Phần Một Chương 1
Tình yêu đích thực tựa như ma Ai ai cũng nhắc đến Có mấy người trải qua — FRANCOIS, CÔNG TƯỚC XỨ LA ROCHEFOUCAULD,
CHÂM NGÔN THỨ 76
Lần đầu tự đẩy mình vào chỗ chết, Ross Wakeman suýt thành công, nhưng lần thứ hai và thứ ba chết hụt thì không phải do anh.
Lần thứ hai, anh ngủ gục trên tay lái nên phóng xe lao qua thành cầu và rớt xuống hồ nhưng được đội cứu hộ tìm thấy. Khi chiếc Honda nửa chìm nửa nổi được trục vớt, cửa xe đều còn khóa kín, kính cửa sổ cường lực rạn như mạng nhện mà vẫn nguyên vẹn. Sau vụ tai nạn chẳng ai hiểu làm sao anh ta thoát khỏi xe mà không hề trầy xước.
Lần thứ ba, Ross bị cướp ở New York. Tên cướp trấn lột ví tiền, đập Ross một trận nhừ tử, nã một phát vào lưng anh rồi trốn mất dạng. Với cự ly gần như thế, viên đạn lẽ ra phải khiến xương vai vỡ vụn và đâm thủng phổi. Vậy mà như có phép thần, viên đạn kẹt lại ngay khi vừa chạm xương. Mẩu đạn chì bé tẹo giờ đang được Ross dùng làm móc chìa khóa.
Còn lần đầu tiên suýt chết là vài năm trước, khi Ross mắc kẹt giữa một trận bão sét. Tia sét màu xanh tuyệt đẹp bất chợt xuất hiện trên nền trời rồi phóng thẳng trúng tim anh. Mấy bác sĩ đều nói anh đã chết lâm sàng khoảng bảy phút. Họ nói rằng tia sét không đánh trúng Ross trực tiếp. Nếu dòng điện mạnh 50,000 ampe thực sự truyền thẳng vào lồng ngực, nó sẽ làm nước trong tế bào bốc hơi và khiến anh nổ tung đúng theo nghĩa đen. Tia sét chỉ sượt qua, tạo ra dòng điện cảm ứng khiến nhịp tim anh rối loạn. Mấy tay bác sĩ đều trầm trồ cái gã này sao mà may mắn quá.
Mấy gã đó đều sai bét.
Lúc này, Ross chẳng buồn cẩn trọng khi dò dẫm trên mái nhà đen thui ướt nhẹp của gia đình O’Donnells’ Oswego vào ban đêm. Trời đã vào tháng Tám mà gió lùa vào từ hồ Ontario vẫn còn lạnh buốt, thổi mấy sợi tóc dài vào mắt khi anh khéo léo rướn mình qua ô cửa sổ xiêu vẹo. Nước mưa vỗ xuống gáy khi anh loay hoay gắn mấy cái kẹp vào máng xối và chỉnh lại máy quay phim chống thấm nước hướng vào tầng gác mái.
Đôi ủng của anh trượt một phát, khiến vài tấm ván lợp cũ mèm rơi xuống. Ông O’Donnel che ô đứng dưới đất, nheo mắt dõi theo anh. “Cẩn thận đấy,” ông ta hét lên. Ross ngầm hiểu lời O’Donnel muốn nói: Chừng ấy hồn ma là đủ lắm rồi.
Nhưng Ross sẽ chẳng làm sao cả đâu. Anh sẽ không trượt chân; anh sẽ không ngã. Đây là lý do vì sao hết lần này đến lần khác, anh sẵn sàng lao vào nguy hiểm và liều mạng như nhảy bungee, leo núi và hút ma túy. Anh vẫy tay với ông O’Donnell, ra hiệu rằng mình đã nghe thấy. Nhưng Ross biết mặt trời sẽ mọc sau tám tiếng nữa, cuộc sống của anh vẫn tiếp diễn, và dù muốn đến đâu thì mình cũng không chết được.
Tiếng trẻ con khiến Spencer Pike tỉnh giấc và loay hoay ngồi dậy. Tất cả phòng trong Viện Dưỡng Lão Shady Pines đều bật đèn ngủ, nhưng ông biết dù có bật điện hết công suất đủ để chiếu sáng cả thành phố Burlington này thì mình cũng chẳng thấy gì quá phạm vi chân giường. Bệnh đục thủy tinh thể khiến ông chẳng nhìn được gì. Những lúc bước ngang qua gương soi để vào phòng vệ sinh, ông loáng thoáng thấy ai đó đang nhìn mình - một anh chàng với hàng lông mày chưa lốm đốm ngả vàng; một người hoàn toàn khác với làn da nhăn nheo bọc ngoài khung xương hiện tại. Nhưng bóng dáng Spencer một thời trẻ trung vụt tan biến, bỏ lại ông với những mảnh vụn sót lại của đời mình.
Dù vậy, đôi tai ông vẫn còn rất thính. Khác với mấy lão già lẩm cẩm ở đây, Spencer chưa bao giờ cần đến máy trợ thính. Quỷ thật, ông còn nghe được những thứ ông chẳng buồn quan tâm.
Trời ơi, đứa nhỏ lại khóc nữa rồi.
Ông vén chăn, bấm nút bên cạnh giường. Một lúc sau, y tá trực đêm bước vào hỏi, “Ông Pike, có việc gì sao?”
“Có đứa nhỏ cứ khóc mãi.”
Cô y tá nhanh nhẹn xoay gối và nâng cao đầu giường sau lưng ông. “Ông Pike, chẳng có đứa trẻ nào ở đây cả. Đó chỉ là mơ thôi.” Cô vỗ nhẹ lên bờ vai một thời rắn rỏi của Spencer. “Bây giờ thì ông nên ngủ tiếp đi. Ngày mai sẽ bận rộn lắm đấy. Ông có hẹn đúng không?”
Ông tự hỏi vì sao cô ta nói chuyện như đang dỗ con nít vậy? Vì sao ông lại ngoan như một đứa con nít - mặc cô đỡ ông nằm xuống giường và kéo chăn lên ngực? Một loạt ký ức chực chờ dâng trào nơi cổ họng, tiếp đó là một cảm giác mơ hồ khiến ông rơm rớm nước mắt. Cô y tá ân cần hỏi: “Ông có cần vài viên Naproxen cho dễ chịu không?”
Spencer lắc đầu. Từng là nhà khoa học, ông biết rõ chẳng có phòng thí nghiệm nào bào chế được loại thuốc xoa dịu nỗi đau này.
Curtis Warburton ngoài đời trông nhỏ con hơn trên truyền hình. Nhưng chuyện này chẳng hề ảnh hưởng đến sức quyến rũ của anh, thứ khiến chương trình Đêm Rùng Rợn trở thành một trong những tiết mục ăn khách nhất. Mái tóc đen ngắn với vệt tóc bạc trông như lông chồn hôi - anh thành ra thế từ chín năm trước, khi hồn ma của ông nội hiện về ngay chân giường. Sau đêm ấy, anh ta bắt đầu dấn thân vào lĩnh vực điều tra hiện tượng tâm linh. Maylen vợ anh ta có dáng người thấp bé nhưng khả năng ngoại cảm vang danh đến tận sở cảnh sát Los Angeles. Cô đang ngồi bên cạnh và mải miết ghi chép khi Curtis đặt câu hỏi cho ông bà chủ nhà.
“Đầu tiên là tại nhà bếp,” bà Eve O’Donnell thì thào, và chồng bà gật gù. Hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu. Hai người mua căn nhà bên hồ này làm nơi nghỉ hè, nhưng suốt ba tháng ở đây, họ gặp nhiều hiện tượng kỳ quái ít nhất hai lần mỗi tuần. “Khoảng mười giờ sáng, tôi khóa hết cửa, đặt chuông báo động và đi đến bưu điện. Lúc về nhà, chuông báo động vẫn đang bật… nhưng tất cả tủ bếp trong nhà đều mở toang, mấy hộp ngũ cốc nằm la liệt trên bàn và vương vãi xung quanh. Tôi gọi tên Harlan vì nghĩ rằng ông ấy mới về nhà và là thủ phạm của đống lộn xộn này.”
