1988 Rumplestiltskin ⚝ 1 ⚝
Thu sang, những dãy núi quanh hồ hóa thành màu đỏ, cam, vàng, hòa với sắc nâu. Bầu trời lạnh lẽo hơn, nước hồ cũng xanh hơn, in bóng đó đây sắc màu của những tán cây trên núi. Khi gió thổi qua truyền đi gợn sóng lăn tăn, ánh đỏ và vàng lấp loáng trên mặt nước, những chiếc lá lại thi nhau trút xuống.
Từ ngưỡng cửa phòng thí nghiệm, Bryce thường đứng đó trầm tư dõi mắt sang bên kia hồ, nhìn về phía dãy núi, nơi ngôi nhà của T.J. Newton tọa lạc. Ngôi nhà ấy nằm cách tổ hợp công trình bằng nhôm và gỗ ép xây theo hình vòng cung, bao gồm cả phòng thí nghiệm này, chừng hơn một dặm. Phía bên kia vòng cung, khi mặt trời tỏa nắng rực rỡ, phần thân bóng bẩy của Con Tàu - hay Dự Án, hoặc Phương Tiện, bất kể nó được gọi là gì đi nữa - sáng lên lấp lánh. Đôi lúc, khối kim loại ánh bạc ấy khơi lên trong lòng Bryce một cảm xúc gần giống như tự hào; nhưng có lúc gã chỉ thấy trông nó thật kì quặc, chẳng khác nào bức tranh minh họa trong cuốn sách thiếu nhi về đề tài vũ trụ. Đôi lúc nó lại khiến gã sợ hãi. Gã có thể đứng đây, trên ngưỡng cửa này, nhìn thẳng qua mặt nước tới tận bờ hồ xa tít không người phía bên kia và ngắm nghía sự tương phản kì lạ của hai công trình ở hai đầu của khung cảnh như gã đã từng và vẫn thường làm. Phía bên phải là dinh thự cổ mang phong cách Victoria với những ô cửa sổ lồi, ốp ván gỗ trắng, những cây cột sừng sững vô dụng trên ba hàng hiên. Ngôi nhà được xây với thừa niềm kiêu hãnh nhưng thiếu thẩm mĩ của một nhà tư bản ngành thuốc lá, than hoặc gỗ nào đó, con người vô danh đã qua đời từ hơn một thế kỉ trước; còn bên trái là công trình vị lai, mộc mạc và chân phương nhất: Tàu không gian. Một con tàu không gian ngự tại miền quê Kentucky, xung quanh là những dãy núi đang ngập tràn sắc Thu, thuộc về người đàn ông sống trong một dinh thự cùng một nữ quản gia thích rượu chè, một thư kí người Pháp, bầu bạn với đám vẹt, những bức tranh và đàn mèo. Ngăn cách giữa con tàu và ngôi nhà ấy là hồ nước, là những dãy núi. Là chính Bryce, và bầu trời.
Vào một buổi sáng tháng Mười Một, khi vẻ nghiêm túc xen lẫn nét trẻ trung của một trong những trợ lí phòng thí nghiệm khiến Bryce chợt dậy lên chút chán nản xưa cũ đối với công việc nghiên cứu khoa học và những người trẻ tuổi trong ngành này, gã đến bên ngưỡng cửa và dành ra vài phút ngắm nhìn khung cảnh quen thuộc. Đột ngột, gã quyết định đi dạo. Trước đây, gã chưa bao giờ có ý đi dạo quanh hồ. Chẳng có lí do gì để không đi dạo cả.
Thời tiết bên ngoài khá lạnh, trong thoáng chốc, Bryce đã định quay về phòng thí nghiệm lấy áo khoác. Nhưng mặt trời đang tỏa nắng ấm áp, cái nắng ôn hòa của buổi sáng tháng Mười Một, và bằng cách đi men theo bờ hồ, tránh bóng cây, gã cảm thấy khá dễ chịu. Gã đi về phía dinh thự, tránh xa công trường và con tàu không gian. Gã mặc chiếc áo sơ mi dạ mỏng kẻ ca rô đã bạc màu, món quà mà người vợ quá cố tặng gã từ mười năm trước. Đi được một dặm, gã buộc phải xắn tay áo lên đến khuỷu, do sức nóng từ cơ thể, tấm áo bắt đầu làm gã ngứa ngáy. Dưới ánh mặt trời, hai cẳng tay gầy guộc, trắng trẻo và lông lá của gã trông nhợt nhạt khủng khiếp, cánh tay của một lão già. Mặt đất dưới chân gã toàn là sỏi, điểm xuyết những bụi cỏ đó đây. Trên đường đi, gã nhác thấy mấy con sóc và một con thỏ. Gã còn thấy một con cá tung mình lên khỏi mặt hồ. Gã đi qua vài tòa nhà và một xưởng cơ khí, vài người vẫy chào. Một người gọi tên gã nhưng gã không nhận ra. Bryce chỉ mỉm cười đáp lễ và vẫy chào. Gã bước chậm lại, để mặc cho tâm trí miên man trôi vô định. Một lần gã dừng lại, nhặt lấy vài viên đá dẹt để lia trên mặt hồ nhưng chỉ có thể khiến một viên nảy lên được một lần. Những viên khác ném không chính xác nên chìm nghỉm ngay khi vừa chạm xuống nước. Gã lắc đầu nhìn chúng, cảm thấy ngu ngốc. Trên cao, một đàn chim sải cánh bay qua bầu trời không tiếng động. Gã lại tiếp tục lên đường.
