⚝ 5 ⚝
Hai người hầu như không nói gì mấy trong suốt chuyến bay. Bryce cố đọc vài tập tài liệu quảng bá về các nghiên cứu trong lĩnh vực luyện kim, nhưng gã thấy mình không ngừng cựa quậy, đầu óc nghĩ ngợi mông lung. Chốc chốc gã lại đưa mắt nhìn qua bên kia khoang máy bay chật hẹp nơi Newton đang ngồi với vẻ trầm tĩnh, một tay cầm cốc nước, tay kia cầm cuốn sách. Đó là cuốn Tuyển tập thơ Wallace Stevens . Gương mặt Newton toát lên nét thanh thản, dường như y đang đắm chìm vào trang sách. Các bức tường quanh họ được tô điểm bằng những bức ảnh màu cỡ lớn của các loài thủy cầm như sếu, hồng hạc, diệc và vịt. Một lần khác, cũng trên chiếc máy bay này trong chuyến thăm đầu tiên tới địa điểm thi công dự án, Bryce đã trầm trồ trước những bức ảnh ấy, tán dương gu thẩm mĩ đã đặt chúng ở đó, nhưng giờ đây chúng chỉ gây cho gã cảm giác bất an, có vẻ gì đó gần như hiểm ác. Newton vừa uống nước vừa đọc sách, một đôi lần quay sang mỉm cười với Bryce nhưng không nói gì. Qua ô cửa sổ nhỏ phía sau y, gã nhác thấy khoảng trời hình chữ nhật xám xịt, âm u.
Hành trình tới Chicago kéo dài gần một giờ đồng hồ, và thêm mười phút nữa để máy bay hạ cánh. Cả hai bước xuống, hòa vào khung cảnh hỗn loạn của những chiếc xe tải xám không rõ chở gì, đám đông với vẻ mặt cương nghị, và lớp tuyết như những khối thủy tinh, thô ráp gồ ghề, tan ra rồi lại đóng băng, đen đúa bẩn thỉu. Cơn gió chẳng khác nào chiếc túi đựng đầy những cây kim nhỏ xíu đang táp vào mặt Bryce. Gã rụt cằm vào trong khăn quàng, dựng cổ áo khoác, kéo mũ cho kín hơn. Trong lúc đó, gã quay sang nhìn Newton. Dường như ngay cả y cũng bị ảnh hưởng bởi gió lạnh, vì y đã đút tay vào túi, mặt nhăn lại. Bryce trang bị cho mình chiếc áo khoác dày sụ, còn Newton mặc áo khoác vải tuýt và quần dạ. Thật lạ khi thấy y ăn vận như thế. Không hiểu y mà đội mũ thì trông sẽ thế nào nhỉ, Bryce nghĩ thầm. Có lẽ một người đến từ Sao Hỏa sẽ hợp với mũ quả dưa.
Một chiếc xe tải với phần đầu to cộ kéo máy bay ra khỏi bãi đỗ. Chiếc máy bay phản lực nhỏ bé duyên dáng theo sau cái xe tải với vẻ rầu rĩ, như thể đang khó chịu vì cảnh ê chề khi phải ở trên mặt đất. Ai đó chúc nhau “Giáng Sinh vui vẻ!” và Bryce chợt giật mình nhận ra, hôm nay đúng là Giáng Sinh. Newton đi lướt qua gã, nét mặt đăm chiêu. Gã bắt đầu đi theo y, chầm chậm bước từng bước thận trọng trên mặt đất với những hố đầy băng, chẳng khác gì khối đá xám bẩn thỉu dưới chân gã, mặt đất y hệt bề mặt Mặt Trăng.
Nhà ga đến vừa nóng bức, ngột ngạt, vừa đông đúc và ồn ào. Sừng sững giữa phòng chờ là một cây thông Giáng Sinh khổng lồ xoay tròn làm bằng nhựa và được tô điểm lớp tuyết nhựa, nhũ băng cũng bằng nhựa, và những ngọn đèn nhấp nháy đầy vẻ xấu xa. Bài hát Giáng Sinh trắng , được thể hiện bởi giọng ca ngọt lịm của một dàn hợp xướng vô hình kết hợp cùng tiếng chuông ngân và tiếng đàn organ điện tử, thỉnh thoảng lại vang lên trong không gian huyên náo. Tôi đang mơ về một Giáng Sinh trắng... Một ca khúc xưa cũ mang đậm không khí lễ hội. Từ những đường ống ẩn đâu đó thoang thoảng tỏa ra mùi gỗ thông, hoặc dầu thông, loại thường được dùng ở các nhà vệ sinh công cộng. Đám phụ nữ ồn ào mặc áo lông thú đứng túm năm tụm ba, những người đàn ông băng qua phòng với vẻ quả quyết, tay xách cặp táp, cầm theo bưu phẩm hoặc camera. Một gã say đang ngồi sùm sụp trên chiếc ghế bành giả da, mặt mũi đỏ ửng. Cách Bryce không xa, một em bé nói với một em bé khác, vẻ hết sức nghiêm nghị: “Cậu cũng thế.” Bryce không nghe rõ em bé kia đáp lại câu gì. Chúc bạn những tháng ngày tươi vui, chúc bạn những mùa Giáng Sinh ngập tràn sắc trắng!
“Xe của chúng ta chắc đang chờ ở phía trước tòa nhà này.” Newton nói. Giọng y có điều gì đó cho thấy y như đang bị đau.
Bryce gật đầu. Hai người lặng lẽ len lỏi qua đám đông, bước ra khỏi cửa chính. Bầu không khí lạnh lẽo bên ngoài đúng là một sự giải thoát.
Xe hơi đang chờ họ cùng với một tài xế mặc đồng phục. Khi đã yên vị trong xe, Bryce hỏi: “Ông thấy Chicago thế nào?” Newton nhìn gã giây lát rồi đáp: “Tôi quên mất ở đây đông đúc biết bao.” Và rồi, với nụ cười gượng gạo, y trích dẫn câu thơ của Dante. “ Nào tôi biết đâu thần chết cướp đi nhiều sinh mạng nhường ấy. ” Bryce nhủ thầm: Ông mà là Dante bước đi giữa những kẻ chịu cảnh đọa đày, và có thể đúng là thế thật, thì tôi đây là Virgil.
Sau khi dùng bữa trưa trong phòng khách sạn, họ bắt thang máy xuống sảnh, nơi các vị đại biểu đang loanh quanh đi lại, cố làm bộ trịnh trọng, vui vẻ, thoải mái lắm. Khu sảnh được bài trí với nội thất làm bằng nhôm và gỗ gụ theo phong cách hiện đại Nhật Bản đang lên ngôi thay cho phong cách trang nhã. Hai người dành vài giờ trò chuyện với những người Bryce quen biết tương đối rõ mà phần lớn trong số đó gã không ưa, tìm được ba người có vẻ quan tâm và muốn tới làm việc cho Newton. Hai bên thống nhất hẹn gặp. Newton hầu như rất ít nói. Y chỉ gật đầu và mỉm cười khi được giới thiệu, thi thoảng bàn luận đôi câu. Sự có mặt của y đã thu hút sự chú ý của nhiều người khi tên tuổi y bắt đầu lan truyền, nhưng y dường như không nhận thấy. Bryce có cảm giác rõ ràng tâm trạng Newton đang khá căng thẳng nhưng gương mặt thì vẫn giữ nguyên vẻ bình thản như thường.
Hai người được mời dự bữa tiệc cocktail tại một phòng hạng sang, sự kiện do một công ty trong ngành kĩ thuật tổ chức và được khấu trừ thuế. Newton thay mặt cả hai đồng ý tham dự. Người đàn ông mặt chồn đã ngỏ lời có vẻ rất vui mừng, ông ta ngước nhìn Newton, người cao hơn hẳn một cái đầu, và nói: “Đó quả là một vinh dự lớn lao, thưa ông Newton. Thật vinh dự khi có cơ hội được nói chuyện với ông.”
“Cảm ơn ông.” Newton đáp với nụ cười quen thuộc. Sau khi người đàn ông nọ rời đi, y quay sang nói với Bryce: “Giờ tôi định ra ngoài đi dạo. Ông có muốn đi cùng không?”
Bryce gật đầu, cảm thấy nhẹ nhõm cả người. “Để tôi lấy áo khoác.”
Trên đường ra thang máy, gã đi qua chỗ ba người đàn ông đang tụ tập, cả ba đều mặc com lê sang trọng, lớn tiếng nói chuyện ra vẻ ta đây. Lúc đi ngang qua, Bryce nghe thấy một gã bình luận: “Đâu chỉ ở Washington. Chà, đừng nói là anh không nhìn thấy tương lai gì trong những cuộc chiến tranh hóa học. Mảnh đất đó đang cần đến những con người mới.”