“Tôi ở câu lạc bộ Elks suốt buổi sáng,” chồng bà ngắt lời. “Chưa từng về nhà. Nhà chẳng ai làm chuyện đó cả.”
“Lúc hai giờ sáng, chúng tôi nghe thấy tiếng đàn calliope vọng lại từ tầng gác mái. Nhưng khi chúng tôi bước lên đó thì tiếng nhạc ngừng lại. Lúc mở cửa ra, chúng tôi thấy một chiếc đàn piano đồ chơi không hề gắn pin nằm ngay giữa sàn.”
“Chúng tôi không có cây đàn piano đồ chơi nào,” ông Harlan nói thêm. “Nhà cũng chẳng có trẻ con.
“Khi chúng tôi thử gắn pin vào thì tiếng nhạc phát ra từ cái đàn lại không giống với âm thanh kia.” Bà Eve ngập ngừng. “Anh Warburton, tôi hy vọng anh hiểu rằng chúng tôi không phải là những người tin… tin vào những thứ như thế. Chỉ là… chỉ là nếu như không phải là nó thì có lẽ tôi đang mất trí rồi.”
“Bà O’Donnell, bà không bị mất trí đâu.” Curtis khẽ nắm tay bà ra vẻ cảm thông. “Đến sáng mai là chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về chuyện gì đang diễn ra tại nhà hai vị.” Anh ngoái đầu ra sau để đảm bảo Ross ghi lại đoạn phim này. Tùy vào việc xảy ra sau đó, nhà O’Donnells có thể xuất hiện trên chương trình Đêm Rùng Rợn. Nếu vậy thì thước phim này rất quan trọng. Mỗi ngày, nhóm Warburtons nhận được hơn ba trăm thư điện tử từ những người tin rằng nhà họ bị ma ám. Tám mươi lăm phần trăm vụ việc hóa ra là những trò chơi khăm hoặc do chuột trên nóc nhà. Những vụ còn lại thì - theo kinh nghiệm của Ross - không thể giải thích một cách đơn giản được.
“Ông bà từng thấy ma chưa?” Curtis hỏi. “Hoặc là cảm giác nhiệt độ thay đổi đột ngột?”
“Phòng ngủ hai vợ chồng tôi đột nhiên nóng như địa ngục khoảng một phút, sau đó lại lạnh đến rùng mình,” ông Harland trả lời.
“Ông bà có cảm thấy đặc biệt không thoải mái với chỗ nào trong nhà không?”
“Tầng gác mái. Còn cả phòng tắm trên lầu nữa.”
Curtis đưa mắt nhìn từ tấm thảm thủ công đậm chất Đông phương đến chiếc bình cổ trên bệ lò sưởi. “Tôi phải khuyến cáo hai vị rằng bắt ma là công việc rất tốn kém đấy.”
Là nhà nghiên cứu thực địa trong nhóm Warburtons, Ross được cử đến thư viện, khu tư liệu báo chí để tìm tài liệu về căn nhà hay vụ giết người hoặc tự tử từng xảy ra ở đó. Công tác điều tra của anh chẳng mang lại thông tin gì đáng giá, nhưng Curtis không hề muốn bỏ cuộc. Dù sao thì ma quỷ có thể ám cả người lẫn nhà. Lịch sử luôn để lại vết tích, như mùi nước hoa nhàn nhạt hay vệt ký ức in đậm sau ánh mắt.
“Cứ tiến hành thôi,” bà Eve O’Donnell đáp. “Tiền bạc không thành vấn đề.”
“Tất nhiên là vậy rồi.” Curtis vừa cười vừa vỗ tay đánh bốp lên đầu gối. “Tốt lắm. Chúng tôi có vài việc phải làm.”
Đó là ám hiệu của Ross. Trong quá trình điều tra, anh chịu trách nhiệm thiết lập và giám sát các thiết bị điện từ, máy quay video kỹ thuật số, nhiệt kế hồng ngoại. Bất chấp lợi nhuận kếch xù do chương trình truyền hình và những vụ làm ăn kiểu này mang lại, Ross làm việc với mức lương rẻ mạt. Chín tháng trước, sau khi đọc về nhóm Warburtons trên tờ tạp chí L.A. Times vào ngày lễ Halloween, Ross đã phải nài nỉ họ nhận mình vào làm. Khác với Curtis và Maylene, dù rất muốn nhưng anh chưa từng thấy một linh hồn nào cả. Anh hy vọng khả năng ngoại cảm có thể lây qua đường tiếp xúc giống như bệnh đậu mùa và in lại dấu ấn vĩnh viễn trên người anh.
“Tôi nghĩ mình nên kiểm tra tầng gác mái,” Ross đề nghị.
Anh đứng giữa hành lang, đợi bà Eve O’Donnel dẫn đường. Dù anh chẳng hề thắc mắc nhưng bà vẫn thừa nhận, “Tôi cảm thấy thật là ngu ngốc, từng tuổi này rồi mà còn thấy ma Casper.”
Ross mỉm cười. “Ma có thể làm bà rùng mình một tí, hoặc khiến bà nghĩ mình bị mất trí nhưng sẽ không làm hại bà đâu.”
“Ồ, tôi cũng không nghĩ cô ấy sẽ hại tôi.”
“Cô ấy?”
Bà Eve ngập ngừng. “Harlan dặn tôi không được chia sẻ quá nhiều thông tin để tránh việc các anh hiểu sai vấn đề.” Bà rùng mình, liếc mắt về phía cầu thang. “Em gái tôi mất hồi tôi bảy tuổi. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi… liệu ma có tìm được người nào đó nếu nó muốn?”
Ross hướng mắt ra chỗ khác. “Tôi không biết nữa,” anh đáp, thầm ước giá mà mình có thể đáp lời bà ấy với một câu trả lời cụ thể hay chia sẻ trải nghiệm cá nhân. Mắt anh sáng lên khi nhìn thấy cánh cửa nhỏ ngay trên bậc cầu thang. “Ở đây à?”
Bà gật đầu, để anh vượt lên trước và mở cửa. Chiếc máy quay phim Ross gắn ngoài cửa sổ trông như con mắt của người khổng lồ Cyclops đang dõi theo hai người. Eve sợ đến rúm ró cả người. “Bước vào đây là tôi thấy ớn lạnh.”
Ross dời mấy cái hộp để tránh trường hợp hình bóng kỳ lạ nào đó xuất hiện trong thước phim bị nhận nhầm. “Curtis nói đó là cách tìm ra họ, chỉ cần nghe theo cảm giác mách bảo.” Mắt anh nhìn trúng thứ gì đó lấp lánh trên sàn nhà. Anh khuỵu gối nhặt lên vài đồng xu. “Tất cả có 6 xu.” Anh mỉm cười. “Kỳ quái thật.”
“Thỉnh thoảng cô ấy vẫn làm vậy.” Bà Eve lùi dần về phía cửa, hai tay ôm lấy vai. “Luôn để lại cho chúng tôi mấy đồng xu lẻ ấy.”
“Con ma đấy sao?” Ross xoay người lại thắc mắc nhưng bà Eve đã chạy xuống lầu.
Hít một hơi thật sâu, Ross đóng cửa phòng gác mái lại và tắt hết đèn, để bóng tối tràn ngập căn phòng nhỏ. Anh lách mình sang góc phòng, tránh khỏi tầm máy quay phim rồi khởi động nó bằng điều khiển từ xa. Sau đó Ross cố tập trung vào bóng tối bủa vây trước ngực và sau hai đầu gối, giống như chỉ dẫn của Curtis Warburton. Ross thả lỏng tất cả giác quan, chờ đến khi sự hoài nghi giảm dần và khoảng không xung quanh mở rộng. Anh thầm nghĩ, có lẽ chính là cảm giác này. Cảm giác khi những bóng ma vây quanh giống như cổ họng lúc nấc nghẹn.