Gần trưa, gã đi ngang qua ngôi nhà bề ngoài có vẻ cửa đóng then cài im im, nằm cách bờ hồ vài trăm bước chân. Gã ngước nhìn ô cửa sổ lồi ở tầng trên một lúc, nhưng chẳng thấy gì ngoài bầu trời in trên tấm kính. Đến lúc vầng mặt trời tháng Mười Một gần như thẳng đứng như thường thấy vào thời điểm này trong năm, gã đang dạo bước ở bờ hồ bên kia, nơi không có người cư ngụ. Cỏ và cỏ dại ở đây mọc dày hơn, ngoài ra còn cả cây bụi, các hoàng anh và vài khúc gỗ mục. Gã chợt nghĩ ở đây biết đâu có rắn, loài động vật gã không ưa, nhưng rồi gạt ý nghĩ ấy đi. Gã nhác thấy một con thằn lằn nằm bất động trên tảng đá, cặp mắt trong như thủy tinh. Bryce bỗng thấy bụng dạ cồn cào vì đói và băn khoăn tự hỏi nên làm gì đây. Khi đã thấm mệt, gã ngồi xuống khúc gỗ ở mép nước, cởi bớt cúc áo, dùng mùi soa lau gáy, rồi đăm đăm nhìn ra hồ. Trong giây lát, gã tưởng như mình là triết gia Henry Thoreau, ý nghĩ ấy khiến gã mỉm cười. Phần lớn con người sống đời tuyệt vọng trong câm lặng. Gã ngoái nhìn ngôi nhà giờ chỉ còn thấp thoáng sau rặng cây. Có người đang tiến về phía gã nhưng vẫn còn ở khá xa. Bryce chớp mắt dưới ánh nắng chói chang, chăm chú nhìn một lát, rồi dần dần nhận ra người đó là T.J. Newton. Gã tì cùi chỏ lên hai đầu gối và chờ đợi. Cảm giác hồi hộp dậy lên trong gã.
Trên cánh tay Newton có đeo một chiếc giỏ nhỏ. Y mặc áo sơ mi cộc tay màu trắng và quần âu màu xám nhạt. Y bước chậm rãi, thân hình cao ráo vươn thẳng, nhưng từng động tác vẫn toát lên nét duyên dáng, uyển chuyển. Cách đi đứng của y có điều gì đó lạ lùng không thể chỉ rõ, gợi cho Bryce nhớ đến người đồng tính đầu tiên gã từng gặp, từ cái hồi còn quá trẻ và chưa biết đến khái niệm đồng tính. Dáng đi của Newton không giống thế, nhưng cũng không giống với bất cứ ai khác. Bước chân y vừa nhẹ bẫng lại vừa trĩu nặng.
Khi đã đến gần trong tầm nghe, Newton nói: “Tôi có mang theo chút pho mát và rượu vang đây.” Y đeo cặp kính râm tối màu.
“Tốt quá.” Bryce đứng dậy. “Ông trông thấy tôi lúc tôi đi ngang qua nhà à?”
“Phải.” Khúc gỗ gã ngồi có dạng bán nguyệt và tương đối dài. Newton ngồi ở đầu bên kia, đặt chiếc giỏ dưới chân. Y rút ra một chai rượu và cái mở nút rồi chìa về phía Bryce. “Ông mở nhé?”
“Tôi sẽ cố.” Bryce đón lấy cái chai, nhận thấy cánh tay Newton cũng gầy guộc, trắng trẻo y như mình, nhưng không có lông. Ngón tay y rất dài và thon với những khớp nhỏ nhất gã từng thấy. Đôi tay ấy khẽ run rẩy khi Newton đưa chai rượu cho gã.
