⚝ 4 ⚝
Khoảng thời gian chờ đợi ấy dài đằng đẵng. Bryce bắt đầu thấy đói bụng, gã cố ăn tạm chiếc bánh mì kẹp nhưng cuối cùng đành bỏ dở. Gã đi qua đi lại trong phòng, cầm cuốn tiểu thuyết trinh thám lên nhưng không sao tập trung đọc tiếp được. Cứ chốc chốc gã lại chạy vào bếp để kiểm tra vị trí đặt ống tia âm cực giấu trong ngăn kéo đựng bánh mì. Gã chợt nảy ra ý định bất ngờ, muốn xem thiết bị ấy liệu có hoạt động chính xác hay không, thế là gã bật công tắc, chờ cho máy khởi động, rồi nhấn nút phát chùm tia vô hình. Chùm tia sẽ chiếu xuyên qua tường, qua chiếc ghế, qua ống kính máy chụp và khiến tấm phim đặt trên giá đỡ ở trong bắt sáng. Nhưng vừa nhấn xong cái nút, gã lập tức thầm buông một tràng rủa sả chính mình, chỉ vì táy máy mà gã đã làm tấm phim bị phơi sáng.
Loay hoay mất hai mươi phút gã mới gỡ được tấm lưới chắn trước cửa thông khí và lấy máy chụp ra. Sau đó gã phải tháo tấm phim giờ đã chuyển sang màu hơi nâu vì bị phơi sáng theo đúng cách thức hoạt động của máy, thay bằng tấm khác có sẵn bên trong máy chụp. Thế rồi vừa toát mồ hôi hột vì lo sợ Newton có thể gõ cửa bất cứ lúc nào, gã vừa đặt lại máy chụp vào bên trong cửa thông khí, kiểm tra ống kính của máy, thận trọng xoay máy về phía cái ghế bằng đôi tay run rẩy, và lắp tấm lưới lại như cũ. Gã kiểm tra kĩ sao cho ống kính khớp với lỗ hổng trên lưới để không bị kim loại cản trở.
Tay áo đã xắn, Bryce đang rửa tay thì có tiếng gõ vang lên ở cửa chính. Gã bắt mình phải đi thật chậm rãi, cầm theo chiếc khăn lau ra mở cửa.
Đang đứng dưới trời tuyết, đeo kính râm và khoác tấm áo khoác mỏng là T. J. Newton. Y khẽ mỉm cười, nụ cười có nét gần như châm biếm, và khác với Betty Jo, trông y như không mảy may biết lạnh. Sao Hỏa, Bryce nghĩ thầm trong lúc nhường lối cho y vào, Sao Hỏa là hành tinh giá lạnh.
“Chào ông.” Newton lên tiếng. “Hi vọng tôi không chen ngang đúng lúc ông đang bận.”
Bryce cố giữ giọng bình tĩnh và ngạc nhiên khi thấy mình có thể làm được như thế. “Không hề. Tôi có bận gì đâu. Anh ngồi đi.” Gã ra hiệu về phía cái ghế kê trước cửa thông khí, trong lúc đó tâm trí gã chợt nghĩ đến Damocles và chiếc ngai với thanh gươm treo lơ lửng bên trên.
“Thôi, cảm ơn ông.” Newton đáp. “Tôi đã ngồi cả buổi sáng nay rồi.” Y cởi áo khoác và vắt lên lưng ghế. Bên trong, y vẫn mặc sơ mi cộc tay như mọi khi. Phần ống tay áo nhô lên khiến cánh tay y trông chẳng khác gì cái cán gắn vào tẩu thuốc.
“Để tôi mời anh một ly.” Nếu có rượu, biết đâu y sẽ chịu ngồi.
“Không cần đâu, cảm ơn ông. Tôi đang... cố tránh xa con ma men.” Newton bước tới chỗ bức tường bên kia, ngắm nghía bức tranh Bryce treo trên đó. Y đứng lặng hồi lâu, còn Bryce ra ghế ngồi. Rồi y nói: “Bức tranh thật tinh tế, Tiến sĩ Bryce ạ. Tác phẩm của Brueghel phải không?”
“Phải.” Dĩ nhiên nó là của Brueghel. Điều đó ai mà không biết. Sao Newton không chịu ngồi nhỉ? Bryce bắt đầu bẻ khớp ngón tay rồi ngừng lại. Newton lơ đãng phủi mấy giọt nước do tuyết tan đọng trên mái tóc. Y mà cao thêm chút nữa thì đốt ngón tay đã chạm phải trần nhà khi làm cử chỉ ấy.