Bên trái có tiếng bước chân, kèm theo tiếng leng keng không lẫn vào đâu được của mấy đồng xu rớt trên sàn. Ross bật đèn pin rọi quanh phòng, đến chỗ đôi ủng của mình thì thấy có ba đồng xu nằm đó. “Aimee?” anh thì thào với khoảng không trống trải. “Có phải em không?”
Thị trấn Comtosook bang Vermont nằm giữa nhiều ranh giới tự nhiên: vùng trũng dẫn nước chảy vào hồ Champlain, vách núi dựng đứng bao quanh mỏ đá granite nơi nửa số dân thị trấn đang làm việc. Dường như có một giới tuyến vô hình ngăn giữa vùng nông thôn bang Vermont và thành phố Burlington liền kề. Nhà thờ thuộc Tự trị giáo đoàn ở trung tâm thành phố có treo một bảng hiệu ca ngợi Comtosook là vùng đất đẹp nhất tiểu bang do tạp chí Đời Sống Vermont trao tặng năm 1994. Thật không sai. Có những ngày, Eli Rochert chỉ biết nín thở ngắm nhìn tán lá đang chuyển màu, nào là màu hồng ngọc, màu hổ phách và cả màu ngọc lục bảo.
Nhưng dù khách du lịch có nghĩ gì về Comtosook thì đây vẫn là quê hương Eli. Đã từng, và mãi mãi. Anh vẫn cho là vậy. Tất nhiên, với cương vị là một trong hai cảnh sát của thị trấn, anh biết rõ những gì du khách thấy chỉ là ảo ảnh. Từ lâu Eli đã biết có những thứ dù có cố nhìn chằm chằm thì cũng không thấy được những gì nằm ẩn sâu dưới mặt ngoài.
Anh lái xe dọc con phố Nghĩa Trang. Anh vẫn hay tuần tra vào những đêm trăng tròn vành vạnh tỏa ra ánh vàng như mắt diều hâu. Mấy cửa sổ xe đều kéo xuống nhưng chẳng có ngọn gió nào thổi qua. Phần tóc đen ngắn ngủn sau gáy Eli nhớp nháp dính vào gáy. Ngay cả Watson, chú chó săn của anh, cũng đang thở hổn hển trên ghế sau.
Mấy tấm bia mộ cũ kỹ nằm ngả nghiêng như những chiến binh với đôi chân rệu rã. Bên trái khu nghĩa trang, gần chỗ cây sồi, là bia mộ kỳ quặc nhất của thị trấn Comtosook. Bia đề, WINNIE SPARKS. SINH NĂM 1835. QUA ĐỜI NĂM 1901. QUA ĐỜI NĂM 1911. Truyền thuyết kể rằng khi đang trên đường đưa tang cho bà lão cay nghiệt có tiếng ra khu nghĩa địa thì mấy con ngựa kéo lồng lên, khiến quan tài rớt xuống. Sau đó nắp quan tài bật ra, bà Winnie ngồi dậy, leo ra khỏi đó rồi khạc nhổ điên cuồng. Mười năm sau khi bà chết - thêm một lần nữa - thì ông chồng tội nghiệp đã đóng đến 150 chiếc đinh trên nắp quan tài để phòng chuyện trước kia.
Câu chuyện đó dù có thật hay không thì cũng chẳng liên quan gì tới Eli. Nhưng mấy đứa choai choai trong thị trấn lại nghĩ rằng chuyện bà Winnie sống dậy sau khi chết là lý do để bọn nó mang bia rượu đến nghĩa trang. Eli duỗi thân hình cao lớn ra khỏi chiếc xe tải. “Mày đi chứ?” anh hỏi chú chó của mình, nhưng nó ngồi phịch xuống ghế thay cho câu trả lời. Eli lắc đầu, len lỏi ngang qua nghĩa trang rồi dừng bước trước ngôi mộ của bà Winnie. Ngay chỗ đó là bốn cậu nhóc đã say xỉn đến mức chẳng nghe thấy tiếng bước chân anh. Bọn nhóc đang vây quanh ngọn lửa màu xanh nhỏ xíu được đốt bằng cồn khô.
“Ê,” Eli cộc lốc.
“Cảnh sát đến!”
“Chết rồi!” Tiếng giẫm đạp của mấy đôi giày sneaker, tiếng chai bia đập vào nhau lanh canh khi bọn nhóc nháo nhào bỏ chạy. Dĩ nhiên Eli có thể tóm gọn chúng ngay tức khắc nhưng lần này anh quyết định tha cho chúng. Anh rọi đèn vào cậu nhóc cuối cùng đang chạy trốn, sau đó lia đèn xuống đống lộn xộn dưới đất. Bọn nhóc để lại làn khói mang hương vị ngòn ngọt và hai chai bia Rolling Rock chưa mở. Eli có thể hưởng chúng sau giờ làm việc.
Eli cúi người xuống, hái cành hoa bồ công anh mọc dưới bia mộ của bà Winnie. Ngay khi cành hoa bồ công anh rời khỏi đất, một từ lóe lên trong tâm trí anh: chibaiak... nghĩa là hồn ma. Thứ thổ ngữ của bà ngoại khé cháy trong cổ họng Eli như kẹo bạc hà. “Làm gì có thứ ấy,” anh nói to lên rồi quay về xe để tiếp tục tuần tra.
Sau một ngày ngủ li bì, Shelby Wakeman mệt nhoài tỉnh giấc. Cô lại mơ giấc mơ đó. Cô lại mơ thấy Ethan vừa đứng cạnh cô tại sân bay, nhưng lúc quay sang thì cậu bé đã biến mất. Cô điên cuồng chạy từ nhà ga này sang nhà ga khác để tìm con trai. Cuối cùng, khi rượt tới cửa dẫn ra đường băng trải nhựa, cô nhìn thấy đứa con chín tuổi đứng chắn ngay trước chỗ máy bay phản lực đang hạ cánh.
Cảnh tượng đó làm Shelby khiếp sợ, dù đã tự nhủ với bản thân không biết bao nhiêu lần rằng chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra - cô sẽ không bao giờ dẫn Ethan đến sân bay vào ban ngày, lại càng không rời mắt khỏi cậu bé. Nhưng điều khiến cô hãi hùng nhất chính là hình ảnh con cô đứng đó, hai tay dang rộng, khuôn mặt non nớt búng ra sữa hướng về phía mặt trời.
“Mẹ ơi dậy đi… Mẹ ơi?”
“Xin lỗi con.” Shelby mỉm cười. “Chỉ là giấc mộng ngày thôi.”
Ethan dùng nước tráng sơ qua đĩa thức ăn rồi để vào máy rửa bát. “Mẹ vẫn nghĩ đó là giấc mộng ngày khi mơ thấy nó ban đêm sao?” Trước khi cô kịp trả lời, cậu bé đã túm lấy chiếc ván trượt như vật bất ly thân. “Gặp mẹ ngoài kia nhé?”
Cô gật đầu nhìn theo hình bóng Ethan chạy ào ra sân trước. Chẳng biết đã bao nhiêu lần cô phải dặn Ethan giữ im lặng - mới 4 giờ sáng, người ta còn đang ngủ nên cậu bé không được nghịch ngợm bằng ván trượt như thế. Ethan thường quên mất, và Shelby cũng chẳng buồn nhắc nhở con trai nhiều.
Ethan mắc bệnh khô da sắc tố. Đây là một căn bệnh di truyền hiếm gặp khiến cậu bé cực kỳ mẫn cảm với tia cực tím từ mặt trời. Trên thế giới chỉ có khoảng hơn 1000 trường hợp mang bệnh này. Nếu như mắc phải, người đó sẽ mang bệnh từ khi sinh ra và phải chịu đựng nó suốt đời.