Đó là rượu vang Beaujolais. Bryce kẹp cái chai ướt lạnh giữa hai đầu gối và bắt đầu hì hục mở nút. Việc này gã khá thành thạo chứ không dở tệ như lia sỏi trên mặt nước. Gã rút chiếc nút ra với một tiếng bốp gọn lỏn đã tai ngay lần thử đầu tiên. Newton tiến lại gần, tay cầm hai chiếc cốc thủy tinh - không phải ly mà là cốc - và giơ ra để gã rót. “Cứ rót thoải mái đi,” y nói, cúi nhìn gã và mỉm cười. Vậy là gã rót gần đầy hai cốc. Giọng nói của Newton thật êm ái, chất thổ âm phảng phất nghe khá tự nhiên.
Rượu ngon tuyệt, mát và thơm trong cổ họng khô khốc của Bryce. Nó lập tức sưởi ấm dạ dày gã với chút khoái cảm tuyệt diệu xưa cũ, thứ khoái cảm ở cả thể xác lẫn tinh thần đã khiến rất nhiều đàn ông không ngừng theo đuổi, chính gã cũng lậm vào trong nhiều năm. Pho mát cheddar cứng, loại lâu năm và hơi bong tróc. Hai người lặng lẽ thưởng thức rượu và nhấm nháp pho mát trong vài phút. Họ ngồi dưới bóng râm, Bryce hạ tay áo xuống. Giờ không phải đi bộ nữa, gã lại thấy mát mẻ như trước. Gã tự hỏi sao Newton mặc bộ quần áo mỏng manh thế kia mà dường như lại không thấy lạnh. Trông y giống kiểu người ngồi bên đống lửa, quấn một chiếc khăn choàng - nhân vật mà George Arliss 19 từng thủ vai trong các bộ phim cũ: Gầy gò, xanh xao, máu lạnh. Nhưng ai biết được y là người như thế nào? Y có thể là một bá tước mang một phần dòng máu ngoại quốc trong bộ phim hài của Anh hoặc một Hamlet già; một nhà khoa học mất trí đang ủ mưu làm nổ tung thế giới; hay một Cortés 20 khiêm nhường, lặng lẽ xây thành trì bằng sức lao động của dân địa phương. Ví dụ về Cortés gợi gã nhớ lại một ý tưởng cũ chưa bao giờ thực sự lãng quên, rằng Newton có thể là người ngoài hành tinh. Lúc này đây, gần như điều gì cũng có thể là sự thật. Chẳng có gì nực cười khi cho rằng gã, Nathan Bryce, có thể đang uống rượu và ăn pho mát với một người Sao Hỏa. Tại sao không? Cortés đã chinh phạt Mexico với đội quân chỉ gồm bốn trăm người, liệu một người đàn ông Sao Hỏa có thể làm điều đó một mình? Việc này có vẻ khả thi, gã nghĩ thế trong lúc ngồi đây, rượu ngon trong dạ và nắng vàng trên mặt. Newton ngồi kế bên, nhỏ nhẻ ăn pho mát và nhấp rượu, tấm lưng thẳng tắp. Khi nhìn nghiêng, y có nét gì đó hao hao Ichabod Crane 21 . Làm sao gã dám chắc rằng nếu Newton đến từ Sao Hỏa thật thì y là người Sao Hỏa duy nhất trên Trái Đất? Tại sao trước đây gã không nghĩ đến điều này nhỉ? Tại sao không phải là bốn trăm người Sao Hỏa, hay bốn nghìn người? Gã quan sát Newton một lần nữa, y bắt gặp ánh mắt của gã và mỉm cười nghiêm nghị. Người Sao Hỏa ư? Y có lẽ là người Litva, hoặc đến từ Massachusetts thì đúng hơn.
Cảm thấy mình đã ngà ngà say - bao lâu rồi gã mới lại say rượu vào buổi trưa như thế này? Gã nhìn Newton bằng ánh mắt dò xét và hỏi: “Ông có phải là người Litva không?”
“Không.” Newton đang dõi mắt ngắm hồ nước, không ngoái lại khi nghe Bryce hỏi. Thế rồi y đột ngột nói: “Toàn bộ cái hồ này thuộc về tôi đấy. Tôi đã mua nó.”
“Tuyệt thật.” Bryce uống nốt cốc rượu của mình. Rượu trong chai cũng đã cạn.
