiều thứ theo cách con người thường nhìn, nhưng không nghe được theo cách họ thường nghe.
Khi y bước vào phòng, tâm trí vẫn miên man nghĩ đến lũ mèo và con người, một thôi thúc bất ngờ trỗi dậy khiến y quyết định bật nhạc lên. Y nhấn nút chơi bản giao hưởng của Haydn mà Farnsworth khuyên nghe thử. Vài giây sau âm thanh vang lên, nghe như một thứ quân nhạc đầy chi li, tiểu tiết, y không thấy được một qui luật lô-gic hay thẩm mĩ nào trong đó. Cảm giác cứ như một người Mĩ nghe nhạc Trung Quốc. Y lấy chai rượu gin trên kệ, rót cho mình một ly và uống luôn không pha, cố gắng dõi theo bản nhạc. Y đang định ngồi xuống sô pha thì đột nhiên tiếng gõ cửa vang lên. Giật mình, y đánh rơi chiếc ly. Nó vỡ tan dưới chân y. Lần đầu tiên trong đời, y hét lớn: “Chuyện quái quỉ gì nữa đây?” Y đã trở nên giống với con người đến mức nào rồi?
Giọng nói sợ sệt của Betty Jo vang lên sau cánh cửa: “Ông Farnsworth vừa gọi lại cho anh, Tommy ạ. Ông ta cứ nằng nặc đòi gặp. Ông ta bắt tôi đi nói với anh...”
Giọng y đã dịu xuống nhưng cơn giận vẫn còn đó. “Cô từ chối ông ta đi. Cứ bảo sang ngày mai tôi mới có thể tiếp khách được. Giờ tôi không muốn nói chuyện với ai hết.”
Một phút trôi qua trong câm lặng. Y đăm đăm nhìn mảnh thủy tinh vỡ dưới sàn, rồi lấy chân đá mấy mảnh khác to hơn xuống dưới gầm sô pha. Sau đó giọng Betty Jo vang lên: “Tôi biết rồi, Tommy. Tôi sẽ báo lại với ông ấy.” Cô ngập ngừng. “Giờ anh nghỉ ngơi đi nhé, Tommy. Được chứ?”
“Được, tôi biết rồi.” Y đáp.
Y nghe thấy tiếng chân cô đi xa dần ngoài cửa. Y tiến đến chỗ tủ sách. Chẳng còn chiếc ly nào nữa. Y đang định gọi Betty Jo thì ngừng lại, thay vào đó cầm lấy cái chai gần như đầy nguyên, mở nắp ra, rồi cứ thế đưa lên miệng uống. Y tắt nhạc Haydn đi, y làm sao hiểu nổi thứ nhạc này kia chứ, và chuyển sang bộ sưu tập dân ca, những ca khúc của người da đen, nhạc của người Gullah 24 . Ít ra trong ca từ của những bài hát đó còn có đôi điều y có thể hiểu được.
Một giọng trầm ấm và uể oải vang lên trong loa:
Cứ mỗi khi tôi ghé nhà dì Lulu
Chú chó già lại lao tới táp tôi
Cứ lần nào tôi qua thăm dì Sally
Cậu chó bun lại đớp tôi một nhát...
Y nở nụ cười trầm tư, lời bài hát ấy dường như đã chạm tới điều gì đó trong y. Y ngồi xuống sô pha, tay vẫn cầm chiếc chai. Y nghĩ đến Nathan Bryce và cuộc trò chuyện giữa họ hồi chiều.