Hôm nay là Giáng Sinh mà nhiều cửa hàng vẫn mở cửa. Phố xá tấp nập người qua kẻ lại. Ánh mắt bọn họ hầu hết đều hướng thẳng về phía trước, mặt mũi nghiêm nghị. Giờ đây trông Newton có vẻ bất an. Y phản ứng trước sự hiện diện của những người xung quanh như thể họ là một làn sóng hay một trường năng lượng có thể sờ thấy được, tỏa ra từ cả ngàn chiếc nam châm điện, đang sắp sửa nhấn chìm y. Dường như phải cố gắng lắm y mới có thể tiếp tục dấn bước.
Họ ghé vài cửa hàng, bị ánh đèn sáng lóa trên cao và hơi nóng ngột ngạt bủa vây. “Tôi tính mua tặng Betty Jo một món quà.” Newton nói. Cuối cùng, họ dừng chân tại một cửa hàng trang sức, y chọn một chiếc đồng hồ treo tường nhỏ làm bằng vàng và đá cẩm thạch trắng. Bryce mang giúp y về khách sạn, món quà được gói trong chiếc hộp bọc giấy màu rực rỡ.
“Ông nghĩ liệu cô ấy có thích không?” Newton hỏi.
Bryce nhún vai. “Tất nhiên là có.”
Ngoài trời, tuyết bắt đầu rơi...
* * *
Những cuộc gặp gỡ diễn ra liên miên suốt cả buổi chiều và buổi tối, nhưng Newton không đề cập gì đến chúng, và Bryce cảm thấy nhẹ nhõm vì gã không cần phải tham dự cuộc gặp nào. Xưa nay gã vốn không xem trọng mấy thứ ngớ ngẩn kiểu ấy: Những buổi thảo luận về các “thách thức” và “ý tưởng khả thi.” Họ dành thời gian còn lại của buổi chiều để phỏng vấn ba ứng viên đã thể hiện mong muốn được đầu quân cho Tập đoàn World Enterprises. Hai người trong số đó nhận lời làm việc bắt đầu từ mùa Xuân, cũng đúng thôi, cứ xem mức lương Newton đồng ý trả cho họ. Một trong số họ chuyên về chất làm mát cho động cơ phương tiện; người còn lại, một thanh niên rất thông minh, dễ mến, sẽ làm việc dưới quyền của Bryce. Anh ta là chuyên gia trong lĩnh vực ăn mòn. Newton tỏ vẻ khá hài lòng khi chiêu mộ được hai nhân sự mới, nhưng có một điều rõ ràng là y không thực sự quan tâm. Trong suốt các cuộc phỏng vấn, y có vẻ xao nhãng, mơ màng, và Bryce buộc phải đảm nhiệm vai trò người đặt câu hỏi chính. Khi tất cả kết thúc, Newton có vẻ nhẹ nhõm hơn. Nhưng rất khó nói chính xác y cảm thấy thế nào về bất cứ chuyện gì. Sẽ thật thú vị nếu được biết điều gì đang diễn ra trong tâm trí lạ lùng, khác biệt đó, và điều gì đang ẩn chứa trong nụ cười vô thức kia - nụ cười nhẹ nhàng, khôn ngoan, và hoài tiếc.
Bữa tiệc cocktail được tổ chức ở tầng cao nhất. Hai người đi qua một đoạn hành lang ngắn và bước vào căn phòng rộng rãi trải thảm màu xanh dương với những vị khách đang khẽ khàng trò chuyện, phần lớn là đàn ông. Căn phòng có một bức tường được làm hoàn toàn bằng kính, ánh đèn từ thành phố bên dưới lan tỏa khắp tấm kính, như thể một sơ đồ cấu trúc phân tử phức tạp được ai đó vẽ nên. Nội thất toàn bộ đều mang phong cách thời vua Louis XV, là thứ mà Bryce thích. Những bức họa trên tường cũng thật đẹp. Một bản tấu pháp 25 kiểu Baroque đâu đó vang lên qua dàn loa, tiếng nhạc tuy khẽ nhưng nghe khá rõ. Bryce không biết bản nhạc này nhưng vẫn thấy hay. Tác phẩm của Bach ư? Hay của Vivaldi? Gã thích căn phòng này và cảm thấy sẵn lòng chịu đựng bữa tiệc hơn một chút, vì dù sao cũng đã đến đây rồi. Dẫu thế, vẫn có điều gì đó thật khác thường trong bức tường kính in bóng ánh đèn lấp lánh của thành phố Chicago kia.
Một người đàn ông tách ra khỏi nhóm nọ và bước tới chào họ với nụ cười dễ mến. Bryce giật mình nhận ra đây chính là người đã bình luận về chiến tranh hóa học lúc ở dưới sảnh. Anh ta mặc bộ com lê đen được cắt may hoàn hảo, và có vẻ đã ngấm hơi men. “Chào mừng đến với nơi ẩn náu khỏi chốn ngoại ô.” Anh ta nói và chìa tay ra. “Tôi là Fred Benedict. Quầy bar nằm ở trong kia kìa.” Anh ta hất hàm ra vẻ bí mật về phía một ngưỡng cửa.
Bryce bắt tay anh ta, cảm thấy hơi khó chịu trước cái bắt tay đã được tính toán kĩ sao cho đủ chặt, sau đó giới thiệu tên mình và Newton.
Benedict tỏ ra hết sức ấn tượng. “Thomas Newton!” Anh ta thốt lên. “Lạy Chúa. Tôi đã hi vọng ông sẽ đến. Ông biết đấy, ông vốn có tiếng là một...” Anh ta dường như có chút xấu hổ, “Ẩn sĩ.” Anh ta bật cười. Newton cúi nhìn anh ta vẫn với nụ cười bình thản ấy. Benedict tiếp tục ba hoa, vẻ lúng túng ngượng ngùng ban nãy đã tan biến. “Thomas J. Newton, ông có biết việc ông thực sự tồn tại là điều khó tin đến thế nào không? Công ty tôi đăng kí thuê bảy qui trình của ông, hay đúng hơn là của World, thế mà hình ảnh duy nhất tôi có thể hình dung về ông là ông giống như một cỗ máy tính vậy.”
“Có thể tôi đúng là một cỗ máy biết tính toán,” Newton nói. “Anh làm cho bên nào, anh Benedict?”
Trong giây lát, Benedict trông như thể anh ta sợ rằng mình đang bị chế nhạo. Bryce thì nghĩ, có khi thế thật.
“Tôi làm cho Futures Unlimited. Chủ yếu trong lĩnh vực liên quan đến chiến tranh hóa học, tuy cũng làm một số sản phẩm về nhựa, như các loại hộp nhựa chẳng hạn.” Anh ta hơi cúi gập người, cố tỏ ra hài hước. “Chính là chủ nhân của bữa tiệc này đây.”
Newton đáp: “Cảm ơn.” Y dợm bước về phía ngưỡng cửa dẫn đến quầy bar. “Các anh có căn phòng đẹp quá.”
“Vâng. Và mọi thứ ở đây đều được khấu trừ thuế.” Thấy Newton bắt đầu rời đi, anh ta nói: “Để tôi lấy đồ uống cho ông, ông Newton. Tôi muốn giới thiệu với ông vài vị khách.” Anh ta trông như thể không biết nên làm gì với người đàn ông cao nghều kì quặc này, nhưng lại không muốn để ông ta đi mất.
“Không cần đâu, anh Benedict.” Newton nói. “Lát nữa chúng tôi sẽ quay lại.”
Benedict có vẻ không vui nhưng cũng không dám phản đối.
Vừa bước vào căn phòng có quầy bar, Bryce nói: “Tôi không ngờ ông nổi tiếng đến thế. Khi tôi tìm cách liên hệ với ông cách đây một năm, không một ai từng nghe nói đến ông.”
“Chẳng có bí mật nào giấu được mãi.” Newton nói, nụ cười không còn nở trên môi.
Căn phòng bên trong này nhỏ hơn phòng ngoài, nhưng trang nhã không kém. Trên quầy bar bóng loáng có treo bức họa Bữa trưa trên thảm cỏ của Manet. Người pha chế có mái tóc bạc trắng, tuổi đã cao, thậm chí trông ông ta còn lịch duyệt hơn cả các nhà khoa học và doanh nhân trong căn phòng kia. Ngồi ở quầy bar, Bryce mới nhận thấy vẻ xuề xòa của bộ com lê xám gã mua ở một trung tâm thương mại cách đây bốn năm. Gã cũng biết áo sơ mi của mình đã sờn cổ, tay áo thì quá dài.