“Nó tên là gì?” Newton hỏi. “Bức tranh ấy?”
Điều này y phải biết chứ, bức tranh khá nổi tiếng mà.
“ Icarus rơi rụng . Người rơi xuống biển là Icarus.”
Newton tiếp tục ngắm nghía. “Thật là một bức tranh tuyệt mĩ.” Y nói. “Phong cảnh trong tranh rất giống với nơi này. Có núi, có tuyết, và có nước.” Y quay sang nhìn Bryce. “Nhưng dĩ nhiên, trong tranh có một người đang cày ruộng, và mặt trời nằm ở vị trí thấp hơn. Hẳn là lúc chiều tà...”
Đang sẵn tâm trạng bực bội và vẫn còn hồi hộp, Bryce hỏi với giọng hơi xẵng: “Sao không phải sớm hơn?”
Newton nở nụ cười thật lạ. Đôi mắt y dường như đang hướng vào thứ gì đó xa xăm. “Khó mà là buổi sáng được, đúng không?”
Bryce không đáp. Nhưng dĩ nhiên, Newton nói đúng. Mặt trời đang ở chính ngọ lúc Icarus bắt đầu rơi. Cú rơi ấy hẳn là khá lâu. Trong tranh, vầng dương chỉ còn lấp ló phân nửa nơi chân trời, còn Icarus, cẳng chân và đầu gối vẫy vùng trên mặt nước, vùng nước sắp sửa khiến cậu chết chìm vì sự dại dột mà không hay, được khắc họa trong giây phút sau cú rơi. Cậu hẳn đã rơi xuống từ ban trưa.
Newton lên tiếng, cắt ngang dòng suy tư của Bryce. “Betty Jo có nói ông đồng ý đi Chicago cùng tôi.”
“Phải. Nhưng tôi muốn biết, ông đi Chicago để làm gì?”
Newton làm một cử chỉ rất đỗi kì lạ, không giống y chút nào: Y nhún vai, hai lòng bàn tay ngửa lên. Chắc hẳn y học được điều đó từ Brinnarde. Rồi y đáp: “À, tôi cần thêm một số chuyên gia hóa học. Tôi nghĩ đó là cách tốt để tuyển người.”
“Vậy tôi thì sao?”
“Ông là một chuyên gia hóa học. Hay đúng hơn là kĩ sư hóa học.”
Bryce ngần ngừ trước khi lên tiếng. Điều gã sắp nói ra hẳn là rất sỗ sàng, nhưng Newton dường như không ngại nghe lời thẳng thắn. “Ông đã có rất nhiều nhân sự rồi, Newton ạ.” Gã bật ra tiếng cười gượng gạo. “Tôi phải cạnh tranh với cả một đội ngũ hết sức hùng hậu mới có cơ hội được gặp ông đấy.”
“Phải.” Newton đáp. Y quay đi và lại nhìn bức tranh giây lát, rồi nói: “Có lẽ điều tôi thực sự muốn là... một kì nghỉ. Một chuyến thăm thú vùng đất mới.”
“Ông chưa đến Chicago bao giờ ư?”
“Chưa, e rằng tôi giống như một kẻ ẩn dật sống trên thế giới này.”
Bryce suýt nữa đỏ bừng mặt trước lời nhận xét ấy. Gã quay sang phía chiếc máy sưởi và nói: “Chicago mùa Giáng Sinh có lẽ không phải là nơi thích hợp nhất cho một kì nghỉ.”
“Tôi không ngại thời tiết giá lạnh.” Newton nói. “Ông thì sao?”
Bryce cười, vẻ lo lắng. “Tôi chắc không miễn nhiễm với cái lạnh được như ông đâu. Nhưng tôi vẫn có thể chịu được.”
“Vậy thì tốt.” Y bước tới chỗ cái ghế, cầm lấy áo khoác và mặc lên. “Tôi rất mừng khi có ông đi cùng.”
Bryce cuống cả lên khi thấy người đàn ông kia, mà có thật ông ta là người không, chuẩn bị ra về. Rất có thể gã sẽ không bao giờ có được cơ hội như thế này nữa. “Đợi một chút.” Gã yếu ớt nói. “Tôi cần... cần đi lấy cho mình một ly.”
Newton không nói gì. Bryce rời khỏi phòng khách và vào bếp. Lúc đi qua ngưỡng cửa, gã ngoái lại xem Newton có còn đứng sau cái ghế ấy nữa không. Tim gã chùng xuống: Y đã quay lại chỗ bức tranh, một lần nữa đứng đó đăm đắm ngắm nhìn với vẻ trầm mặc. Y hơi cúi vì đầu cao hơn bức tranh ít nhất phải ba mươi xăng-ti-mét.