Ngay từ buổi gặp đầu tiên y đã có cảm giác Bryce nghi ngờ mình. Việc vị chuyên gia hóa học ấy một mực yêu cầu phỏng vấn y đã phần nào cho thấy điều đó. Y đã điều tra rất kĩ càng để có thể chắc chắn rằng Bryce không đại diện cho bất cứ ai ngoài chính bản thân gã, rằng gã không làm việc cho FBI giống như ít nhất là hai trong số các công nhân ở công trường chế tạo tên lửa, và cũng không làm cho bất cứ cơ quan công quyền nào. Thế nhưng, nếu Bryce bằng cách nào đó đã nảy sinh mối ngờ vực đối với y và những mục đích của y - như Farnsworth và có lẽ là vài người khác nữa chắc chắn đang nghi ngờ - thì tại sao y, Newton, lại phải tốn bao công sức để có được cuộc chuyện trò thân mật với gã vào buổi chiều như thế? Và tại sao y lại ngầm phát đi những thông điệp cho thấy bản chất của y, nói về nào là chiến tranh, nào là cuộc Tái lâm, rồi còn tự xưng là Rumplestiltskin - thần lùn độc ác không rõ từ đâu xuất hiện, xe rơm thành vàng và cứu mạng nàng công chúa bằng những tri thức chưa ai từng nghe nói, kẻ lạ mặt với mục đích tối thượng là cướp đi đứa con nhỏ của công chúa? Cách duy nhất để đánh bại Rumplestiltskin là lật tẩy danh tính của hắn, gọi đúng tên hắn.
Có đôi khi tôi thấy mình như em bé không mẹ
Có đôi lúc tôi thấy mình như đứa trẻ mồ côi
Vinh quang thay, Hallelujah!
Một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu y, tại sao Rumplestiltskin lại trao cho công chúa cơ hội giành phần thắng trong giao kèo với hắn? Tại sao hắn lại trì hoãn, cho nàng ta ba ngày suy nghĩ để tìm ra tên hắn? Liệu có đơn giản chỉ là do hắn tự tin thái quá, vì trên đời làm gì có ai tưởng tượng hoặc đoán ra được một cái tên như thế? Hay thực ra hắn muốn người ta tìm ra hắn, tóm được hắn, tước đi mục đích của những trò lừa lọc và ma thuật của hắn? Về phần y, Thomas Jerome Newton, người nắm trong tay những trò lừa lọc và những ma thuật còn to tát hơn bất cứ phù thủy hay tiểu tiên nào trong truyện cổ tích, những câu chuyện y đều đã đọc qua, giờ đây liệu y có muốn người ta tìm ra, tóm được y không?
Người đàn ông ấy tìm đến nhà tôi
Người nói người không thích tôi
Người tới đây, đứng trước cửa nhà tôi
Thà Người nói người không thương tôi.
“Tại sao mình lại muốn người ta tìm ra mình chứ?” Newton thầm nghĩ với chai rượu trong tay. Y nhìn chằm chằm nhãn chai, một cảm giác lạ lùng, chuếnh choáng trỗi dậy. Tiếng nhạc đột ngột kết thúc. Một thoáng tĩnh lặng trôi qua trong lúc trái cầu khác lăn vào vị trí. Y uống một hơi rượu dài mãnh liệt. Thế rồi từ dàn loa, tiếng nhạc giao hưởng bùng nổ, dội thẳng vào tai y.
Y uể oải đứng dậy và chớp mắt. Y cảm thấy sức lực cạn kiệt, dường như y chưa từng mệt đến thế kể từ cái ngày cách đây đã nhiều năm, khi y đổ bệnh nằm lăn ra trên cánh đồng trơ trọi tháng Mười Một, nỗi sợ hãi và cô độc bủa vây. Y tiến lại bảng điều khiển để tắt nhạc. Rồi y tới chỗ điều khiển ti vi và bật lên, biết đâu có bộ phim Viễn Tây nào đó...
Trên màn hình, hình ảnh con diệc cỡ lớn trên khoảng tường phía xa bắt đầu tan biến. Thay vào đó là cái đầu của một người đàn ông điển trai, cặp mắt ánh lên vẻ nghiêm túc giả tạo thường thấy ở đám chính khách, những kẻ chữa bệnh bằng đức tin và những người truyền giáo. Cặp môi mấp máy trong câm lặng, còn đôi mắt vẫn đăm đăm nhìn.