Khi Ethan mới được 6 tuần tuổi, Shelby đã để ý con mình có gì đó không ổn, nhưng phải sau hơn một năm mới chẩn đoán được cậu bé bị bệnh khô da sắc tố. Theo lời giải thích của bác sĩ thì tia cực tím sẽ gây hại đến ADN của con người. Hầu hết mọi người đều có khả năng tự hồi phục… nhưng người bệnh khô da sắc tố thì không. Bởi cuối cùng tia cực tím sẽ ảnh hưởng đến việc phân chia tế bào và dẫn đến bệnh ung thư. Bác sĩ cho rằng Ethan may ra sống đến tuổi thiếu niên.
Nhưng Shelby nghĩ nếu ánh mặt trời có thể giết chết con mình thì những gì cô cần làm là duy trì bóng tối. Cô ở trong nhà cả ngày. Cô kể chuyện đêm khuya cho Ethan dưới ánh nến. Cô dùng khăn tắm và rèm cửa che hết cửa sổ. Nhưng đêm nào cũng vậy, chồng cô về nhà là lại giật phăng chúng xuống và khăng khăng lý luận, “Làm gì có ai bị dị ứng với ánh nắng mặt trời kia chứ.”
Lúc hai người ly hôn, Shelby đã học được rất nhiều về các loại ánh sáng. Cô biết rằng có nhiều thứ khác còn đáng sợ hơn ánh sáng ngoài trời. Cửa hàng bách hóa và văn phòng bác sĩ đều có đèn huỳnh quanh tỏa ra tia cực tím. Ethan có tới 22 cái mũ để đội thay đổi hằng ngày như những đứa trẻ khác thay đồ lót vậy.
Tối nay cậu bé đội một cái mũ có dòng chữ “BÊN CẠNH TÔI LÀ THẰNG NGU”. Vành mũ vểnh lên như vỏ ốc sên. Ethan đã tạo ra hình dạng đó bằng cách gài vành mũ vào khe chỉnh độ rộng phía sau. Khi Shelby thấy mấy cái mũ được gài thế này, cô thường nhớ đến cảnh bầy thiên nga rúc đầu dưới cánh; hay tưởng tượng ra những đôi chân nhỏ bé bị bó chặt của người Trung Quốc.
Cô dọn bếp, rồi ngồi xuống cạnh con đường nhỏ dẫn vào nhà với một quyển sách. Mái tóc đen dài được búi thành một túm dày như nắm tay, vậy mà cô vẫn cảm thấy nóng nực. Làm thế nào mà Ethan có thể chạy nhảy lắm thế? Cậu bé điều khiển ván trượt chạy trên dốc gỗ tự tạo rồi thực hiện động tác nhảy lật khá khó. “Mẹ! Mẹ ơi? Mẹ thấy không? Con làm giống y như Tony Hawk ấy.”
“Mẹ thấy rồi,” Shelby tán thưởng.
“Mẹ không nghĩ rằng sẽ rất tuyệt vời nếu như chúng ta…”
“Ethan, mẹ con mình sẽ không xây đường trượt hình ống trên khúc đường này đâu.”
“Nhưng…”
“Xì. Thôi sao cũng được.” Và cậu bé lại bắt đầu trượt ván trượt, tiếng bánh xe vang lên ầm ầm.
Shelby cười thầm trong lòng. Cô yêu dáng vẻ ngang bướng dần xuất hiện ở Ethan. Cô thích lúc cậu bé tưởng cô đang ở đâu đó trong nhà nên bật chương trình Buổi tối với Conan O’Brien rồi cố gắng hiểu được tất cả những lời bóng gió ẩn dụ của người ta. Những điều này làm cậu bé… thật bình thường. Nếu mặt trăng không phải đang tỏa sáng trên bầu trời, và gương mặt Ethan không tái nhợt đến mức mạch máu dưới da nổi lên như những con đường cô đã quá quen - nếu không có mấy thứ vụn vặt đó, Shelby đã tin rằng cuộc sống của cô chẳng khác gì với cuộc sống của những bà mẹ đơn thân khác.
Ethan thực hiện một cú đảo trọng tâm, rồi một cú kiểu Casper. Shelby nhận ra cô chẳng thể nào phân biệt được một cú xoay kiểu helipop với cú xoay chữ G. Nhiều lần Shelby nhìn con, ngẫm phận mình rồi cảm thấy chua xót. Nhưng Shelby chẳng nhớ nổi cuộc sống trước kia, trước khi căn bệnh bủa vây lấy hai mẹ con. Thật ra, quãng thời gian mà cô trải qua trước khi có Ethan chẳng đáng được gọi là cuộc sống tí nào.
Cậu bé trượt đến trước mặt cô. “Con đói rồi.”
“Con vừa mới ăn đấy!”
Ethan nháy mắt với cô như tìm lý do. Shelby thở dài. “Con có thể vào trong ăn vặt nếu muốn nhưng trời đã chuyển hồng rồi đấy.”
Ethan quay về phía bình minh từ phía chân trời đang vươn móng vuốt. “Cho con đứng đây ngắm mặt trời nhé,” cậu bé nài nỉ. “Chỉ một lần thôi mà.”
“Ethan…”
“Con biết rồi.” Giọng cậu bé chùng xuống. “Ba lần trượt nữa nhé.”
“Chỉ một thôi.”
“Hai nhé.” Không đợi cô cho phép - hai mẹ con đều biết Shelby sẽ thỏa hiệp - Ethan lại phóng đi lần nữa. Shelby mở cuốn tiểu thuyết của mình, những dòng chữ trượt qua tâm trí cô như dãy xe ô-tô trên con tàu chở hàng - nối đuôi nhau nhưng chẳng hề để lại ấn tượng gì khác biệt. Lúc lật sang trang, cô nhận ra ván trượt của Ethan không còn di chuyển nữa.
Ethan giữ chiếc ván trượt in hình Người Sói lấm tấm đốm trắng thăng bằng dưới chân. “Mẹ ơi?” Cậu bé thắc mắc. “Tuyết rơi sao?”
Bang Vermont vẫn thường có tuyết rơi, nhưng không phải vào tháng Tám. Một đốm trắng bay qua và mắc kẹt giữa gáy sách; nhưng đây đâu phải bông tuyết. Cô nhặt cánh hoa lên và ngửi. Cánh hoa hồng.
Shelby từng nghe về những hiện tượng thời tiết kỳ lạ như ếch bị hút lên không trung rồi rơi xuống biển như mưa; cô cũng từng chứng kiến bão châu chấu. Nhưng chuyện này là sao…?
Cơn mưa cánh hoa tiếp tục rơi, đọng lại lên tóc cô và Ethan. “Ngộ ghê”, cậu bé thở hổn hển rồi ngồi xuống cạnh Shelby, chiêm ngưỡng hiện tượng tự nhiên kỳ lạ.
“Tiền xu à.” Curtis Warburton lật lật đồng xu mà Ross đưa. “Còn gì khác không?”
Ross lắc đầu. Đã ba giờ trôi qua, cơn bão đang gào thét ngoài trời tạo ra nguồn năng lượng mạnh, nhưng chẳng có hiện tượng tâm linh nào xảy ra. “Tôi tưởng mình thấy bóng tròn gì đó nhưng hóa ra là thiết bị báo cháy gắn sau gác mái.”
“Ừ, còn tôi thì chẳng cảm nhận được cái gì cả,” Curtis thở dài. “Lẽ ra chúng ta nên nhận vụ ở Buffalo.”
Ross cất cuộn phim đã dùng vào hộp đựng rồi nhét vào túi. “Bà vợ, bà Eve ấy? Bà ta nhắc đến cô em gái đã qua đời hồi bà ấy bảy tuổi.”
Curtis nhìn anh. “Thú vị nhỉ.”
Hai người xuống lầu. Trong bóng tối, Maylene đang ngồi trên băng ghế dài trong phòng khách với nhiệt kế hồng ngoại. “Cậu thấy gì không?” Curtis hỏi.