Gã gọi một ly martini, còn Newton gọi nước lọc không đá. Trong lúc người pha chế chuẩn bị đồ uống, Bryce đưa mắt nhìn quanh phòng và nói: “Anh biết không, đôi lúc tôi nghĩ, khi học xong tiến sĩ, lẽ ra tôi nên tìm một công việc ở công ty giống như họ.” Gã bật ra tiếng cười khô khốc. “Nếu thế, giờ có khi tôi kiếm được tám mươi ngàn một năm, và cuộc sống của tôi sẽ giống như thế kia.” Gã xua tay về phía căn phòng, để ánh mắt nán lại chốc lát trên người một phụ nữ trung niên ăn vận tuyệt đẹp, vóc dáng được giữ gìn rất kĩ, khuôn mặt toát lên mùi tiền và khoái lạc. Cặp mắt đánh phấn xanh lá cây, cái miệng đầy nhục cảm. “Biết đâu tôi có thể phát triển một loại nhựa mới cho búp bê kewpie, hoặc các chất bôi trơn cho động cơ xuồng máy...”
“Hoặc khí độc?” Newton nhận lấy ly nước, giờ y đang mở một chiếc hộp nhỏ bằng bạc, lấy ra một viên thuốc.
“Tại sao không?” Gã cầm lấy ly martini, cẩn thận để không làm sánh ra. “Phải có người làm thứ đó chứ.” Gã nhấp một ngụm. Loại rượu này chát quá khiến cổ họng và lưỡi gã bỏng rát, đẩy giọng gã cao lên hẳn một tông. “Chẳng phải người ta nói khí độc là thứ cần thiết để ngăn chặn chiến tranh hay sao? Điều đó đã được chứng minh.”
“Thật à?” Newton hỏi. “Chẳng phải ông đã từng làm công việc liên quan đến bom hạt nhân trước khi chuyển sang giảng dạy?”
“Đúng thế. Sao ông biết?”
Newton mỉm cười, không phải kiểu cười vô thức mà là nụ cười chân thật tỏa ra niềm vui thích. “Tôi đã cho người điều tra về ông.”
Gã nhấp một ngụm rượu lớn. “Để làm gì? Để xem tôi có trung thành không à?”
“Ừm... tò mò thôi.” Y im lặng một giây rồi hỏi: “Tại sao ông lại nghiên cứu về bom?”
Bryce ngẫm nghĩ một lúc. Sau đó gã phá lên cười trước hoàn cảnh lúc này của bản thân: Ngồi ở một quầy bar, lợi dụng một người Sao Hỏa làm cha xưng tội. Nhưng như thế có vẻ cũng phù hợp. “Lúc đầu tôi không hề biết là công việc sẽ liên quan đến bom. Hồi ấy tôi vẫn tin tưởng vào khoa học thuần túy. Vẫn ước mơ vươn tới các vì sao. Khám phá những bí mật của nguyên tử. Đó là hi vọng duy nhất của nhân loại trong thế giới đảo điên này.” Gã uống cạn ly martini.
“Giờ ông không còn tin vào những điều ấy nữa ư?”
“Không.”
Phòng ngoài đã chuyển sang chơi một bản madrigal 26 mà gã lờ mờ nhận ra. Giai điệu thanh nhã, phức tạp, ẩn chứa nét ngây ngô giả tạo mà gã thường cảm thấy khi nghe nhạc đa âm cũ. Nhưng có thật là giả tạo không? Chẳng phải trên đời tồn tại cả nghệ thuật ngây ngô lẫn nghệ thuật phức tạp? Và nghệ thuật tha hóa nữa? Điều đó chẳng phải cũng đúng với các ngành khoa học? Hóa học có thể tha hóa hơn thực vật học không? Nhưng không. Vấn đề nằm ở cách sử dụng, ở mục đích...
“Có lẽ tôi cũng nghĩ giống ông.” Newton nói.
“Có lẽ tôi sẽ uống một ly martini nữa.” Bryce nói. Một ly martini ngon lành và, không nghi ngờ gì, tha hóa. Đâu đó trong tâm trí gã chợt vang lên mấy từ: Ôi, một kẻ thiếu đức tin. Gã cười một mình và đưa mắt nhìn Newton. Y ngồi đó, tấm lưng thẳng tắp, nhấm nháp ly nước của mình.
Ly martini thứ hai không còn làm họng gã bỏng rát như lần đầu. Rồi gã gọi ly thứ ba. Dù sao, tiền là do cái gã chiến tranh hóa học kia trả mà. Hay là những người đóng thuế? Tất cả tùy thuộc vào cách nhìn. Rốt cuộc, người ta đều phải trả giá cho mọi thứ. Massachusetts và Sao Hỏa. Bất cứ ai ở bất cứ đâu cũng đều phải trả giá.
“Ta quay lại căn phòng kia đi.” Gã nói, cầm theo ly martini mới gọi, hớp một cách cẩn thận cho khỏi rớt ra. Gã nhận thấy măng-sét áo sơ mi đã thò hẳn ra khỏi ống tay áo khoác, hệt như một cái vòng rộng ngoác, lôi thôi.
Khi bước qua ngưỡng cửa vào căn phòng lớn, cả hai bị chặn lại bởi một người đàn ông thấp bé, mập mạp, đang nói chuyện với vẻ hơi kích động vì men rượu. Bryce vội quay đi, hi vọng người đó không nhận ra mình. Ông ta là Walter Canutti, công tác tại Đại học Pendley ở Pendley, Iowa.
“Bryce!” Canutti kêu lên. “Trời đất quỉ thần ơi! Nathan Bryce!”
“Xin chào, Giáo sư Canutti.” Gã lúng túng chuyển ly martini sang tay trái, và họ bắt tay nhau. Mặt Canutti đỏ bừng, rõ ràng ông ta đã khá say. Ông ta mặc chiếc áo khoác lụa màu xanh lá cây, sơ mi màu nâu với những lớp bèo nhún nhỏ kín đáo ở cổ áo. Bộ trang phục quá trẻ trung, chẳng hợp với ông ta chút nào. Nếu không xét đến khuôn mặt hồng hào, mềm mại, trông ông ta giống như một con ma-nơ-canh trên bìa tạp chí thời trang nam giới. Bryce cố giữ cho cảm giác kinh tởm không lộ ra qua giọng nói. “Rất vui được gặp lại anh!”
Canutti nhìn Newton vẻ dò hỏi, bởi vậy Bryce chẳng còn cách nào khác ngoài giới thiệu bọn họ với nhau. Gã lắp bắp nói ra hai cái tên, tức điên vì sự vụng về của chính mình.
Canutti thậm chí còn bị ấn tượng sâu sắc hơn cả gã Benedict ban nãy khi nghe tên Newton. Ông ta bắt tay Newton một cách nồng nhiệt bằng cả hai tay, miệng tuôn một tràng: “Vâng. Vâng, dĩ nhiên rồi. World Enterprises. Tập đoàn qui mô nhất kể từ sau General Dynamics.” Ông ta tâng bốc y lên mây như thể đang nhăm nhe kiếm một hợp đồng nghiên cứu béo bở về cho Pendley. Bryce luôn cảm thấy kinh hãi khi chứng kiến cảnh các vị giáo sư xun xoe nịnh bợ đám doanh nhân, chính những người bị họ đem ra chế giễu trong các cuộc tán gẫu riêng tư, bất cứ khi nào đánh hơi thấy cơ hội hớt được một hợp đồng nghiên cứu nào đó.
Newton ậm ừ và mỉm cười, cuối cùng Canutti cũng chịu buông tay y, cố khoe ra nụ cười toe toét làm bộ trẻ trung và nói: “Chà!” Sau đó ông ta khoác tay lên vai Bryce. “Chà, những chuyện quá khứ đã là dĩ vãng rồi, Nate nhỉ.” Thình lình, một ý nghĩ dường như bất chợt nảy ra trong đầu Canutti, và Bryce thầm nhăn mặt vì lo sợ. Canutti hết nhìn Bryce lại nhìn Newton, và hỏi: “Ô, giờ anh làm việc cho World Enterprises à, Nate?”
Gã không đáp, thừa biết điều gì sắp đến.
Rồi Newton nói: “Tiến sĩ Bryce đã làm việc với chúng tôi được hơn một năm.”