“Một lượng nước khổng lồ.” Newton nói rồi quay sang gã. “Ông nghĩ là bao nhiêu?”
“Bao nhiêu nước ấy à?”
“Vâng.” Newton lơ đãng bẻ một mẩu pho mát và đưa lên miệng.
“Trời ạ. Làm sao tôi biết được. Năm triệu ga-lông chăng? Hay mười triệu?” Bryce bật cười. “Đến áng chừng lượng axit sunfuric trong một cái bình mà tôi còn làm không nổi nữa.” Gã nhìn ra mặt hồ. “Hai mươi triệu ga-lông chăng? Hừ, tôi cần gì phải biết điều đó chứ. Tôi là chuyên gia kĩ thuật cơ mà.” Rồi gã chợt nhớ lại tiếng tăm của Newton. “Nhưng ông thì khác. Ông biết mọi số liệu khoa học. Một số có thể không liên quan đến khoa học.”
“Làm gì có chuyện đó. Tôi chỉ là một... nhà phát minh. Nếu quả thực là như thế.” Newton ăn nốt miếng pho mát. “Tôi nghĩ tôi giống chuyên gia hơn ông đấy.”
“Trong lĩnh vực gì?”
Hồi lâu Newton không đáp. Rồi y nói: “Điều đó thật khó trả lời.” Y lại mỉm cười thần bí: “Ông có thích rượu gin nguyên chất không?”
“Không hẳn. Cũng có thể.”
“Tôi có một chai đây.” Newton cúi xuống cái giỏ dưới chân và lấy ra một chai rượu. Bryce bất ngờ phá lên cười. Gã không sao nhịn được - Ichabod Crane với một chai gin 750 ml trong giỏ đồ ăn trưa. Newton rót đầy một cốc cho gã, và một cốc cho mình. Đột nhiên y nói, tay vẫn cầm chai rượu: “Tôi uống nhiều quá rồi.”
“Ai cũng thế cả mà.” Bryce nếm thử cốc rượu. Gã không thích gin và luôn cảm thấy nó có vị như nước hoa. Tuy vậy, gã vẫn uống. Mấy khi có dịp được uống với ông chủ cơ chứ? Và có bao nhiêu ông chủ giống như Ichabod Crane - Hamlet - Cortés, vừa chân ướt chân ráo từ Sao Hỏa tới đây, chuẩn bị dùng tàu không gian để chinh phạt thế giới khi Thu sang? Lưng Bryce mỏi nhừ, gã từ từ trượt xuống bãi cỏ, dựa người vào khúc gỗ, chân chĩa về phía hồ nước. Ba mươi triệu ga-lông chăng? Gã nhấp một ngụm gin nữa rồi lôi từ trong túi ra bao thuốc lá bẹp dí, mời Newton một điếu. Newton vẫn đang yên vị trên khúc gỗ, từ chỗ ngồi thấp hơn bên dưới, Bryce thấy y dường như càng cao lớn, xa cách hơn bao giờ hết.
“Tôi từng có lần hút thuốc, cách đây khoảng một năm.” Newton nói. “Nó làm tôi ốm nặng.”
“Thế à?” Bryce rút một điếu thuốc trong bao. “Vậy ông có muốn tôi bỏ điếu này đi không?”
“Có.” Newton cúi nhìn ông. “Ông nghĩ, sắp tới liệu có xảy ra chiến tranh không?”
Bryce trầm ngâm nhìn điếu thuốc rồi búng về phía hồ. Điếu thuốc nổi lềnh bềnh trên mặt nước. “Chẳng phải giờ đang có ba cuộc chiến nổ ra rồi đó sao? Hay là bốn?”
“Ba. Ý tôi muốn nói tới chiến tranh liên quan đến các loại vũ khí hủy diệt. Hiện nay có chín quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân, ít nhất mười hai quốc gia sở hữu vũ khí sinh học. Theo ông, liệu bọn họ có dùng đến chúng không?”
Bryce nhấp một ngụm gin lớn. “Có thể. Chắc chắn rồi. Tôi cũng chẳng biết tại sao đến giờ chuyện đó vẫn chưa xảy ra nữa. Chẳng biết tại sao đến giờ chúng ta còn chưa uống đến chết. Hay yêu nhau đến chết.” Phương Tiện nằm bên kia hồ, đối diện với họ, nhưng rừng cây đã chắn mất tầm nhìn. Bryce giơ chiếc cốc về phía ấy và hỏi: “Thứ đó sau này có được dùng làm vũ khí không? Nếu có, thì ai sẽ cần đến?”