Bryce rót cho mình một cốc Scotch đúp và châm thêm nước lọc ở vòi vào. Gã không thích uống rượu với đá viên. Gã nhấp một hơi, cứ thế đứng bên bồn rửa, thầm nguyền rủa thứ vận rủi đã khiến Newton đứng mãi.
Thế rồi, lúc quay lại phòng khách, gã thấy Newton đã ngồi xuống.
Y quay đầu sang bên để có thể nhìn vào Bryce. “Có lẽ tôi nên ở lại.” Y nói. “Chúng ta cần bàn bạc kế hoạch cho chuyến đi.”
“Được thôi.” Bryce nói. “Có lẽ cũng nên thế.” Gã đứng như trời trồng giây lát, rồi vội vã tiếp lời, “Tôi... quên cho đá. Vào cốc rượu. Xin phép nhé.” Gã lại quay vào bếp.
Bàn tay Bryce run rẩy khi gã thò vào trong ngăn kéo đựng bánh mì và bật công tắc. Tranh thủ lúc máy khởi động, gã bước tới tủ lạnh và lấy đá viên trong ngăn đựng. Giờ là một trong số những lần hiếm hoi trong đời gã cảm thấy trân trọng vì công nghệ đã được cải tiến, tạ ơn Chúa khi gã không cần phải đánh vật để lấy những viên đá kẹt cứng trong khay nữa. Gã cho hai viên vào cốc, khiến rượu sánh ra chút ít lên vạt áo. Rồi gã quay lại chỗ ngăn kéo, hít một hơi dài, và nhấn nút.
Trong thoáng chốc, một âm thanh u u vang lên gần như không nghe rõ tiếng, rồi căn phòng lại chìm vào tĩnh lặng.
Gã tắt công tắc và quay lại phòng khách. Newton vẫn ngồi trên ghế, giờ đang chăm chú nhìn máy sưởi. Trong giây lát, Bryce không thể rời mắt khỏi cửa thông khí điều hòa với cái máy chụp giấu phía sau, tấm phim giờ đã phơi sáng.
Gã lắc lắc đầu, cố xua đi cảm giác âu lo đang ngự trị. Thật ngớ ngẩn nếu bây giờ lại tự lật tẩy chính mình khi mọi việc đã xong. Và gã chợt nhận ra mình chẳng khác gì một tay tráo trở - một kẻ phản bạn.
Newton nói: “Có lẽ chúng ta sẽ bay đi Chicago.”
Gã không sao ngăn được và hỏi với giọng châm biếm. “Bay như Icarus ư?”
Newton bật cười. “Như Daedalus thì hơn, hi vọng thế. Tôi không thích thú gì việc chết đuối đâu.”
Giờ đến lượt Bryce đứng dậy. Gã không muốn ngồi đó và buộc phải đối diện với Newton. “Ta đi bằng máy bay của ông à?”
“Phải. Tôi đang tính chúng ta lên đường vào buổi sáng Giáng Sinh. Đấy là nếu Brinnarde có thể thu xếp được chỗ hạ cánh ở sân bay Chicago vào thời gian đó. Tôi sợ hôm ấy sẽ đông.”
Bryce uống đã gần hết cốc rượu, gã uống chóng vánh hơn hẳn so với mọi khi. “Vào đúng Giáng Sinh thì cũng chưa chắc.” Gã nói. “Thực ra đấy có lẽ là thời kì trung gian giữa hai đợt cao điểm.” Sau đó gã hỏi, dẫu chẳng rõ vì lý do gì: “Cô Betty Jo có đi cùng không?”
Newton ngần ngừ rồi đáp: “Không, chỉ có ông và tôi thôi.”
Gã cảm thấy mình hơi vô lí, y như cái hôm bọn họ vừa uống rượu gin vừa trò chuyện bên bờ hồ. “Thế cô ấy không nhớ anh à?” Gã hỏi. Tất nhiên, đó hoàn toàn không phải việc của gã.
“Chắc là có.” Newton dường như không lấy làm phật ý khi nghe câu hỏi này. “Và chắc tôi cũng sẽ nhớ cô ấy, Tiến sĩ Bryce ạ. Nhưng cô ấy sẽ không đi cùng.” Y nhìn máy sưởi thêm một lát trong im lặng. “Sáng ngày Giáng Sinh, ông có thể sẵn sàng lên đường lúc tám giờ được không? Tôi sẽ cử Brinnarde đến tận nhà đón ông nếu ông muốn.”