Newton cho tăng âm lượng. Cái đầu giờ đã có thể cất tiếng nói: “... Hoa Kì với tư cách là một quốc gia tự do và độc lập, chúng ta phải sẵn sàng vượt qua thử thách như những người đàn ông, sau lưng chúng ta là thế giới tự do, phải sẵn sàng đối mặt với những thách thức, hi vọng và nỗi sợ của thế giới. Chúng ta phải nhớ rằng, cho dù những thành phần thiếu hiểu biết có tìm cách xuyên tạc đến đâu đi nữa, Hoa Kì không phải là cường quốc hạng hai. Chúng ta phải nhớ rằng, tự do sẽ chiến thắng, ta phải...”
Đột nhiên Newton nhận ra người đàn ông đang phát biểu chính là tổng thống Hoa Kì, và ông ta dùng những lời lẽ khoa trương để nói về sự vô vọng. Y xoay công tắc. Khung cảnh phòng ngủ hiện ra trên màn hình. Một đôi nam nữ mặc đồ ngủ đang nói với nhau những lời bông đùa khêu gợi nhàm chán. Y lại xoay công tắc, hi vọng tìm được một bộ phim Viễn Tây. Y thích phim Viễn Tây. Nhưng xuất hiện trên ti vi là một chương trình tuyên truyền do chính phủ tài trợ, nói về những đức tính quí báu và sức mạnh của người Mĩ. Nào là hình ảnh về những nhà thờ trắng ở New England, những người làm việc ở nông trại - trong mỗi nhóm luôn có một người da đen tươi cười - và những cây phong. Các chương trình kiểu này gần đây dường như ngày càng phổ biến, và giống như rất nhiều tạp chí nổi tiếng, ngày càng chạy theo chủ nghĩa sô-vanh rõ rệt. Hơn bao giờ hết họ tin vào lời nói dối tuyệt diệu rằng Mĩ là quốc gia của những thị trấn nhỏ kính Chúa, những thành phố năng suất, những người nông dân khỏe mạnh, những bác sĩ nhân từ, những bà nội trợ hoang mang, những triệu phú giàu lòng từ thiện.
“Chúa ơi!” Y nói to. “Chúa ơi, các người đúng là một đám tín đồ tự thán, sợ sệt của chủ nghĩa khoái lạc. Quân dối trá! Lũ sô-vanh! Hạng ngu dốt!”
Y lại xoay công tắc và cảnh hộp đêm xuất hiện trên màn hình với nhạc nền du dương êm ái. Y để chương trình tiếp tục phát, quan sát chuyển động của đám người trên sàn nhảy, đàn ông và phụ nữ ăn vận như những con công, ôm ấp nhau trong vòng tay giữa tiếng nhạc.
Vậy mình là gì, y thầm nghĩ, nếu không phải một tín đồ tự thán, sợ sệt của chủ nghĩa khoái lạc? Y uống hết chai rượu gin rồi liếc xuống đôi tay đang cầm cái chai, quan sát bộ móng giả óng ánh như những đồng xu mờ đục dưới ánh sáng lập lòe từ màn hình ti vi. Y cứ nhìn mãi trong vài phút, như thể đây là lần đầu tiên thấy chúng.
Sau đó y đứng dậy, run rẩy bước tới chỗ tủ quần áo. Y lấy từ trên kệ xuống một cái hộp có kích thước tương đương hộp đựng giày. Mặt trong cửa tủ có gắn một tấm gương soi toàn thân. Y nhìn mình trong gương, ngắm nghía vóc dáng cao gầy trong giây lát. Rồi y trở lại sô pha và đặt chiếc hộp lên bàn cà phê ốp đá cẩm thạch trước mặt. Y lấy từ trong hộp ra một chai nhựa nhỏ. Trên bàn có chiếc gạt tàn rỗng hình cái tô làm bằng sứ Trung Quốc, món quà của Farnsworth. Y đổ dung dịch trong chai vào gạt tàn, đặt chai xuống, nhúng đầu ngón của cả hai tay vào trong tô, như thể đó là tô nước rửa tay trong lúc dùng bữa. Y cứ ngâm như thế chừng một phút rồi bỏ ra và vỗ mạnh hai tay vào nhau. Những chiếc móng rơi xuống mặt bàn đá cẩm thạch, phát ra tiếng leng keng nho nhỏ. Các ngón tay y lúc này đã nhẵn nhụi, đầu ngón linh hoạt nhưng hơi đau.