“Đó không phải vũ khí. Không hẳn thế.” Newton lúc này chắc là đã say rồi. “Tôi sẽ không nói cho ông biết nó dùng để làm gì.” Rồi y hỏi: “Còn bao lâu nữa?”
“Bao lâu nữa cái gì?” Bryce cũng cảm thấy đầu óc lâng lâng. Tốt thôi. Quả là buổi chiều tuyệt vời để uống say. Đã lâu lắm rồi gã mới tìm lại được cảm giác này.
“Bao lâu nữa thì cuộc đại chiến nổ ra? Cuộc chiến hủy diệt vạn vật ấy?”
“Tại sao lại không hủy diệt vạn vật chứ?” Bryce uống cạn cốc và với tay về phía cái giỏ để lấy chai rượu. “Biết đâu vạn vật cần bị hủy diệt.” Tay cầm cái chai, gã ngước nhìn Newton nhưng không thấy được khuôn mặt y do sấp bóng mặt trời. “Ông tới từ Sao Hỏa à?”
“Không. Theo ông, liệu có đến mười năm không? Tôi được dạy rằng ít nhất phải mất mười năm.”
“Ai lại đi dạy những thứ như thế chứ?” Gã rót cho mình một cốc đầy. “Chắc chỉ năm năm.”
“Như thế chưa đủ lâu.”
“Đủ lâu để làm gì?” Lúc này Bryce thấy vị của gin không còn quá tệ nữa, dẫu rượu trong cốc đã ấm lên rồi.
“Chưa đủ lâu.” Newton cúi xuống nhìn gã bằng ánh mắt buồn bã. “Nhưng cũng có thể ông nhầm.”
“Thôi được rồi, vậy thì ba năm. Ông đến từ Sao Kim à? Hay Sao Mộc? Hay Philadelphia?”
“Không.” Y nhún vai. “Tên tôi là Rumplestiltskin.”
“Rumplestiltskin gì cơ?”
Newton cúi xuống, cầm lấy chai gin từ tay Bryce và rót cho mình một cốc nữa. “Liệu có thể nào cuộc chiến sẽ không xảy ra?”
“Có thể. Nhưng cái gì ngăn được chuyện đó, hả ông Rumplestiltskin? Bản năng cao cả của con người à? Loài elf 22 thường sống trong hang động, ông có sống trong hang như vậy không, khi không thăm thú đó đây?”
“ Troll 23 mới sống trong hang động. Elf thì sống ở khắp nơi. Chúng có khả năng thích nghi ngay cả với những môi trường sống cực kì khắc nghiệt, như nơi này chẳng hạn.” Newton xua bàn tay run rẩy về phía hồ nước, làm rượu rớt ra áo sơ mi. “Tôi là một elf , Tiến sĩ Bryce ạ, tôi sống cô độc ở mọi nơi. Cô độc tuyệt đối ở khắp mọi nơi.” Y đăm đăm nhìn ra hồ.
Một đàn vịt lớn vừa đáp xuống mặt hồ cách họ nửa dặm, có lẽ những vị khách di trú đã sức cùng lực kiệt bèn dừng lại nghỉ chân trên đường tới phương Nam xa xôi. Trông chúng hệt như những trái bóng bay tí hon bập bềnh nổi trên mặt nước và cứ thế trôi đi, như thể không đủ sức tự bơi. “Nếu đến từ Sao Hỏa thì ông đúng là cô độc thật.” Bryce nói, chăm chú quan sát đàn vịt. Nếu đúng thế, Newton hẳn cũng giống như chú vịt lẻ loi trên mặt hồ, một vị khách sức cùng lực kiệt.
“Không nhất thiết phải như vậy.”
“Không nhất thiết gì cơ?”
“Phải đến từ Sao Hỏa ấy. Tôi nghĩ ông chắc hẳn cũng thường cảm thấy cô độc, Tiến sĩ Bryce ạ. Thấy mình như một kẻ lạc loài. Nhưng ông có đến từ Sao Hỏa không?”
“Tôi không nghĩ thế.”
“Hay là từ Philadelphia?”