“Không. Căn nhà này bất động như người thực vật ấy.”
“Mọi việc sao rồi?” Bà Eve O’Donnell cắt ngang. Bà đứng ngay hành lang phòng khách, tay nắm lấy cổ áo đầm.
“Tôi cho rằng bà không cô đơn trong căn nhà đâu. Vì,” Curtis giơ ra đồng xu mà Ross đưa anh, “tôi tìm thấy cái này.”
“Vâng… thỉnh thoảng có mấy đồng xu vương vãi xung quanh. Tôi đã kể với Ross rồi.”
“Vậy sao?”
Ross quay sang chỗ khác và nhăn mặt. Nhưng trước khi anh kịp chất vấn Curtis vì sao lại chơi trò giả vờ, sếp anh tiếp tục liến thoắng. “Mấy con ma thường thích trêu đùa kiểu này. Đặc biệt là hồn ma trẻ con.”
Ross cảm thấy không khí căng lên khi bà Eve O’Donnell dồn hết niềm tin vào Curtis. “Tôi phải nói với bà điều này,” Curtis nói tiếp. “Tôi cảm nhận được có gì đó mãnh liệt ở đây. Có ai đó hiện diện, đó là người mà bà biết và người đó cũng biết bà.” Curtis nghiêng đầu qua một bên và nhíu mày. “Đó là một cô bé… tôi có cảm giác đó là một cô bé và tôi cảm nhận được con số… số bảy. Bà có em gái đã qua đời sao?”
Ross chôn chân sững sờ. Kinh nghiệm nói cho anh biết 85% tin báo là mấy trò dựng lên bởi đám người rỗi hơi muốn giết thời gian, muốn xuất hiện trên truyền hình quốc gia hoặc chứng minh mấy vụ điều tra tâm linh này chẳng có chút gì khoa học. Anh không thể đếm nổi bao nhiêu lần họ tìm thấy loa giấu trong bức tường phát ra tiếng than khóc; dây cước quấn quanh cái đèn chùm hay rung lắc. Nhưng anh không hề nghĩ nhóm Warburton cũng bày trò bịp như vậy.
“Tất nhiên sẽ tốn thêm phí,” Curtis lại nói, “nhưng tôi thấy nên thực hiện một buổi cầu hồn.”
Đầu Ross đau nhói. “Curtis, tôi có thể nói chuyện riêng với anh được không?”
Họ mặc áo khoác và đi ra ngoài, đứng dưới mái hiên của ga-ra khi cơn mưa tầm tã trút xuống. “Phải có lý do chính đáng đấy,” Curtis hằm hè. “Cậu cắt ngang khi tôi đang dụ bà ta.”
“Anh không nghĩ là có ma cỏ gì ở đây. Lý do duy nhất anh biết về em gái bà ta là do tôi nói với anh.”
Curtis châm một điếu thuốc, đầu thuốc cháy lên như một con mắt hí. “Thì sao?”
“Thì… anh không thể nào nói dối trước mặt bà ta chỉ để kiếm thêm vài đồng và quay được phản ứng của bà ấy được.”
“Tất cả những gì tôi làm là nói cho hai ông bà O’Donnel những gì họ muốn nghe. Mấy người này tin rằng nhà họ có ma. Họ muốn tin rằng nhà họ có ma. Thậm chí nếu chẳng có gì khác thường diễn ra trong đêm nay thì không chừng do con ma chịu yên tĩnh khi có khách đến thăm nhà.”
“Đây không phải chỉ là một con ma vớ vẩn,” Ross run giọng đáp. “Đây là một người có ý nghĩa với bà ta.”
“Tôi không nghĩ cậu là một kẻ khờ khạo như vậy. Sau chừng ấy tháng, cậu phải hiểu rõ thông lệ làm việc chứ.”
Ross không nghĩ mình là kẻ khờ khạo. Suốt cả đời mình, anh đã trải nghiệm và va chạm để luôn tìm kiếm những điều có thực, vì anh thường thấy mình không hề như thế. “Tôi biết rõ thông lệ làm việc. Tôi chỉ không biết rằng tất cả những chuyện này đều là giả dối.”
Curtis quăng điếu thuốc xuống đất. “Tôi không phải là kẻ bịp bợm. Bóng ma của ông tôi hiện ra trước mắt tôi, Ross à. Tôi đã chụp được tấm hình đó khi ông tôi đứng dưới chân giường. Cậu tự suy diễn rồi đấy. Khỉ thật, cậu có nhớ đến bức hình cậu chụp được về gương mặt xuất hiện trong hồ không? Cậu nghĩ tất cả là do tôi sắp đặt sao? Tôi thậm chí khi đó còn chẳng ở cùng một tiểu bang với cậu nữa kìa.” Curtis hít một hơi để trấn tĩnh. “Nghe này, tôi không phải đang lừa hai ông bà O’Donnells. Ross à, tôi là một nhà kinh doanh, và tôi hiểu khách hàng của mình.”
Ross không thể trả lời được. Tất cả những gì anh biết là chính Curtis đã lén thả đồng xu anh ta tìm thấy dưới cái giá ba chân. Tất cả những gì anh biết là khoảng thời gian chín tháng vừa qua hoàn toàn lãng phí. Anh chẳng hơn gì ông bà O’Donnell - anh chỉ thấy những thứ mà mình muốn tin.
Có lẽ Maylene đúng là có khả năng ngoại cảm, vì ngay lúc ấy cô ta bước ra ngoài. “Curtis? Chuyện gì thế?”
“Ross ấy mà. Cậu ta đang quyết định xem nên về bằng đường nào – I-81 hay Moral High Ground.”
Ross bỏ đi luôn dù đang mưa. Mặc kệ hai người kia muốn nghĩ sao cũng được; họ chắc chắn cũng muốn Ross làm điều tương tự. Anh cũng chẳng buồn quay lại để lấy máy quay phim kỹ thuật số hay ba lô của mình; đó là những thứ anh có thể mua lại được, khác với sự bình tĩnh đang chực chờ biến mất. Anh mở máy sưởi trong xe ở số lớn nhất, cố đánh bay cảm giác lạnh buốt lởn vởn xung quanh. Anh lái xe khoảng một dặm đường rồi nhận ra đèn xe chưa bật. Sau đó anh tấp xe vào lề đường, thở dốc và cố gắng hồi phục lại nhịp tim.
Ross am hiểu phương pháp ghi lại những hiện tượng tâm linh một cách khoa học và giải thích kết quả. Anh từng quay được những đốm sáng lướt qua khu nghĩa trang; anh đã từng ghi âm giọng nói trong mấy căn hầm trống rỗng; anh từng cảm thấy lạnh buốt tại những nơi chẳng hề có gió. Trong chín tháng, Ross nghĩ rằng mình đã tìm thấy cánh cửa bước vào thế giới nơi mà Aimee đang ở… và nó hóa ra lại biến thành cánh cửa giả sơn trên tường.
Khỉ thật, anh coi như hết cách.
Az Thompson thức dậy, trong miệng nhét đầy mấy hòn đá nhỏ và trơn mịn như hạt ô liu. Ông phải vỗ mười lăm lần vào lòng bàn tay nhăn nheo trước khi tin rằng mình vẫn thở được mà không bị nghẹn. Ông sải chân bước qua bên cạnh chiếc giường quân đội. Ông cố gắng dẹp tan ý nghĩ rằng nếu bị chôn dưới lớp đất nén chặt dưới đôi chân trần của mình ngay lúc này đây, thì mớ đá cuội này sẽ tích tụ thành một bụi cây độc địa đen thui, giống như rừng cây bao quanh lâu đài trong câu chuyện cổ tích của người Da Trắng về một cô gái không bao giờ tỉnh giấc nếu chưa nhận được một nụ hôn.