“Ái chà...” Mặt Canutti đỏ lựng lên bên trên cái cổ áo diêm dúa. “Ái chà! Làm cho World Enterprises cơ đấy!” Một vẻ khoái trá không thể kiềm chế lan ra trên khuôn mặt bầu bĩnh của ông ta, và Bryce, uống cạn ly martini của mình trong một ngụm, cảm thấy như chỉ muốn tung một cước vào bộ mặt đó. Nụ cười toe toét trở thành tiếng cười khùng khục xen lẫn tiếng ợ hơi, rồi Canutti quay sang Newton và nói: “Tuyệt quá đi mất. Tôi phải cho ông biết điều này mới được, ông Newton.” Ông ta lại cười khùng khục. “Tôi tin chắc rằng Nate sẽ không bận tâm, vì mọi chuyện giờ đã qua cả rồi. Nhưng ông biết không, ông Newton, khi Nate rời bỏ chúng tôi ở Pendley, anh ta lo lắng đến mất ăn mất ngủ về một vài trong số những việc mà có lẽ anh ta sắp giúp ông thực hiện ở World.”
“Thật sao?” Newton nói để lấp chỗ trống.
“Nhưng mấu chốt là ở chỗ...” Canutti loạng quạng vươn ra, đặt tay lên vai Bryce. Bryce cảm thấy như muốn cắn đứt cái tay kia đi, nhưng gã vẫn lắng nghe với vẻ hứng thú trước những gì gã biết sắp sửa xảy đến.
“Mấu chốt là ở chỗ anh bạn Nate già của chúng ta cho rằng ông đang đưa vào sản xuất tất cả những thứ được ông tạo ra bằng tà thuật voodoo gì đó. Phải thế không, Nate?”
“Phải.” Bryce đáp. “Voodoo.”
Canutti phá lên cười. “Nate là một trong những chuyên gia hàng đầu của lĩnh vực này, tôi tin ông cũng biết điều đó, ông Newton. Nhưng có lẽ đầu óc anh ta không được bình thường. Anh ta cho rằng những tấm phim màu được ông sáng chế ra trên Sao Hỏa.”
“Ồ?” Newton nói.
“Đúng vậy. Sao Hỏa hoặc nơi nào đó. Ngoài hành tinh, anh ta nói thế đấy.” Canutti siết vai Bryce, tỏ ra mình không hề có ác ý. “Tôi cá là khi gặp ông, anh ta hi vọng được thấy một người có ba cái đầu. Hoặc một đống xúc tu.”
Newton mỉm cười lịch thiệp. “Thú vị thật.” Rồi y quay sang Bryce và nói: “Xin lỗi vì đã làm ông thất vọng.”
Bryce nhìn đi chỗ khác, đáp: “Không, có thất vọng gì đâu.” Đôi tay gã run rẩy, gã đặt ly xuống bàn, cố nhét hai tay vào túi áo khoác.
Canutti lại tiếp tục ba hoa, lần này là về bài báo mà ông ta đọc được, viết về World Enterprises và những đóng góp của tập đoàn vào tổng sản phẩm quốc dân. Bryce đột ngột cắt ngang. “Xin lỗi. Tôi xin phép đi lấy thêm đồ uống.” Nói rồi gã quay người, vội vã trở lại căn phòng có quầy bar mà không nhìn ai trong hai người kia.
Nhưng khi có được ly rượu, gã lại không muốn uống nữa. Quầy bar đã trở nên ngột ngạt, tù túng trong mắt gã. Người pha chế không còn vẻ lịch duyệt nữa mà chỉ giống như một chân sai vặt giả tạo. Tiếng nhạc từ căn phòng lớn, giờ là một bản motet 27 , nghe thật bồn chồn và chói tai. Quầy bar quá đông người, tiếng nói chuyện quá ồn ào. Gã đưa mắt nhìn quanh như thể đang trong cơn cùng quẫn. Đám đàn ông đỏm dáng, tự mãn còn đám đàn bà thì chẳng khác gì lũ ác điểu. Thây kệ, gã thầm nghĩ, thây kệ tất cả. Gã lết người khỏi quầy bar, bỏ lại ly đồ uống vẫn còn nguyên, và quay lại phòng chính với những bước chân đầy cả quyết.
Newton đang đợi gã, một mình.
Bryce nhìn thẳng vào mắt y, cố không giật mình. “Canutti đâu?” Gã hỏi.
“Tôi bảo ông ta rằng chúng ta chuẩn bị ra về.” Y nhún vai, cử chỉ khó tin và đặc chất Pháp mà Bryce từng trông thấy. “Ông ta là một kẻ thật khó ưa, phải không?”
Bryce tiếp tục ngước nhìn y giây lát, nhìn đôi mắt khó dò của y. Rồi ông nói: “Ta rời khỏi đây thôi.”
Hai người sánh vai lặng lẽ rời đi, không ai nói gì, đi qua hành lang dài trải thảm dày để về phòng. Bryce mở khóa cửa, và sau khi đóng nó lại sau lưng, gã nói bằng giọng khẽ khàng, bình tĩnh, “Hừm, có đúng thế không?”
Newton ngồi trên mép giường, nở nụ cười mệt mỏi và đáp: “Dĩ nhiên là đúng.”
Giờ thì chẳng còn gì để nói. Bryce thấy mình lẩm bẩm: “Lạy Chúa tôi. Lạy Chúa tôi.” Gã tới ngồi vào chiếc ghế bành, mắt nhìn chằm chằm xuống chân. “Lạy Chúa tôi.”
Gã ngồi như thế một lúc dường như khá lâu, cứ nhìn hai bàn chân. Điều đó gã đã biết, nhưng biết là một chuyện, cú sốc khi nghe sự thật được thừa nhận lại là chuyện khác.
Thế rồi Newton lên tiếng: “Ông có muốn uống gì không?”
Gã ngẩng lên và thốt nhiên bật cười. “Trời ạ, có.”
Newton với lấy chiếc điện thoại đặt bên giường và gọi phục vụ. Y bảo họ mang lên hai chai gin và vermouth cùng với đá viên. Khi cúp máy, y nói: “Nhậu tới bến đi, Tiến sĩ Bryce. Mấy khi có dịp.”
Hai người không ai nói gì cho tới khi nhân viên hành lí lên phòng, mang theo chiếc xe đẩy cùng với rượu, đá, và một bình martini. Trên khay là một đĩa hành củ ngâm, vỏ chanh và ô-liu xanh. Ngoài ra còn có một đĩa đựng các loại hạt cứng. Khi cậu nhân viên rời đi, Newton nói: “Ông pha đồ uống được không? Tôi uống gin nguyên chất.” Y vẫn ngồi trên mép giường.
“Được thôi.” Bryce đứng dậy, cảm thấy đầu mình nhẹ bẫng. “Là Sao Hỏa phải không?”
Giọng Newton nghe thật lạ. Hay chỉ là gã đang say nên thấy thế? “Phải hay không thì khác gì nhau?”
“Khác chứ. Ông có đến từ... hệ mặt trời này không?”
“Có. Theo như tôi biết thì chẳng còn hệ nào nữa.”
“Không còn hệ mặt trời nào nữa ư?”
Newton đón lấy cốc gin Bryce đưa và giơ lên, vẻ dò xét. “Chỉ có các mặt trời thôi, chứ không có hành tinh. Hay theo như tôi biết thì không.”
Bryce khuấy một ly martini. Giờ tay gã đã hoàn toàn vững vàng. Gã đã vượt qua thử thách có thể là khó khăn nhất. Gã cảm thấy như chẳng còn gì có thể tác động tới gã, khiến gã chấn động được nữa. “Ông ở đây bao lâu rồi?” Gã hỏi, vừa khuấy vừa lắng nghe tiếng đá va lanh canh vào thành bình.
“Ông khuấy bấy nhiêu còn chưa đủ ư?” Newton nói. “Nên uống đi thôi.” Y hớp một ngụm từ ly của mình. “Tôi sống ở Trái Đất của các ông được năm năm rồi.”
Bryce ngừng khuấy, đổ rượu vào ly. Thế rồi, cảm thấy như được cởi tấm lòng, gã thả vào đó ba trái ô-liu. Martini sánh ra một ít lên tấm vải lanh trắng phủ trên xe đẩy, làm ướt mất vài chỗ. “Ông có định ở lại đây không?” Gã hỏi. Nghe như thể gã đang ngồi trong một quán cà phê ở Paris và hỏi thăm một du khách khác. Newton nên đeo một chiếc máy ảnh trên cổ mới phải.
“Có, tôi định ở lại đây.”