Bryce bật cười. “Portsmouth, Ohio. Nơi đó cách xa chỗ này còn hơn cả Sao Hỏa ấy chứ.” Thế rồi, không một dấu hiệu báo trước, đàn vịt trên hồ bất chợt kêu lên những tiếng quàng quạc rối loạn. Thình lình, chúng cất cánh bay đi, mới đầu còn chưa theo hàng ngũ gì cả, sau đó tự sắp xếp thành một đội hình tàm tạm. Bryce nhìn đàn chim mất hút về phía rặng núi xa, càng lúc càng lên cao. Gã mơ màng nghĩ đến quá trình di trú của chim chóc, côn trùng và những loài động vật nhỏ, tất cả cùng nhau vượt qua những chặng đường xa xưa để tìm về mái nhà cũ, đến với cái chết mới đang chờ đợi chúng. Đàn vịt kia khơi lên trong gã một liên tưởng không dễ chịu gì lắm về phi đội tên lửa mà gã từng trông thấy trong ảnh bìa tạp chí cách đây nhiều năm. Một lần nữa nó khiến Bryce nghĩ đến thiết bị mà gã đang giúp người đàn ông bên cạnh mình xây dựng, con tàu đẹp đẽ mang hình hài tên lửa được cho là một phương tiện giúp ông ta khám phá, thí nghiệm, chụp ảnh... mà không hiểu sao lúc này đây, trong tâm trạng lâng lâng ngất ngư men rượu say dưới cái nắng chiều, gã không mảy may tin tưởng chút nào.
Newton lảo đảo đứng dậy và nói, “Chúng ta đi bộ về nhà tôi nhé. Rồi tôi bảo Brinnarde lái xe đưa ông về nếu ông đồng ý.”
“Đồng ý.” Bryce đứng dậy, phủi sạch lá bám trên quần áo và uống nốt cốc rượu gin. “Tôi say quá rồi, già quá rồi, không tự đi bộ về được.”
Hai người cùng nhau đi trong yên lặng, bước chân có chút loạng choạng. Nhưng khi gần đến nhà, Newton cất tiếng: “Tôi hi vọng là mười năm.”
“Tại sao lại mười năm?” Bryce hỏi. “Đến lúc ấy, vũ khí sẽ càng trở nên tinh vi. Chúng sẽ phá tan mọi thứ. Tất cả tan tành mây khói. Thậm chí ngay cả người Litva cũng tham chiến. Hoặc người Philadelphia.”
Newton cúi nhìn gã bằng ánh mắt kì lạ, Bryce thoáng có cảm giác bất an. “Nếu chúng ta có mười năm, biết đâu cuộc chiến sẽ không xảy ra. Biết đâu mọi chuyện sẽ không thể xảy ra.” Y nói.
“Điều gì ngăn được chuyện đó chứ? Đạo đức con người chắc? Hay là Chúa tái lâm?” Không hiểu sao gã không dám nhìn vào mắt Newton.
Lần đầu tiên Newton bật cười, tiếng cười khẽ khàng, vui vẻ. “Biết đâu Chúa sẽ tái lâm thật. Biết đâu đích thân Đấng Christ sẽ xuất hiện. Trong mười năm nữa.”
“Nếu có, tốt nhất ngài ấy nên lựa chọn đường đi nước bước cho cẩn thận.” Bryce đáp.
“Tôi nghĩ ngài ấy sẽ vẫn nhớ những chuyện xảy ra với mình lần trước.” Newton nói.
Brinnarde ra tận nơi đón họ. Thấy thế Bryce nhẹ cả người, vì gã bắt đầu cảm thấy đầu óc quay cuồng dưới cái nắng.
Gã nhờ Brinnarde đưa mình về thẳng nhà, không ghé qua phòng thí nghiệm. Trong lúc lái xe, Brinnarde dường như đã hỏi rất nhiều điều, tất cả đều được Bryce trả lời một cách mơ hồ. Lúc gã về đến nhà thì đã năm giờ chiều. Gã vào bếp, như mọi khi vẫn trông chẳng khác nào bãi chiến trường. Trên tường treo bức tranh Icarus rơi rụng mà gã mang về từ Iowa, trong bồn là bát đĩa ăn sáng chưa rửa. Bryce lấy từ trong tủ lạnh ra một cái đùi gà lạnh ngắt và cứ thế ăn, mệt mỏi lảo đảo đi về giường rồi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, cái đùi gà ăn dở vứt lăn lóc trên tủ đầu giường. Giấc ngủ ngập tràn mộng mị, tất cả đều hỗn loạn, nhiều giấc mơ liên quan đến những đàn chim trong đội hình rời rạc bay lượn trên bầu trời xanh giá lạnh...