Ông không ngại cắm trại ngoài trời. Ông vẫn nhớ một chân mình đặt giữa thiên nhiên còn chân kia bước vào thế giới của người Da Trắng. Az ló đầu ra khỏi cửa lều. Có mấy người đang tụ tập ăn sáng bên ngoài. Dấu hiệu của họ - mấy miếng kim loại đeo trên cổ, vài tấm áp phích dán trên gỗ - nằm rải rác như đống hình nộm của mấy tay nghệ sĩ biểu diễn. Mớ hình nộm ấy có vẻ vô hại vì chẳng có hồn ma nào phía sau chúng. “E hèm,” ông tằng hắng rồi bước về phía lửa trại, biết rõ sẽ có chỗ dành cho mình.
Mấy người kia đối xử với ông giống như cách mà họ sẽ xử sự nếu gặp được Abe Lincoln sống dậy và bước ra khỏi lều - với sự kính trọng và ngưỡng mộ vì vẫn thấy ông còn sống sau chừng ấy thời gian. Az sinh sau Abe, nhưng không thua kém mấy. Chừng 102, 103 tuổi gì đó, ông đã ngừng tính tuổi từ lâu. Ông được tôn trọng như một người thầy vì thông thạo ngôn ngữ bộ lạc vốn đang lụi tàn. Chỉ cần tính đến tuổi tác thì ông đã xứng chức vị già làng. Chức vị này lẽ ra rất có vai vế nếu bộ lạc Abenaki được chính quyền công nhận.
Ngồi lên ghế xếp, Az nghe tiếng từng khớp xương sống kêu cót két. Ông cầm lấy ống nhòm đặt bên đống lửa, dõi mắt nhìn ra lô đất tại giao lộ Tây Bắc của đường Montgomery và đường Otter Creek Pass. Phía trên đỉnh núi là ngôi nhà trắng to đến chướng mắt. Az biết căn nhà đó sẽ là thứ bị dỡ bỏ đầu tiên. Ông hiểu vanh vách về mảnh đất này, từ những số đo trắc địa của nhân viên khảo sát đến những số liệu ghi chép trên bản đồ quy hoạch. Ông biết rõ khi mùa đông tới, chỗ nào bị đóng băng đầu tiên và khu vực nào cây cối không mọc nổi. Ông biết cửa sổ nào của căn nhà hoang bị lũ trẻ con nghịch ngợm đập vỡ; góc nào của mái hiên rơi xuống trước, tấm ván nào trên cầu thang đã mục nát.
Ông cũng biết rõ biển số từng chiếc xe của tập đoàn Redhook đã đỗ trên khoảnh đất này. Có tin đồn rằng Newton Redhook muốn xây dựng một trung tâm thương mại lớn đầu tiên tại thị trấn Comtosook. Ngay trên một trong những khu nghĩa trang của họ.
“Tôi nói với anh rồi,” Charlie Béo cất tiếng, “Đây là hiện tượng El Niño.”
Winks lắc đầu nguầy nguậy. “Mọi thứ bị đảo lộn hết cả. Mưa hoa hồng đúng là bất thường như đồng hồ chạy ngược hoặc nước giếng chuyển sang màu máu vậy.”
Charlie Béo cười ngặt nghẽo. “Winks, ông nên chuyển sang xem chương trình của Letterman đi. Mấy chuyện kinh dị đang khiến ông ám ảnh đấy à.”
Az nhìn xung quanh và thấy cánh hoa vương vãi trên đất. Ông tặc lưỡi cảm nhận mấy viên sỏi lần nữa. “Ông nghĩ sao, ông Az?” Winks thắc mắc.
Az thầm nghĩ cứ cố giải thích hiện tượng cánh hoa từ trên trời rơi xuống đúng là vừa vô ích vừa hết sức vớ vẩn vì những chuyện xảy ra đã được sắp đặt hết rồi. Ông cho rằng là hiện tượng ấy chỉ là vấn đề cỏn con nhất với họ. Az lấy ống nhòm dõi theo chiếc xe ủi đất đang bình bịch leo dốc. “Tôi nghĩ các cậu không thể nào xới tung mặt đất,” ông lớn tiếng, “mà không khai quật được cái gì đó.”
Đây là cảnh tượng khi Ross đã gặp Aimee: Tại góc đại lộ Broadway và đường 112, dưới bóng tòa nhà trường Đại học Columbia, anh tông thẳng vào cô, khiến đống sách của cô rơi vào vũng bùn. Cô là sinh viên y khoa đang ôn tập cho bài thi cuối kỳ môn giải phẫu. Cô lên cơn thở dốc khi nhìn thấy tất cả công sức vất vả của mình đều tiêu tan. Ngay cả lúc ngồi bệt giữa đường phố New York, cô vẫn là người con gái đẹp nhất mà Ross từng gặp. “Tôi sẽ giúp cô,” Ross hứa hẹn, mặc dù anh còn chẳng phân biệt nổi xương mác và đốt ngón tay. “Xin hãy cho tôi cơ hội.”
Còn đây là cách Ross cầu hôn Aimee: Một năm sau đó, anh bỏ tiền thuê taxi chở họ qua góc đường cũ để ăn tối tại nhà hàng. Như đã dặn trước, anh chàng lái taxi tấp vào lề đường, sau đó Ross mở cửa xe và bước xuống khuỵu gối trên lề đường bẩn thỉu. Anh bật mở chiếc hộp nhẫn nhỏ xíu và nhìn vào đôi mắt căng thẳng của cô. “Lấy anh nhé,” anh cất tiếng, rồi mất thăng bằng và chiếc nhẫn kim cương rơi thẳng xuống cống.
Aimee há hốc mồm. “Hãy nói với em rằng,” cô cuối cùng cũng nói thành lời, “là việc vừa nãy chưa từng xảy ra nhé.”
Ross nhìn xuống ống cống đen ngòm và nhìn vào cái hộp rỗng. Anh ném luôn cái hộp xuống cống rồi móc chiếc nhẫn khác ra, chiếc nhẫn thật, từ túi quần mình. Anh nói, “Cho anh cơ hội thứ hai nhé.”
Lúc này, anh dốc ngược chai bia trong bãi đỗ xe vắng hoe. Thỉnh thoảng Ross muốn cào tróc hết da mình ra xem thử bên trong có gì. Anh muốn nhảy cầu rớt xuống bãi bê tông. Anh muốn la hét tới khi cổ họng chảy máu; muốn chạy tới khi gót chân rách toác. Những lúc thất bại như thủy triều dâng cao, cuộc sống của anh giống như một đoạn thẳng chặn đầu chặn đuôi, mà nực cười ở chỗ giới hạn tận cùng lại là thứ mà anh không cách nào với tới.
Ross lên kế hoạch tự tử rất bài bản, tập trung đến từng chi tiết giống như người ta lên kế hoạch mua sắm. Có những ngày anh cảm thấy thoải mái. Cũng có những ngày anh thống kê bao nhiêu người đang hạnh phúc và bao nhiêu người đau khổ. Có những ngày anh cảm thấy cũng có lý lắm nếu chọn chết bằng cách uống nước sôi, chết ngộp trong tủ lạnh hay trần truồng đi ngoài đường cho tới khi gục xuống mà ngất đi.
Ross đã đọc về các vụ tự tử và trầm trồ vì sự sáng tạo. Phụ nữ thì quấn mái tóc dài của mình thành dây thừng thắt cổ. Đàn ông thì tiêm sốt mayonnaise vào người. Bọn nhóc trẻ trâu thì nuốt pháo. Nhưng mỗi khi sít sao cái ngưỡng tự mình thử xem xà nhà chịu được bao nhiêu sức nặng hay rạch một đường máu me bằng con dao cạo, anh đều nghĩ đến mớ lộn xộn mình để lại.