Giờ đã yên vị trên ghế, Bryce thấy mình vơ vẩn nhìn quanh phòng. Căn phòng khá ổn, với bốn bức tường sơn màu xanh lá cây nhạt treo những bức tranh vô hại.
Gã lại hướng ánh mắt vào Newton. Thomas Jerome Newton, đến từ Sao Hỏa. Sao Hỏa, hoặc một nơi nào đó. “Ông có phải là người không?” Gã hỏi.
Cốc rượu của Newton đã vơi đi phân nửa. “Điều đó còn tùy thuộc vào khái niệm.” Y đáp. “Tuy thế, tôi có đủ tính người .”
Gã định hỏi đủ để làm gì? nhưng lại thôi. Gã nên chuyển sang thắc mắc quan trọng thứ hai thì hơn, sau khi đã hỏi câu đầu tiên. “Ông tới đây nhằm mục đích gì? Ông đang dự tính điều gì?”
Newton đứng dậy, rót thêm gin vào cốc của mình, bước tới ghế bành và ngồi xuống. Y quay sang nhìn Bryce, rón rén cầm chiếc cốc trong đôi tay thon dài. “Tôi cũng chưa chắc chính tôi đã biết mình đang dự tính điều gì.” Y đáp.
“Chưa chắc chính ông đã biết ư?” Bryce nói.
Newton đặt cốc lên chiếc bàn cạnh giường và bắt đầu cởi giày. “Lúc đầu, tôi cứ nghĩ tôi biết mục đích mình đến Trái Đất. Nhưng dần dần, trong hai năm đầu tiên, tôi thực sự rất bận, bận tối mắt. Một năm trở lại đây tôi đã có thêm thời gian để suy nghĩ. Thậm chí có khi quá nhiều thời gian là khác.” Y đặt hai chiếc giày ngay ngắn cạnh nhau bên dưới giường. Sau đó y nằm lên tấm trải giường, duỗi đôi chân dài và dựa lưng vào gối.
Với tư thế này, trông y đúng là khá giống con người. “Ông chế tạo con tàu đó nhằm mục đích gì? Nó là tàu chứ không chỉ là thiết bị thám hiểm, đúng không?”
“Nó là tàu. Hay đúng hơn là, một chiếc phà.”
Bryce đã cảm thấy choáng váng kể từ lúc nói chuyện với Canutti. Tất cả cứ như không thật. Nhưng bây giờ gã đã dần tỉnh táo trở lại, và nhà khoa học trong gã bắt đầu thể hiện uy quyền của mình. Gã đặt ly xuống, quyết định không uống thêm nữa. Điều quan trọng là giữ được cái đầu tỉnh táo. Nhưng đôi tay gã lại run khi đặt ly xuống.
“Vậy là ông dự định đưa thêm nhiều... đồng bào của mình tới đây? Bằng chiếc phà đó?”
“Phải.”
“Ở đây, còn ai như ông nữa không?”
“Chỉ có mình tôi thôi.”
“Nhưng sao lại chế tạo con tàu tại Trái Đất? Chắc hẳn ở chỗ ông phải có nhiều chứ. Chính ông tới đây bằng tàu mà.”
“Đúng vậy. Nhưng nó là tàu một người lái. Vấn đề nằm ở nhiên liệu. Lượng nhiên liệu chỉ đủ cho một người trong chúng tôi ra đi, và chỉ đủ cho hành trình một chiều mà thôi.”
“Nhiên liệu nguyên tử ư? Urani hay là gì?”
“Vâng. Dĩ nhiên rồi. Nhưng nó đã gần như cạn kiệt. Cả dầu mỏ, than đá, hay thủy điện cũng vậy.” Y mỉm cười. “Có thể có đến hàng trăm con tàu còn ưu việt hơn nhiều so với con tàu chúng ta đang chế tạo tại Kentucky, nhưng chẳng có cách nào đưa chúng tới đây. Tất cả đều không được sử dụng trong hơn năm trăm năm Trái Đất. Con tàu tôi dùng để tới đây thậm chí còn chẳng phải loại tàu du hành liên hành tinh. Nó vốn được thiết kế để làm tàu cứu nạn khẩn cấp, kiểu như xuồng cứu sinh. Tôi đã phá hỏng động cơ và hệ thống điều khiển sau khi hạ cánh, bỏ lại xác tàu trên một cánh đồng. Tôi từng đọc được trên báo rằng có người nông dân thu phí năm mươi xu với những ai muốn xem nó. Ông ta dựng lều che xác tàu và bán đồ uống nhẹ. Chúc ông ta làm ăn phát đạt.”
“Việc đó chẳng phải tiềm ẩn nguy cơ sao?”
“Nguy cơ tôi bị FBI hay ai đó phát hiện ư? Tôi không nghĩ vậy. Cùng lắm chỉ là vài chương trình truyền hình Chủ Nhật vớ vẩn về những cuộc xâm lăng từ ngoài vũ trụ có thể xảy ra thôi. Nhưng còn khối thứ kì dị đáng ngạc nhiên để thu hút độc giả báo Chủ Nhật hơn là cái xác tàu không gian được tìm thấy trên cánh đồng ở Kentucky. Tôi không nghĩ có vị quan chức nào nhìn nhận tin tức đó một cách nghiêm túc.”
Bryce chăm chú quan sát y. “Cái gọi là ‘những cuộc xâm lăng từ ngoài vũ trụ’ thực sự là vớ vẩn sao?”
Newton cởi cúc cổ áo sơ mi. “Tôi nghĩ thế.”
“Vậy chủng tộc các anh tới đây làm gì? Để tham quan chắc?”
Newton bật cười. “Không hẳn. Biết đâu chúng tôi có thể giúp được các ông.”
“Giúp thế nào?” Không hiểu sao gã không thích cái cách y nói ra câu ấy. “Các ông giúp được gì cho chúng tôi?”
“Chúng tôi có thể cứu các ông khỏi hủy diệt chính mình, nếu chúng tôi hành động kịp thời.” Trước khi Bryce lên tiếng, y tiếp: “Ông hãy chịu khó nghe tôi nói. Tôi không nghĩ ông biết rằng việc được nói ra khiến tôi vui đến thế nào đâu, sau bao năm trời im lặng.” Y không cầm lại cốc rượu kể từ lúc nằm xuống giường. Hai tay y gấp lại đặt trên bụng, và vừa nhìn Bryce bằng ánh mắt hiền từ, y vừa nói: “Chúng tôi cũng phải trải qua nhiều cuộc chiến, ông biết đấy. Con số đó còn lớn hơn nhiều so với ở đây, và khó khăn lắm chúng tôi mới có thể sống sót. Vật liệu phóng xạ cũng bị tiêu tốn phần nhiều vào đó, vào những trái bom. Chủng tộc chúng tôi đã từng rất hùng mạnh, cực kì hùng mạnh, nhưng thời kì đó đã chấm dứt từ lâu. Giờ thì chúng tôi đang sống kiếp lay lắt.” Y cúi nhìn đôi tay mình như thể thăm dò. “Thật lạ là hầu hết những tác phẩm văn học giả tưởng các ông viết về sự sống trên hành tinh khác đều cho rằng mỗi hành tinh chỉ tồn tại duy nhất một chủng tộc thông minh, một chế độ xã hội, một ngôn ngữ, một chính quyền. Ở Anthea - hành tinh của chúng tôi là Anthea, dù đó không phải cái tên xuất hiện trong các sách thiên văn ở đây - chúng tôi từng có ba giống loài thông minh, và bảy chính quyền lớn. Giờ thì chỉ còn lại một giống loài nhỏ nhoi tồn tại, đó là giống loài của tôi. Chúng tôi là những kẻ sống sót qua năm cuộc chiến với vũ khí phóng xạ. Số lượng đồng bào tôi cũng không còn đông như trước nữa. Nhưng chúng tôi có hiểu biết rất sâu sắc về chiến tranh. Và về cả khoa học công nghệ.” Ánh mắt Newton vẫn dán vào hai bàn tay, tông giọng trở nên đều đều như thể y đang đọc một bài diễn văn đã chuẩn bị từ trước. “Tôi ở đây đã được năm năm, và tôi sở hữu số tài sản trị giá hơn ba trăm triệu đô la. Năm năm nữa, con số đó sẽ tăng lên gấp đôi. Mà đấy mới chỉ là khởi đầu. Nếu kế hoạch diễn ra suôn sẻ, cuối cùng, tại mỗi quốc gia lớn trên hành tinh này sẽ có một tập đoàn tầm cỡ World Enterprises. Sau đó chúng tôi sẽ tham gia vào chính trường. Và quân đội. Chúng tôi có hiểu biết về vũ khí và các biện pháp phòng vệ. Hệ thống của các ông vẫn còn thô sơ lắm. Chẳng hạn, chúng tôi có thể vô hiệu hóa radar - một điều rất cần thiết khi tôi cho tàu hạ cánh xuống đây, và càng cần thiết hơn khi chiếc phà chở đồng bào tôi quay lại. Chúng tôi còn có thể tạo ra hệ thống năng lượng có khả năng ngăn chặn kích hoạt bất cứ vũ khí hạt nhân nào của các ông trong bán kính năm dặm.”