Từ ti vi vọng đến tiếng nhạc Jazz với nhịp điệu ồn ào, dai dẳng.
Y đứng dậy, tiến tới cửa phòng và khóa lại. Sau đó, y quay lại chỗ cái hộp trên bàn, lấy từ bên trong ra một viên gì đó gần giống bông gòn, và nhúng nó vào tô dung dịch trong giây lát. Y nhận thấy tay mình đang run rẩy. Y cũng biết rằng mình đang say hơn bao giờ hết. Nhưng dường như vẫn chưa đủ.
Y đến trước gương và áp cái viên ẩm ướt ấy lên mỗi bên tai cho đến khi hai dái tai nhân tạo rơi ra. Y cởi áo sơ mi, bóc đi hai núm vú giả và đám lông trên ngực theo cách tương tự. Lông và núm vú được gắn vào một miếng mỏng xốp, khi gỡ cả hai bong ra cùng lúc. Y đặt chúng lên bàn cà phê. Quay lại gương, y bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của mình, mới đầu chỉ khe khẽ nhưng sau đó lớn dần. Để át đi tiếng nhạc Jazz từ ti vi, y đọc một bài thơ do chính mình viết khi còn trẻ. Âm thanh phát ra từ lưỡi y nghe không mấy rõ ràng. Hoặc y đã quá say, hoặc đã mất khả năng nói những âm gió trong tiếng Anthea. Tiếp đó, với hơi thở nặng nhọc, y lấy từ trong hộp ra một dụng cụ nhỏ giống như chiếc nhíp, rồi đứng trước gương, y cẩn thận gỡ bỏ lớp màng nhựa mỏng có màu trên mỗi bên mắt. Vừa chật vật đọc thơ, y vừa chớp cặp mắt có đôi đồng tử mở ra theo chiều dọc, giống như mắt mèo.
Y nhìn mình trong gương một lúc lâu, rồi bắt đầu khóc. Y không nức nở, nhưng những giọt lệ, giống hệt như nước mắt con người, ầng ậng dâng lên rồi lăn dài trên đôi gò má nhỏ. Nước mắt y cứ thế rơi trong tuyệt vọng.
Sau đó, y dõng dạc nói với chính mình bằng tiếng Anh: “Mi là ai? Mi thuộc về nơi nào?”
Cơ thể y trong gương nhìn chằm chằm đáp lại; nhưng y không còn nhận ra nó nữa. Đó là một thân xác xa lạ, và đáng sợ.
Y lấy cho mình một chai rượu khác. Tiếng nhạc đã kết thúc. Một phát thanh viên nói: “... Phòng khiêu vũ của khách sạn Seelbach tại trung tâm thành phố Louisville, trực tiếp gửi đến bạn thông qua Worldcolor: Các thước phim và dung dịch tráng rửa dành cho những điều tốt đẹp nhất trong nhiếp ảnh...”
Ánh mắt Newton không hướng về phía ti vi. Y đang mở rượu. Một giọng phụ nữ cất lên: “Để lưu giữ kỉ niệm về những ngày lễ sắp tới, những dấu ấn trẻ thơ, những bữa tiệc gia đình truyền thống vào Lễ Tạ ơn và Giáng Sinh, còn gì tuyệt vời hơn những bức ảnh màu Worldcolor, rạng ngời một sức sống...”
Còn ở đây, trên chiếc sô pha, Thomas Jerome Newton nằm đó, uống rượu, chai gin đã mở nắp, những ngón tay không móng run rẩy, đôi mắt mèo đờ đẫn đăm đăm nhìn lên trần nhà trong nỗi đau khổ cùng cực...