Bryce thức dậy lúc bốn giờ sáng, đầu óc hoàn toàn tỉnh táo dẫu đang nằm trong bóng tối, miệng có vị khó chịu, đầu đau nhức nhối và vùng cổ đẫm mồ hôi vì chiếc cổ áo dày. Chân gã cảm giác như sưng lên do đi lại quá nhiều, cổ khát khô. Gã ngồi ở mép giường, nhìn chằm chằm vào mặt số phát sáng của chiếc đồng hồ trong vài phút, rụt rè đưa tay bật ngọn đèn đầu giường, nhắm mắt lại trước khi tiếng công tắc vang lên. Bryce đứng dậy, chớp mắt trong lúc băng qua phòng để vào phòng tắm, vặn vòi cho nước lạnh chảy đầy bồn, dùng cốc đánh răng hứng hai ly nước và uống cạn. Gã tắt vòi, bật đèn lên, và bắt đầu cởi cúc chiếc áo sơ mi ca rô ngột ngạt. Trong gương, gã trông thấy mảng da thịt trắng bóc bên dưới phần cổ chữ U của chiếc áo lót, rồi nhìn đi chỗ khác. Gã nhúng tay vào nước và cứ ngâm như thế một lúc, để cho cái lạnh kích thích máu huyết lưu thông ở cổ tay. Tiếp đến, gã vốc lấy nước dội vào gáy và lên mặt. Bryce lau người thật mạnh bằng chiếc khăn bông thô cứng, sau đó đánh răng, xua đi dư vị khó chịu trong miệng. Gã chải đầu, vào phòng ngủ tìm một chiếc áo sơ mi sạch sẽ - lần này là chiếc áo màu xanh da trời, nhưng không có bèo nhún ở đằng trước như kiểu áo cánh đàn ông thường diện.
Trong lúc làm tất cả những công việc ấy, tâm trí gã cứ vang lên câu nói quen thuộc: Xì tiền ra rồi tha hồ chọn.
Bryce chuẩn bị bữa sáng trong bếp, hòa một viên cà phê uống liền vào tách nước nóng và làm cho mình món trứng ốp la, thêm vào đó thật nhiều nấm thái lát đóng hộp. Gã khéo léo gập đôi quả trứng bằng chiếc thìa lật, xúc ra đĩa khi lòng đỏ còn ướt, đặt lên cái bàn nhựa cùng với tách cà phê và ngồi đó chậm rãi ăn, để cho cái dạ dày chứa đầy rượu gin bao bọc lấy chỗ thức ăn mềm một cách nhẹ nhàng nhất. Thức ăn tạm yên vị trong bụng và gã cảm thấy thoáng chút hài lòng vì không bị nôn dù chẳng ăn gì kể từ bữa sáng hôm qua ngoài rượu vang, pho mát và rượu gin nguyên chất. Gã rùng mình. Có lẽ ít nhất gã cũng nên dùng một vài viên PT mà người ta thường ăn những lúc không muốn bày vẽ nấu bữa tối đầy đủ. PT là protein tảo - quả là kinh khủng khi nghĩ đến việc phải nạp cái thứ váng gớm ghiếc vét từ ao hồ ấy vào người thay vì gan và hành tây. Nhưng có lẽ gã nên cân nhắc dùng chúng, bởi dân số ngày càng đông và những cơn bão bụi châu Á đã đẩy lũ Phát xít trở lại Trung Quốc, trở lại “thế giới tự do” của những kẻ độc tài, mị dân và chạy theo chủ nghĩa khoái lạc - điều đó khiến cho gan, hành tây, thịt bò và khoai tây ngày càng khó kiếm. Chỉ hai mươi năm nữa thôi, tất cả chúng ta sẽ ăn váng ao, dầu cá và carbohydrate trong bình chứa Erlenmeyer, gã vừa nghĩ vừa ăn nốt món trứng ốp la. Khi không còn đất nuôi gà, người ta sẽ cất trứng trong viện bảo tàng. Biết đâu sau này Bảo tàng Smithsonian sẽ có món trứng ốp la được bảo quản bằng nhựa. Bryce nhâm nhi tách cà phê trong đó có một phần là cà phê tổng hợp, ngẫm nghĩ về câu châm ngôn của các nhà sinh vật học, rằng con gà là phương thức để quả trứng tái sinh chính nó. Điều này khiến gã nghĩ, một ý nghĩ có phần u ám, rằng một nhà sinh vật học trẻ tuổi nào đó với mái tóc húi cua và chiếc quần dài đính bèo nhún có thể tìm ra cách khác hiệu quả hơn phương pháp tái sinh tự nhiên của quả trứng, loại bỏ hoàn toàn con gà. Nhưng nghĩ lại thì chắc gì đó là một anh chàng trẻ tuổi nào đó; T.J. Newton nhiều khả năng sẽ là người phát minh ra trứng navel - tương tự như loại cam navel đột biến - bọc trong lớp nhựa tươi sáng và được Tập đoàn World Enterprises đưa ra thị trường. Loại trứng có khả năng tự sinh sản, chỉ việc thả xuống ao là nó sẽ phát triển giống như chuỗi vòng cổ bằng hạt nhựa, mỗi ngày đẻ ra một quả trứng mới. Nhưng đẻ xong, quả trứng ấy sẽ chẳng biết kêu cục tác vẻ mãn nguyện, cũng như không bao giờ có thể nở ra một con gà trống bantam với dáng vẻ kiêu hãnh tuyệt đẹp, hay một con gà chọi, hay một cô gà mái ngốc nghếch cho con trẻ tha hồ đuổi bắt. Hoặc một bữa tối với món gà rán.