“Như thế là đủ rồi chứ?”
“Tôi không biết. Nhưng các tộc trưởng của tôi không ngốc, họ dường như cho rằng việc đó khả thi. Miễn sao chúng tôi nắm giữ các thiết bị và tri thức trong tầm kiểm soát của mình, xây dựng nền kinh tế của quốc gia nhỏ bé ở nơi này, mua thực phẩm thặng dư thiết yếu ở nơi khác, mở ra nền công nghiệp ở đây, chuyển giao vũ khí cho một quốc gia và trao biện pháp phòng vệ cho quốc gia khác để chống lại nó...”
“Nhưng, trời đất, các ông đâu phải là thần thánh.”
“Đúng thế. Nhưng thần thánh của các ông đã bao giờ dang tay cứu giúp các ông chưa?”
“Tôi không biết. Chưa, dĩ nhiên là chưa.” Bryce châm một điếu thuốc lá. Gã phải làm đi làm lại đến ba lần, tay gã không thể giữ yên. Gã hít một hơi thật sâu, cố gắng bình tĩnh lại. Gã có cảm giác mình giống như một cậu sinh viên năm thứ hai đang tranh luận về số phận của nhân loại. Nhưng đây không hẳn là cuộc tranh luận về triết học trừu tượng. “Chẳng phải nhân loại được quyền tự lựa chọn hình thái hủy diệt của chính mình sao?” Gã hỏi.
Newton im lặng giây lát rồi mới nói. “Ông thực sự tin rằng nhân loại có cái quyền đó ư?”
Bryce dụi điếu thuốc hút dở vào chiếc gạt tàn bên cạnh. “Có. Hoặc không. Tôi không biết nữa. Chẳng phải tồn tại một thứ gọi là số phận của nhân loại sao? Quyền được hạnh phúc đủ đầy, được sống cuộc đời của riêng mình, chịu trách nhiệm cho những việc mình làm?” Khi nói ra những điều này, Bryce chợt nghĩ, Newton là mối liên hệ duy nhất với - gì nhỉ? - Anthea. Nếu Newton bị tiêu diệt, kế hoạch đó cũng đổ bể, tất cả sẽ chấm dứt. Mà Newton thì yếu ớt, vô cùng yếu ớt. Ý nghĩ ấy khiến gã hứng thú trong chốc lát. Gã, Bryce, có cơ hội đóng vai người hùng của những người hùng, kẻ có thể cứu cả thế giới này với một cú đấm ra trò. Điều này lẽ ra hết sức khôi hài, nhưng thực tế thì không.
“Có thể có cái gọi là số phận của nhân loại thật.” Newton nói. “Nhưng tôi nghĩ nó cũng tương tự số phận của loài bồ câu viễn khách thôi. Hoặc số phận của những sinh vật mình to não nhỏ, hình như gọi là khủng long.”
Câu này nghe có phần ngạo mạn. “Chưa chắc chúng tôi sẽ tuyệt chủng. Các bên đang đàm phán giải trừ vũ khí. Đâu phải ai trong chúng tôi cũng là kẻ mất trí.”
“Nhưng phần lớn là như thế. Bấy nhiêu là đủ rồi. Chỉ cần vài kẻ mất trí ở vào đúng chỗ của mình. Giả sử hồi đó gã Hitler của các ông nắm trong tay bom nhiệt hạch và tên lửa liên lục địa. Nếu vậy, hắn sẽ dùng chúng mà không cần quan tâm đến hậu quả chứ? Khi kết cục đến gần, hắn đâu còn gì để mất.”
“Làm sao tôi biết được dân Anthea các ông sẽ không giống như Hitler?”
Newton quay mặt đi. “Đó là một khả năng, nhưng khả năng đó không cao.”
“Xã hội của ông có phải là xã hội dân chủ?”
“Ở Anthea chúng tôi không có cái gì gọi là xã hội dân chủ, mà cũng chẳng tồn tại thể chế dân chủ. Nhưng chúng tôi không có ý định thống trị loài người các ông, ngay cả khi có thể.”
“Vậy thì gọi là gì, nếu ông có kế hoạch để cho một nhóm người Anthea thao túng con người và chính quyền ở khắp mọi nơi trên Trái Đất?”
“Ta có thể gọi theo cách như ông vừa nói: Thao túng, hoặc dẫn dắt. Mà chắc gì đã thành công. Rất có thể kế hoạch đó sẽ không thành. Các ông có thể sẽ phá hủy thế giới này trước, hoặc truy lùng chúng tôi và khởi động một cuộc săn phù thủy, chúng tôi mong manh và yếu ớt, ông biết mà. Hoặc giả, cho dù chúng tôi thâu tóm được quyền lực cực lớn đi chăng nữa, chúng tôi cũng đâu thể kiểm soát được mọi sự. Nhưng chúng tôi có thể làm giảm nguy cơ xuất hiện những kẻ như Hitler, có thể bảo vệ các thành phố trọng yếu khỏi bị tàn phá. Chừng đó, vẫn hơn những gì các ông có thể làm đấy.”
“Và các ông làm tất cả những việc đó chỉ là để giúp đỡ chúng tôi?” Bryce nghe thấy hàm ý mỉa mai trong giọng nói của mình, gã hy vọng Newton không nhận ra. Nếu Newton có biết đi chăng nữa, gã cũng không thể hiện điều gì ra mặt.
“Đương nhiên không phải. Chúng tôi tới đây là để cứu chính mình. Nhưng, chúng tôi không muốn người Anh-điêng thiêu rụi biệt khu của mình sau khi ổn định cuộc sống tại đó.” Y mỉm cười.
“Các ông cứu chính mình khỏi điều gì?”
“Khỏi sự diệt vong. Chúng tôi gần như không còn nước, không còn năng lượng, không còn tài nguyên thiên nhiên. Năng lượng mặt trời thì quá yếu, vì chúng tôi ở cách mặt trời quá xa, nguồn thực phẩm dự trữ vẫn dồi dào nhưng cũng bắt đầu cạn dần. Giờ chỉ còn chưa đầy ba trăm người Anthea còn sống.”
“Chưa đầy ba trăm? Trời đất, các ông đúng là đã khiến mình gần như tuyệt diệt!”
“Quả vậy. Và tôi cho rằng, chẳng bao lâu nữa các ông cũng sẽ chịu chung số phận nếu chúng tôi không tới.”
“Có lẽ các ông nên tới. Có lẽ thế.” Bryce cảm thấy cổ họng căng ra. “Nhưng nếu chẳng may có điều gì đó... xảy đến với ông trước khi con tàu hoàn thiện. Như vậy chẳng phải tất cả sẽ chấm hết hay sao?”
“Phải. Tất cả sẽ chấm hết.”
“Không còn nhiên liệu cho một con tàu nữa ư?”
“Không.”
Bryce nói, cảm thấy thật căng thẳng: “Điều gì ngăn được tôi chặn đứng việc này - cuộc xâm lăng, hay âm mưu thao túng này? Tôi có nên giết ông không? Ông rất yếu ớt, tôi biết. Tôi nghĩ xương của ông chắc chẳng khác gì xương chim, theo như những gì Betty Jo đã nói.”
Gương mặt Newton hoàn toàn không nao núng. “Ông có muốn ngăn chặn không? Điều ông nói cũng không sai đâu, ông có thể vặt cổ tôi dễ như vặt cổ gà. Ông muốn thế không? Giờ ông đã biết tên tôi là Rumplestiltskin, ông có muốn đuổi tôi khỏi cung điện không?”
“Tôi không biết.” Gã cụp mắt nhìn xuống sàn.
Giọng Newton nghe thật nhẹ nhàng: “Những Rumplestiltskin thực sự đã se được rơm thành vàng.”
Bryce ngẩng đầu, cơn giận đột ngột bùng lên. “Phải. Và hắn cũng tìm cách bắt đi đứa con của công chúa.”