Anh không biết cái chết sẽ mang lại điều gì. Nhưng anh biết thứ mà cái chết mang lại không phải là cuộc sống. Vậy là đủ. Anh chẳng còn tí cảm xúc nào từ ngày Aimee qua đời. Chính là cái ngày khi anh chọn làm người hùng, kéo vị hôn thê của mình ra khỏi nơi xảy ra tai nạn, rồi quay lại cứu tài xế xe kia trước khi nó bốc cháy. Lúc anh quay lại với Aimee, cô đã tắt thở. Cô ra đi trong lẻ loi và cô độc, khi anh đang lăng quăng đóng vai Siêu Nhân ở đâu đó.
Anh là một thằng anh hùng cứu nhầm người.
Anh ném cái chai rỗng lên sàn xe Jeep, đạp chân ga phóng ra khỏi bãi đậu xe như một đứa trẻ trâu. Chẳng thấy cảnh sát ở quanh đây. Cảnh sát thì có bao giờ xuất hiện khi người ta cần đâu. Thế là Ross tăng tốc cho tới khi vượt quá tốc độ 80 cây số trên làn đường cao tốc.
Anh dừng xe trên một cây cầu đường sắt, ngay đúng chỗ rào chắn chầm chậm hạ xuống như diễn viên đang múa ba lê. Tâm trí anh không nghĩ gì cả ngoài việc nhích chiếc xe của mình tới trước cho đến khi tông vỡ rào chắn, để chiếc xe Jeep nằm trên đường ray như vật hiến tế.
Xe lửa chạy xình xịch. Đường ray bắt đầu xướng lên bản giao hưởng thép. Ross mặc cho cái chết đến gần, cắn răng thì thầm lời trăn trối trước khi va chạm xảy ra: Kết thúc rồi.
Âm thanh tuyệt vời đến điếc tai. Vậy mà xe lửa vẫn lướt qua anh, chạy xa dần, tới khi Ross đủ can đảm mở mắt.
Mui xe bốc khói nhưng vẫn hoạt động. Chiếc xe khập khiễng như có một bánh xe bị xì hơi. Đầu xe chĩa về hướng ngược khi nãy, hướng anh vừa đi qua.
Chẳng có chuyện gì xảy ra cả: Nước mắt đầm đìa, Ross lái xe đi.
Rod van Vleet sẽ không về nhà nếu chưa ký được hợp đồng. Lý do đầu tiên là Newton Redhook đã giao cho anh trách nhiệm giành bằng được khoảnh đất rộng mười chín mẫu Anh bao gồm khu nhà của gia đình Pike. Lý do thứ hai là phải mất sáu tiếng mới đến được viện dưỡng lão khỉ ho cò gáy này, và Rod không có ý định quay trở lại đây trong tương lai gần.
“Ông Pike,” Rod chào hỏi, mỉm cười với lão già xấu đến mức chắc anh sẽ phải gặp ác mộng cả tuần liền. Trời đất, nếu lúc chín mươi lăm tuổi mà Rod trở nên giống vậy thì thà có ai đó cho mình một liều móc-phin trước khi ngủ rồi đem chôn luôn cho rồi. Cái đầu hói lốm đốm như trái dưa hồng; hai tay co quắp như thắt nút; còn dáng người thì chẳng khác gì dấu phẩy. “Như ông đã biết, tập đoàn Redhook đã chuẩn bị thỏa thuận hôm nay bằng cách gửi một tấm séc có trị giá 50 ngàn đô la cho ông. Đây là thiện ý của chúng tôi trong khi chờ chữ ký.”
Lão già nheo đôi mắt trắng đục. “Tôi phải quan tâm tới tiền làm cái quái gì?”
“Ồ. Ông có thể đi nghỉ mát. Ông và cô y tá.” Rod cười với người phụ nữ đứng khoanh tay trước ngực sau lưng ông Pike.
“Không đi du lịch được. Lệnh của bác sĩ. Gan có thể… ngừng hoạt động.”
Rod cười gượng, thầm nghĩ gã nghiện rượu sống gần cả thế kỷ kia cứ lên máy bay tới đảo Fiji, còn hậu quả sau đó thì ai quan tâm làm quái gì. “Ồ.”
“Cậu lại nói chữ đó rồi. Cậu bị đãng trí à?”
“Không hề, thưa ông.” Rod tằng hắng. “Tôi hiểu khu đất này thuộc về gia đình vợ ông qua nhiều thế hệ rồi?”
“Đúng vậy.”
“Ông Pike, chúng tôi tin rằng tập đoàn Readhook có thể đóng góp cho sự phát triển của thị trấn Comtosook bằng cách quy hoạch khu đất để thúc đẩy kinh tế địa phương.”
“Các người muốn xây cửa hàng ở đó.”
“Đúng vậy, thưa ông, chúng tôi sẽ làm thế.”
“Các cậu sẽ mở tiệm bán bánh mì vòng ở đó chứ?”
Rod nháy mắt, lúng túng. “Tôi nghĩ ngài Redhook chưa biết tới việc này.”
“Xây đi. Tôi thích bánh mì vòng lắm.”
Rod đẩy tấm séc qua lần nữa, kèm theo bản hợp đồng. “Ông Pike, tôi không thể xây dựng thứ gì cho tới khi có được chữ ký của ông ở đây.”
Ông Pike nhìn chằm chằm vào anh một lúc, sau đó vươn tay cầm bút. Rod thở phào một hơi. “Quyền sở hữu đứng tên vợ ông sao? Bà Cecelia Pike đúng không?”
“Khu đất đúng là thuộc về Cissy.”
“Và có tin đồn… rằng bộ lạc Abenaki vẫn luôn tranh chấp quyền quản lý khu đất này… Có căn cứ gì không?”
Ngón tay của ông Pike trở nên trắng bệch vì siết chặt. “Khu đất đó không phải là nghĩa trang của đám thổ dân đâu.” Ông liếc nhìn Rod. “Tôi không thích cậu.”
“Tôi cũng thấy vậy, thưa ông.”
“Lý do duy nhất tôi ký vào hợp đồng là vì tôi thà bán đi thay vì nhìn khu đất đó bị sung công.”
Rod cuộn bản hợp đồng và gõ gõ lên bàn. “Ồ!” Anh lặp lại từ đó, khiến ông Pike nhướng mày. “Chúng tôi sẽ thực hiện quy trình thẩm tra và hy vọng hoàn tất bản hợp đồng này sớm nhất có thể.”
“Ý cậu là trước khi tôi chết chứ gì,” ông Pike lạnh nhạt đáp khi Rod đang khoác áo. “Cậu không muốn ở lại chơi đố chữ sao? Hoặc ăn trưa chẳng hạn… Tôi nghe nói chúng ta có món thạch Jell-O vị cam đấy.” Ông cười, tiếng cười như lưỡi cưa chĩa vào lưng Rod. “Cậu van Vleet… cậu sẽ làm gì với căn nhà đó?”
Rod biết đây là một chủ đề nhạy cảm. Đây vẫn luôn là chủ đề nhạy cảm với tập đoàn Redhook vì họ luôn tháo dỡ nhà cửa trước khi xây trung tâm thương mại hiện đại. “Thực sự căn nhà không phải là hình mẫu tốt nhất,” Rod lựa lời giải thích. “Chúng tôi có thể phải… chỉnh sửa một chút. Nhiều phòng hơn, như ông biết đấy, cho cửa hàng bán pizza của ông chẳng hạn.”
“Bánh mì vòng mới đúng chứ.” ông Pike cau mày. “Vậy có nghĩa là các cậu sẽ tháo dỡ căn nhà đó chứ gì.”
“Không may là đúng vậy.”
“Thế cũng tốt,” ông nói. “Nhiều hồn ma quá rồi. ”
Trạm xăng duy nhất trong thị trấn Comtosook nằm gần cửa hàng bách hóa. Hai máy bơm xăng từ những năm 1950 được đặt trong bãi đỗ xe. Rod mất tới năm phút để nhận ra rằng ở đây cơ bản là không có khe nhét thẻ tín dụng. Anh nhét đầu bơm vào bình xăng và rút điện thoại ra bấm phím tắt. “Mỏ đá Angel xin nghe,” một giọng nữ trả lời.