“Được thôi.” Gã ngửa cổ uống nốt chỗ rượu Scotch. “Chúng ta ở đó bao lâu?”
“Ít nhất khoảng hai, ba ngày.” Newton đứng dậy và mặc lại áo khoác. Bryce thấy lòng nhẹ nhõm hẳn, gã bắt đầu lo sợ mình không thể giữ bình tĩnh được nữa. Tấm phim chụp...
“Tôi nghĩ ông sẽ cần đến vài chiếc áo sơ mi sạch sẽ.” Gã nghe thấy Newton nói. “Chi phí chuyến đi đã có tôi lo.”
“Tại sao không chứ?” Bryce cười, giọng có chút hồi hộp. “Ông là triệu phú kia mà.”
“Đúng vậy.” Newton đáp và kéo khóa áo khoác. Bryce vẫn ngồi trên ghế, khi ngẩng lên, gã thấy Newton, với dáng người gầy gò và nước da rám nắng, đứng sừng sững trước mình hệt như một pho tượng. “Đúng vậy. Tôi là triệu phú mà.”
Nói xong gã ra về, khom lưng bước qua ngưỡng cửa, nhẹ nhàng rời đi dưới trời tuyết...
Ngón tay run rẩy vì phấn khích, còn tâm trí lấy làm hổ thẹn trước sự phấn khích thái quá ấy, Bryce gỡ tấm lưới chắn ở cửa thông khí, tháo chiếc máy chụp, đặt lên sô pha và lấy tấm phim ra. Sau đó gã mặc áo khoác, cẩn thận cất tấm phim vào túi và cắm cúi đi xuyên qua lớp tuyết giờ đã đóng khá dày dưới mặt đất để tới phòng thí nghiệm. Gã phải cố kiềm chế để không co cẳng chạy.
Phòng thí nghiệm không có một ai, tạ ơn Chúa vì lúc trước gã đã xua mấy người trợ lí ra về. Gã tới thẳng phòng tráng phim và máy chiếu, chẳng buồn dừng lại để bật máy sưởi dù phòng thí nghiệm lạnh tê tái. Gã cứ mặc nguyên áo khoác trên người.
Khi nhấc tấm phim âm bản ra khỏi thùng tráng rửa đầy khí, hai tay Bryce run đến mức gần như không đặt nổi tấm phim vào trong máy, nhưng cuối cùng gã cũng làm được.
Thế rồi, khi gã bật công tắc máy chiếu và dõi mắt về phía màn hình trên bức tường đằng xa, đôi tay gã bỗng ngừng run, hơi thở nghẹn lại trong cổ họng. Gã cứ thế nhìn chằm chằm đến cả phút. Sau đó, gã thình lình quay người, đi từ phòng máy chiếu sang phòng thí nghiệm, căn phòng vừa dài rộng thênh thang không một bóng người, vừa lạnh buốt. Gã huýt sáo qua kẽ răng, không hiểu sao giai điệu được chọn lại là: Nếu bạn hiểu rõ Susie như tôi ...
Một mình trong phòng thí nghiệm, gã phá lên cười, tiếng cười khẽ chứ không to. “Vâng!” Gã nói, âm thanh đập vào bức tường phía cuối phòng và dội lại, nghe có phần trống rỗng, vang vọng qua dãy kệ đựng ống nghiệm, đèn Bunsen, dụng cụ thủy tinh, chén nung, lò nung, và các loại máy móc xét nghiệm. Gã nói. “Vâng, thưa ngài Rumplestiltskin.”
Trước khi rút tấm phim ra khỏi máy chiếu, một lần nữa gã nhìn chằm chằm vào hình ảnh trên tường, in dấu đường nét lờ mờ của một chiếc ghế bành, một cấu trúc xương phi thường của một cơ thể phi thường: Không xương ức, không xương cụt, không xương sườn cụt, đốt sống cổ dạng sụn, hai xương vai vừa nhọn vừa nhỏ xíu, xương sườn thứ hai và thứ ba hợp nhất. Lạy Chúa, gã nghĩ thầm, lạy Chúa tôi! Sao Kim, Sao Thiên Vương, Sao Mộc, Sao Hải Vương, hay Sao Hỏa. Lạy Chúa tôi!
Và gã trông thấy, ở góc dưới của tấm phim là hình ảnh nhỏ xíu gần như không thể nhận thấy của mấy từ “W. E. Corp.” Ý nghĩa của chúng, điều gã đã biết kể từ khi đi tìm nguồn gốc của tấm phim màu cách đây hơn một năm, bất ngờ ùa về cùng một loạt hàm ý đáng sợ chứa đựng trong nó: Tập đoàn World Enterprises.