“Tất nhiên.” Newton nói. “Nhưng nếu hắn không se rơm thành vàng thì công chúa cũng mất mạng. Và sẽ chẳng có đứa con nào hết.”
“Thôi được.” Bryce nói. “Tôi sẽ không vặt cổ anh để cứu thế giới nữa vậy.”
“Ông biết không, bây giờ tôi gần như ước gì ông có thể làm điều đó. Như thế, mọi việc với tôi sẽ đơn giản hơn nhiều.” Y ngừng lại giây lát. “Nhưng ông không thể.”
“Tại sao không?”
“Tôi đến thế giới của ông đâu phải không có sự chuẩn bị cho tình huống bị phát hiện. Dù tôi không lường trước được việc sẽ nói với bất cứ ai những gì tôi đã nói với ông. Tuy thế, vẫn còn rất nhiều điều tôi không lường trước.” Y lại cúi nhìn đôi tay mình, dường như đang xem xét bộ móng. “Bất luận thế nào, tôi có mang theo một loại vũ khí. Tôi luôn giữ thứ đó bên mình.”
“Vũ khí của người Anthea ư?”
“Phải. Một loại vũ khí rất hiệu quả. Ông sẽ không kịp băng qua phòng để tới chỗ tôi đâu.”
Bryce hít một hơi gấp gáp. “Thứ đó vận hành ra sao?”
Newton cười toe. “Thiên cơ bất khả lộ.” Y nói. “Biết đâu tôi sẽ phải dùng với ông thì sao.”
Cách nói của Newton có điều gì đó, không phải nét châm biếm hay sự ác ý vờ vịt trong tuyên bố ấy mà ở giọng điệu có chút lạ lùng của y, đã nhắc cho Bryce nhớ rằng dù thế nào gã cũng đang nói chuyện với một kẻ không phải là con người. Lớp vỏ bọc nhân tính đã qua mài giũa mà Newton khoác lên mình có thể đơn giản chỉ là thế, một vỏ bọc mong manh. Ẩn dưới vỏ bọc đó dù là gì đi nữa, những gì cốt yếu thuộc về Newton hay bản chất riêng của chủng tộc Anthea, đều là thứ mà Bryce hay bất cứ ai trên Trái Đất này cũng không thể tiếp cận. Những cảm nhận hay suy nghĩ thực sự của Newton có thể là điều vượt quá khả năng nhận thức của gã, hoàn toàn không thể biết.
“Bất luận vũ khí đó của ông là gì,” giờ gã lựa lời cẩn thận hơn, “tôi cũng hy vọng ông không phải dùng đến nó.” Gã lại đưa mắt nhìn quanh, nhìn căn phòng rộng rãi, khay đồ uống gần như chưa động đến, cuối cùng trở lại với Newton đang nằm ngả trên giường. “Lạy Chúa. Thật khó tin. Ngồi trong căn phòng này, khó mà tin được rằng tôi đang trò chuyện với một người đến từ hành tinh khác.”
“Đúng.” Newton đáp. “Đó cũng là điều tôi đã nghĩ. Tôi cũng đang trò chuyện với một người đến từ hành tinh khác đấy chứ.”
Bryce đứng dậy vươn vai, rồi gã bước tới cửa sổ, vén rèm nhìn xuống con phố bên dưới. Ánh đèn pha ô tô chiếu rọi khắp nơi, hầu như chẳng hề di chuyển. Ngay đối diện với khách sạn, một tấm biển quảng cáo khổng lồ được chiếu sáng với hình ông già Noel đang uống Coca-Cola. Những cụm đèn nhấp nháy khiến cặp mắt ông long lanh, Coca cũng lấp lánh sáng. Bryce nghe thấy tiếng chuông hòa âm của bài Adeste Fideles văng vẳng đâu đây.
Gã quay lại nhìn Newton, người vẫn yên vị ở chỗ cũ. “Tại sao ông lại nói với tôi những điều này? Ông đâu nhất thiết phải làm vậy.”
“Tôi muốn thế.” Y mỉm cười. “Suốt một năm qua tôi vẫn chưa thực sự chắc chắn về những mục đích của mình, tôi chưa rõ vì sao tôi lại muốn nói ra với ông. Người Anthea đâu phải cái gì cũng biết. Dù sao, ông biết tôi là ai rồi mà.”
“Ý ông là những điều Canutti đã nói? Đó có thể chỉ là mấy câu phán bừa để chọc tức tôi thôi. Có thể chẳng mang hàm ý sâu xa gì đâu.”
“Ý tôi không phải là về những gì Giáo sư Canutti nói. Dù tôi thấy phản ứng của ông lúc đó thật tức cười. Tôi cứ sợ ông sẽ lên cơn đột quị khi ông ta thốt ra hai từ ‘Sao Hỏa’. Nhưng việc ông ta nói ra điều đó chỉ tác động đến ông, chứ không phải tôi.”
“Tại sao ông thì không?”
“Chà, Tiến sĩ Bryce ạ, giữa tôi và ông có vô vàn điểm khác biệt mà ông khó lòng biết được. Một trong số đó là, thị lực của tôi tinh nhạy hơn ông nhiều, dải tần số khả kiến cũng cao hơn đáng kể. Nghĩa là tôi không nhìn thấy được cái màu mà ông gọi là màu đỏ. Nhưng tôi có thể nhìn thấy tia X.”
Bryce há miệng định nói, rồi lại thôi.
“Khi tôi thấy ánh đèn chớp lóe lên, không khó để nhận ra việc ông đã làm.” Y nhìn Bryce bằng ánh mắt dò hỏi. “Hình ảnh thu được trông thế nào?”
Bryce cảm thấy mình thật ngốc, y như cậu học trò vừa sa bẫy. “Hình ảnh... rất phi thường.”
Newton gật đầu. “Tôi có thể hình dung. Ông mà thấy được các cơ quan nội tạng của tôi thì ông cũng sẽ kinh ngạc lắm. Có lần tôi đến thăm bảo tàng lịch sử tự nhiên ở New York. Đó là nơi rất thú vị đối với một... một du khách. Trong lúc tham quan, tôi chợt nghĩ mình chính là tiêu bản độc nhất vô nhị ở đây. Tôi tưởng tượng mình bị ngâm giấm trong một cái lọ, dán nhãn đề mấy chữ ‘Sinh vật ngoài hành tinh hình người’. Thế là tôi chuồn vội.”
Bryce không kìm được, phá lên cười. Còn Newton, sau khi đã thú nhận tất cả, dường như y có vẻ cởi mở hơn, và ngược đời thay, có vẻ càng “người” hơn, dù y đã khẳng định mình không phải người. Gương mặt y giàu biểu cảm hơn, cung cách y thoải mái hơn hẳn so với những gì Bryce từng thấy. Nhưng đâu đó vẫn thấp thoáng bóng dáng một Newton khác, một Newton mang dòng máu Anthea thuần túy, xa lạ, không thể chạm tới. “Ông có kế hoạch trở lại quê hương không?” Bryce hỏi. “Bằng con tàu đó ấy?”
“Không. Việc đó không cần thiết. Con tàu sẽ được điều khiển từ chính Anthea. E rằng tôi phải sống kiếp lưu vong ở đây mãi mãi.”
“Anh có nhớ... đồng bào của mình không?”
“Tôi nhớ.”
Bryce quay về ghế ngồi. “Nhưng chẳng bao lâu nữa anh sẽ gặp lại họ mà?”
Newton ngần ngừ. “Có thể.”
“Sao lại có thể? Ông sợ có bất trắc gì ư?”
“Ý tôi không phải thế. Lúc nãy tôi đã bảo với ông là tôi chưa hoàn toàn chắc chắn về dự tính của mình.”
Bryce bối rối nhìn y. “Tôi chưa hiểu.”
“Hừm.” Newton khẽ cười. “Lâu nay tôi đã cân nhắc về việc bỏ ngang kế hoạch, không gửi con tàu đi đâu hết, thậm chí không hoàn tất việc thi công. Chỉ cần một lệnh ban ra là xong.”
“Vì Chúa, tại sao chứ?”
“À, kế hoạch đó kể cũng khôn ngoan, dù là hạ sách. Nhưng chúng tôi còn lựa chọn nào khác?” Newton nhìn gã nhưng dường như không thấy gã. “Tuy vậy, lâu nay tôi bắt đầu cảm thấy nghi ngờ về việc rốt cuộc kế hoạch đó có đáng hay không. Văn hóa của các ông, xã hội của các ông ở đây, vẫn còn nhiều điều mà chúng tôi ở Anthea chưa biết. Ông biết không, Tiến sĩ Bryce.” Y đổi tư thế, rướn người lại gần Bryce hơn. “Có đôi khi tôi nghĩ trong vòng vài năm nữa thôi tôi sẽ hóa điên mất. Tôi không dám chắc đồng bào của tôi sẽ trụ được ở thế giới này. Chúng tôi đã sống quá lâu trong tháp ngà.”