Uống xong tách cà phê, Bryce ngẩng lên và trông thấy Icarus rơi rụng , giờ đây gã biết ý nghĩa bức tranh đang dần hé lộ. Gã đặt tách xuống và nói lớn: “Đừng chơi đấu trí nữa, Bryce. Xì tiền ra rồi tha hồ chọn: Sao Hỏa hay Massachusetts?” Và, ánh mắt vẫn dán vào chân tay của chàng trai từ trên trời rơi xuống đại dương trong bức tranh yên bình ngự trên tường, gã thầm nghĩ, là bạn hay là thù? Gã tiếp tục nhìn bức tranh đăm đăm. Kẻ hủy diệt hay đấng cứu rỗi? Những lời Newton nói vẫn vang vọng trong đầu gã. “Biết đâu Chúa sẽ tái lâm thật.” Nhưng Icarus đã thất bại, bị mặt trời thiêu đốt và chết đuối dưới biển khơi, trong khi Daedalus, người bay không quá cao, đã trốn thoát khỏi hòn đảo cô độc. Tuy nhiên, ông ta làm vậy không phải để cứu thế giới. Thậm chí có khi là để phá hủy nó, vì ông ta phát minh ra cách bay lượn, và sự hủy diệt khi nó đến, sẽ đến từ không trung. Gã thầm nghĩ, Ánh sáng hạ thế từ không trung. Bệnh tật giáng xuống con. Cái chết giáng xuống con. Lạy Chúa, xin Người rủ lòng thương. Gã lắc đầu, cố giữ cho tâm trí không suy nghĩ vẩn vơ. Vấn đề bây giờ là Sao Hỏa hoặc Massachusetts, mọi thứ khác chỉ là thứ yếu. Bây giờ gã đã biết được những gì? Gã biết giọng nói của Newton, dáng vẻ, cách đi đứng của y. Gã biết những sản phẩm do trí tuệ y tạo nên, tất cả ngầm cho thấy đó là thứ công nghệ còn xa lạ hơn cả mô hình thiên văn Ptolemy. Gã biết những phép toán logarit phi thường đó, biết Newton ngà ngà say trong cả hai lần gặp gã, điều đó có thể cho thấy nỗi cô đơn đến cùng cực mà một người ngoài hành tinh có thể trải qua, hoặc cho thấy người đó không có khả năng chống chịu trước những tác động đến từ nền văn hóa anh ta sa vào. Nhưng say rượu ư, đó lại là một đặc điểm rất “người”, và nó đã triệt tiêu lí lẽ phản biện gã đặt ra. Người ngoài hành tinh chịu tác động của rượu theo cách giống như con người, điều đó chẳng phải khó tin lắm sao? Nhưng Newton chắc chắn phải là người - hoặc gần giống người. Các chất hóa học trong máu y hẳn phải giống như máu con người, y cũng có thể say rượu kia mà. Có điều, mọi thứ vẫn hợp lí hơn nếu gã đến từ Massachusetts. Hoặc Litva. Nhưng tại sao không thể là một người Sao Hỏa say rượu chứ? Chính Đấng Christ cũng uống rượu và ngài được phái xuống từ trời cao - một người biết uống rượu, dân Pharisêu kể lại như thế. Một người biết uống rượu đến từ ngoài không gian. Tại sao đầu óc gã cứ không ngừng rời xa điểm cốt yếu như vậy? Cortés đã được ban rượu tequila, có lẽ thế, và ông ta cũng là một Đấng tái lâm: Vị thần mắt xanh Quetzalcoatl đến để cứu rỗi những người nông dân Nam Mĩ khỏi người Aztec. Trong mười năm ư? Logarit cơ số mười hai. Và còn gì nữa? Còn điều gì nữa?