Rod bỏ điện thoại ra khỏi tai và cúp máy. Anh có lẽ đã gọi nhầm số lúc muốn liên hệ văn phòng công ty để thông báo cho Newton Redhook biết rào cản đầu tiên đã vượt qua. Anh nhăn mặt quay số lần nữa.
“Mỏ đá Angel xin nghe. Tôi có thể giúp gì được cho ngài?”
Rod lắc đầu. “Tôi đang gọi cho số 617-569…” “Ồ, ngài nhầm số rồi.” Tít.
Cảm thấy bối rối, anh nhét điện thoại vào túi và bơm thêm xăng. Anh móc ví ra và tiến tới quầy thanh toán.
Một người đàn ông trung niên với mái tóc đỏ như củ cà rốt đang đứng dưới hiên quét cánh hoa hồng trên sàn. Rod ngước nhìn bảng hiệu - Trạm xăng và tạp hóa của Abe - rồi quét mắt qua chủ tiệm. “Ông là ông Abe hả?”
“Ừ.”
“Có điện thoại trả phí ở đây không?”
Abe chỉ vào góc mái hiên nơi có bốt điện thoại quay về phía rào chắn, ngay cạnh ông già say rượu cố ý không muốn đi ra chỗ khác. Rod vừa quay số vừa cảm nhận ánh mắt chủ tiệm đang nhìn chằm chằm. Một lúc sau anh nghe được, “Mỏ đá Angel xin nghe.”
Anh dập máy, nhìn chằm chằm vào bốt điện thoại. Abe quét một, hai, ba nhát, dọn sạch đường đi giữa mình và Rod. “Có vấn đề gì sao?” ông hỏi.
“Hình như đường dây điện thoại có vấn đề gì đó.” Rod móc tờ hai mươi đô la từ trong ví để trả tiền xăng.
“Có lẽ vậy. Cũng có thể những gì mà đám thổ dân bàn tán là sự thật - Nếu họ không lấy lại được đất của mình, cả thị trấn sẽ bị nguyền rủa.”
Rod đảo mắt. Đi nửa đường thì anh sực nhớ lời ông Spencer Pike nói về mấy con ma. Anh quay lại định hỏi Abe về việc đó nhưng ông ta đã biến mất. Dưới mái hiên, chiếc chổi đang dựa vào lan can gỗ trông như rào chắn; khi gió thổi qua, đống cánh hoa được chất gọn gàng lại bay tung lên như ban phước lành.
Đột nhiên một chiếc xe tấp vô máy bơm xăng còn lại. Một người đàn ông với mái tóc nâu dài ngang vai và đôi mắt xanh nước biển bước ra, vươn vai khiến lưng kêu răng rắc. “Xin lỗi,” anh hỏi, “anh có biết đường đến nhà Shelby Wakeman không?”
Rod lắc đầu. “Tôi không phải dân vùng này.”
Lúc bước vào trong xe, Rod không hiểu vì sao mình cứ nhìn vào kính chiếu hậu. Người đàn ông vẫn đứng đấy như không biết phải làm gì tiếp theo. Điện thoại bỗng reo lên. Rod móc điện thoại từ túi áo trước ngực và trả lời. “Van Vleet xin nghe.”
“Mỏ đá Angel đây,” giọng người phụ nữ cất lên ở đầu dây bên kia cứ như anh đúng là người cần liên lạc; cứ như đây là chuyện hết sức hợp lý vậy.
“Vâng, tôi đến đây,” Shelby cằn nhằn khi tiếng gõ cửa mạnh hơn. Mới có 11 giờ sáng mà. Nếu cha già ngớ ngẩn nào đó mà đánh thức Ethan thì… Cô túm tóc thành kiểu đuôi ngựa, chỉnh lại áo quần mặc ở nhà và liếc nhìn mặt trời khi mở cửa. Trong phút chốc, ánh mặt trời hắt vào khiến cô không nhận ra anh ta là ai.
“Shel?”
Đã hai năm trôi qua kể từ khi cô gặp Ross. Hai người rất giống nhau - cùng vóc dáng khẳng khiu, cùng ánh mắt sắc sảo khiến người ta khó lòng dời mắt. Nhưng Ross đã ốm đi và còn để tóc dài. Quầng mắt anh còn thâm hơn cô.
“Em làm chị thức giấc sao,” anh rối rít xin lỗi. “Em có thể…”
“Vào đây,” Shelby ngắt lời, ôm chầm lấy đứa em trai bé bỏng của mình.
“Chị đi ngủ lại đi,” Ross giục, sau khi Shelby đã dành hơn một giờ hỏi anh đủ chuyện. “Ethan sẽ cần chị đấy.”
“Ethan sẽ cần em đấy,” Shelby chỉnh lại. “Cứ chờ đến khi cậu nhóc gặp được em thì quên việc nghỉ ngơi đi.” Chị anh đặt một chồng khăn tắm lên giường tại phòng cho khách và ôm anh. “Em có thể ở lại bao lâu tùy thích.” Anh dúi mặt vào vai chị và nhắm mắt lại. Shelby vẫn có mùi thơm dễ chịu như hồi còn bé.
Đột nhiên cô lùi lại. “Ồ, Ross.” Cô thì thào, luồn tay vào trong cổ áo của anh rồi kéo ra một sợi dây chuyền. Bên dưới sợi dây có treo một chiếc nhẫn kim cương hình ngôi sao băng. Tay Shelby siết chặt chiếc nhẫn.
Ross đột nhiên lùi lại, khiến sợi dây chuyền bị đứt. Anh chộp lấy cổ tay Shelby, giằng mạnh cho tới khi cô thả chiếc nhẫn ra, để nó nằm an toàn trong lòng bàn tay anh. “Đừng làm vậy,” anh nghiến răng cảnh cáo.
“Đã qua…”
“Chị nghĩ em không biết đã qua bao lâu rồi sao? Chị nghĩ em không biết chính xác?” Ross quay lưng đi. Tại sao không ai nói rằng sự quan tâm cũng có thể đâm vào lòng người ngọt như dao sắc?
Khi Shelby nắm tay anh, Ross không phản ứng. Cô không muốn làm căng thêm nên chỉ khẽ chạm vào rồi quay người ra khỏi phòng.
Shelby nói đúng - Ross cần một giấc ngủ nhưng lại không chợp mắt được. Anh quen dần với bệnh mất ngủ. Nhiều năm qua, chứng ấy cứ khiến anh cứ thao thức nhìn đồng hồ điện tử mãi tới khi con số báo hiệu đến giờ rời giường.
Nằm trên giường, anh ngước mắt nhìn lên trần nhà. Anh siết chặt chiếc nhẫn đến mức cảm nhận được mấy mấu nhọn cứa vào da. Anh phải tìm sợi dây khác để luồn chiếc nhẫn này vào. Anh hướng tầm mắt đến đồng hồ, nhìn những con số nối tiếp nhau; 12:04; 12:05; 12:06. Anh còn đếm hết mấy bông hoa in trên chăn bông và cố nhớ cách đánh vần cụm từ “Waltzing Matilda.”
Ross không thể tin được anh giật mình tỉnh giấc lúc 5:58. Anh chớp mắt và cảm thấy tràn trề năng lượng hơn mấy tháng vừa rồi. Anh vung chân bước xuống giường và đứng dậy tự hỏi Shelby còn dư bàn chải đánh răng nào không. Cảm giác trống trải trên ngực làm anh nhớ đến chiếc nhẫn. Ross duỗi tay ra trong hoảng loạn. Chiếc nhẫn kim cương nắm chặt trong tay lúc thiếp đi giờ lại không thấy đâu cả - không có dưới chăn, không có dưới thảm, bên kia giường cũng không. Ross nghĩ mình đánh mất cô ấy rồi. Anh trừng trừng nhìn vào vật thể bí ẩn trong lòng bàn tay mình khi thức dậy: một đồng xu năm 1932 vẫn còn ấm.