“Nhưng các ông có thể sống tách biệt khỏi thế giới. Ông có tiền, có thể ở lại với đồng loại, thiết lập xã hội của riêng mình.” Gã đang làm gì thế này, lại đi bênh vực... kế hoạch xâm lăng của dân Anthea sao? Dù mới đây thôi nó còn khiến gã sợ hãi và choáng váng? “Các ông có thể xây dựng thành phố của riêng mình, ở Kentucky.”
“Rồi ngồi chờ bom rơi xuống đầu ư? Chúng tôi thà ở lại Anthea còn hơn. Ít nhất ở đó chúng tôi sẽ được sống thêm năm mươi năm nữa. Chứ nếu ở đây, sẽ chẳng có biệt khu dành cho những kẻ quái dị. Chúng tôi phải chia nhau ra, tản mát khắp nơi trên thế giới, gài mình vào những vị trí có tầm ảnh hưởng. Nếu không, sẽ thật dại dột khi kéo nhau đến đây.”
“Dù làm gì đi nữa, các ông vẫn sẽ phải đối mặt với hiểm họa khôn lường. Chẳng lẽ ông không thể mạo hiểm tin vào việc con người chúng tôi sẽ tự giải quyết được vấn đề của mình, nếu ông sợ phải tiếp xúc mật thiết với chúng tôi?” Gã mỉm cười chua chát. “Các ông cứ việc làm khách thôi.”
“Tiến sĩ Bryce này,” Newton nói, nụ cười đã tắt trên gương mặt y, “dân Anthea chúng tôi thông tuệ hơn các ông gấp nhiều lần. Tin tôi đi, chúng tôi khôn ngoan hơn nhiều so với những gì các ông có thể tưởng tượng đấy. Và chúng tôi có niềm tin xác tín rằng, cùng lắm chỉ ba mươi năm nữa thôi, thế giới của các ông sẽ bị nghiền nát dưới sức mạnh nguyên tử, nếu cứ để cho các ông tự tung tự tác.” Y nói tiếp bằng giọng nghiêm nghị. “Thú thật với ông, chúng tôi vô cùng đau xót khi phải chứng kiến những việc các ông sắp làm với thế giới tươi đẹp, màu mỡ này. Chúng tôi đã hủy hoại thế giới của mình từ lâu, nhưng ngay từ đầu chúng tôi đâu được hưởng nhiều lợi thế như các ông ở đây.” Giọng y dường như trở nên kích động, thái độ cũng căng thẳng hơn. “Các ông có nhận thấy rằng mình sẽ không chỉ tàn phá nền văn minh, hay những gì ít ỏi còn sót lại của nó, cướp đi sinh mạng phần lớn đồng loại của mình, mà hơn thế nữa các ông còn đầu độc cả đàn cá dưới sông, bầy sóc trên cây, rồi chim chóc, đất đai, và nguồn nước? Có nhiều khi, trong mắt chúng tôi, các ông chẳng khác gì bầy vượn chạy rông trong viện bảo tàng, cầm dao rạch tan nát những bức họa, dùng búa phá tanh bành những bức tượng.”
Một lúc lâu Bryce không nói gì. Sau đó gã lên tiếng: “Nhưng chính con người đã vẽ nên những bức tranh, làm nên những bức tượng.”
“Chỉ số ít thôi.” Newton đáp. “Chỉ một vài người trong số đó.” Y thình lình đứng phắt dậy: “Tôi nghĩ trải nghiệm ở Chicago với tôi như thế là đủ rồi. Ông có muốn về nhà không?”
“Bây giờ sao?” Bryce xem đồng hồ đeo tay. Trời đất ơi, hai rưỡi sáng. Giáng Sinh đã qua rồi.
“Thế ông nghĩ đêm nay ông có ngủ được nữa không?” Newton nói.
Gã nhún vai. “Chắc là không.” Sau đó, nhớ lại điều Betty Jo đã nói, gã hỏi: “Ông không bao giờ ngủ à?”
“Đôi lúc cũng có, nhưng không thường xuyên.” Y ngồi xuống bên chiếc điện thoại. “Tôi phải đánh thức phi công dậy. Và chúng ta cần có xe chở ra sân bay...”
Gọi xe quả là khó khăn, mãi tới bốn giờ họ mới đến được sân bay. Lúc đó Bryce bắt đầu cảm thấy đầu óc quay cuồng, hai tai hơi ù. Newton không mảy may tỏ ra mệt mỏi. Gương mặt y, vẫn như mọi khi, chẳng có biểu hiện nào cho biết y đang nghĩ gì.
Có một chút rắc rối và chậm trễ trong thủ tục xin phép cất cánh, nên đến lúc máy bay có thể khởi hành và bay qua hồ Michigan, hừng đông đã bắt đầu ửng lên một màu hồng nhạt.
Khi họ về đến Kentucky thì trời đã sáng, mở ra một ngày Đông quang đãng. Lúc chuẩn bị hạ cánh, thứ đầu tiên họ trông thấy là phần thân sáng lóa của con tàu, chiếc phà của Newton, trông chẳng khác nào một tượng đài bóng bẩy dưới ánh mặt trời sớm mai. Thế rồi, khi chuẩn bị đáp xuống, họ bắt gặp một điều bất ngờ. Phía cuối đường băng, duyên dáng đậu bên cạnh nhà để máy bay của Newton là một chiếc máy bay trắng thuôn dài tuyệt đẹp, lớn gấp đôi máy bay của họ. Trên cánh chiếc máy bay kia có phù hiệu của Không lực Hoa Kì. “Chà, không biết vị khách nào ghé thăm chúng ta thế nhỉ.” Newton nói.
Hai người phải cuốc bộ qua chỗ chiếc máy bay trắng trên đường ra xe điện một ray, và khi đi qua, Bryce không thể không trầm trồ trước vẻ đẹp của nó: Tỉ lệ cân xứng tuyệt vời, những đường nét thật thanh thoát. “Giá mà mọi thứ chúng tôi tạo ra đều đẹp đẽ đến nhường kia,” gã cảm thán.
Newton cũng đang ngắm cái máy bay. “Nhưng các ông không làm thế.” Y nói.
Ngồi trong chiếc xe, cả hai không ai nói gì. Tay chân Bryce đang cần được ngủ nghỉ lắm, nhưng tâm trí gã lại đang đầy rẫy những hình ảnh sắc nét loang loáng vụt qua, những ý tưởng, và những suy nghĩ còn dang dở.
Gã đáng lẽ đã định về thẳng nhà, nhưng khi Newton mời gã ở lại dùng bữa sáng, gã cũng nhận lời. Như thế sẽ dễ dàng hơn là phải lục tìm đồ ăn ở nhà.
Betty Jo đã dậy, cô mặc chiếc kimono màu cam, đầu choàng khăn babushka lụa. Mặt cô đầy vẻ lo âu, mắt đỏ hoe sưng húp. Khi mở cửa, cô nói: “Có mấy người tìm đến đây, thưa anh Newton. Tôi không biết...” Cô ngập ngừng bỏ lửng câu nói. Hai người đi lướt qua cô để vào phòng khách. Ngồi trên ghế là năm người đàn ông, bọn họ vội vàng đứng dậy khi Newton và Bryce xuất hiện.
Brinnarde ngồi ở chính giữa nhóm. Ba người đàn ông khác mặc com lê, người thứ tư mặc đồng phục màu xanh lam, rõ ràng là phi công của chiếc máy bay Không lực. Brinnarde giới thiệu bọn họ với cung cách dứt khoát, trung dung. Khi xong xuôi, Newton vẫn đứng nguyên đó, hỏi: “Các vị đợi có lâu không?”
“Không.” Brinnarde đáp, “Không lâu. Thực ra, chúng tôi đã khiến các ông bị trì hoãn ở sân bay Chicago cho tới khi chúng tôi tới được đây. Thời gian được tính toán rất chính xác. Tôi hi vọng các ông không gặp quá nhiều rắc rối khi bị giữ lại ở Chicago.”
Nét mặt Newton hoàn toàn vô cảm. “Ông làm điều đó bằng cách nào?”
“Chà, thưa ông Newton, tôi là người của Cục Điều tra Liên bang. Còn đây là các đồng nghiệp của tôi.” Brin