← Quay lại trang sách

Chương 2

Mới tám tuổi mà Lucy Oliver đã biết rất nhiều thứ. Cô bé có thể liệt kê thủ phủ của từng bang, giải thích mây dông hình thành như thế nào và còn biết đánh vần từ RHYTHM xuôi ngược. Cô bé còn biết nhiều điều mà trường học chưa từng dạy. Ví dụ chuyện tháng trước bà cố đi khám bệnh về liền giấu mấy viên thuốc màu trắng vào mũi giày chỉnh hình đặt trong tủ quần áo. Cô bé biết cần phải chăm chú lắng nghe khi người lớn bắt đầu hạ giọng. Cô cũng biết người thông minh nhất thế giới cũng sợ hãi những thứ mình không hiểu được.

Lucy còn biết chắc rằng việc một trong số họ tóm được cô bé chỉ là vấn đề thời gian.

Hình dạng của họ luôn biến đổi mỗi đêm. Đôi khi họ là những họa tiết di động trên rèm cửa. Có lúc họ biến thành mảng sàn gỗ lạnh toát mà Lucy phải băng qua để trèo lên giường. Thỉnh thoảng họ chính là mùi hương khiến Lucy mơ về lá cây, bóng đêm và xác chết.

Tối nay cô bé đóng vai một con rùa. Không gì có thể xuyên qua lớp vỏ cứng đó được, kể cả thứ mà cô bé chắc chắn đang thở phập phồng trong tủ quần áo. Lucy mở trừng mắt nhìn bóng đêm biến đổi. Vài hình bóng dần trở nên sắc nét, những nét khác lại mơ hồ… cho đến khi hình thành gương mặt một người phụ nữ mờ ảo mang vẻ đau buồn đến nhói lòng.

Lời bà ta nói hiện lên trong đầu Lucy: Ta sẽ tìm đến con.

Lucy trùm chăn kín đầu, cố không thét lên vì sợ đánh thức bà cố. Ngực cô bé phập phồng hổn hển. Nếu bà ta có thể tìm thấy Lucy ở bất kỳ chỗ nào thì cô bé biết trốn nơi đâu đây? Mẹ có biết con bị bắt hay không nếu chỉ thấy vết lõm để lại trên giường?

Cô bé len lén cầm lấy điện thoại đặt trên kệ rồi bấm phím tự động gọi đến phòng thí nghiệm của mẹ. Lucy tưởng tượng một đường dây vô hình kết nối từ điện thoại này đến điện thoại mẹ. Chắc giống như sợi dây rốn vô hình nhỉ. Hình ảnh tưởng tượng đó đó khiến cô bé thấy yên lòng ấm áp đến mức không nói nên lời.

“Ôi, Lucy,” mẹ cô thầm thở dài. “Chuyện gì thế con?”

“Không khí,” Lucy thì thào. Cô bé ghét bỏ giọng nói nghe vừa lí nhí vừa hốt hoảng giống như lũ chuột đang sợ hãi của mình. “Không khí ngột ngạt quá.”

“Con đã dùng ống hít chưa?”

Lucy đã dùng ống hít. Cô đã đủ lớn để biết phải làm gì khi lên cơn hen suyễn. Nhưng đây không phải ngột ngạt kiểu đó. “Không khí như sắp ép nát con.” Lúc này, tình trạng còn tệ hơn nữa. Lucy nằm dưới bóng tối nặng nề, dè dặt từng hơi thở để kéo dài thời gian tiêu hao lượng ô-xy trong phòng.

“Con yêu.” Giọng mẹ khiến Lucy nhớ đến đám chai thủy tinh đựng thuốc lạnh lẽo trên quầy thuốc trắng toát dài vô tận. “Con biết trọng lượng không khí không thể thay đổi mà, chuyện đó không thể xảy ra trong phòng con đâu. Con chỉ tưởng tượng thôi.”

“Nhưng mà…” Lucy xoay người lùi xa khỏi tủ quần áo vì cảm thấy bà ta đang nhìn mình. “Mẹ, con không bịa chuyện đâu.”

Lúc này, mẹ cô bé đã mất bình tĩnh. “Lucy. Chẳng có ma, yêu tinh hay quỷ dữ, hay… hay con quái vật vô hình nào đè ép không khí cả. Đi ngủ đi?

Lucy vẫn giữ ống nghe sau khi kết nối bị ngắt. Đến khi giọng Tổng Đài máy móc yêu cầu Lucy gác máy nếu muốn gọi số khác thì cô bé đành giấu điện thoại dưới gối. Mẹ nói đúng; nếu suy luận theo lý trí thì trong phòng chẳng có gì nhảy ra bắt mình đi mất; đám quái vật đó không thể trốn trong tủ quần áo hay núp dưới giường, một người phụ nữ đang khóc không thể tự dưng xuất hiện được. Nếu không khí trở nên đặc quánh như món súp đậu thì sẽ có lý do theo vật lý và hóa học giải thích hiện tượng này.

Dù vậy, vài giờ sau, khi về đến nhà, bà Meredith Oliver bắt gặp con gái ngủ trong bồn tắm được lót gối và chăn; phòng tắm bật đèn sáng trưng như ban ngày.

Ross ngắm nhìn cháu trai thách thức trọng lực một lần nữa, chiếc ván trượt lơ lửng trong không khí dưới đôi chân thăng bằng của cậu bé. “Đây là một cú trượt kiểu năm mươi/ năm mươi nhé.” Ethan khoe khoang, má cậu ửng đỏ vì cố sức; chân tóc ướt đẫm dưới vành mũ bóng chày.

Anh vờ nhấc chân Ethan lên. “Cháu không cột dây cước vào chân đấy chứ?”

Ethan cười toét miệng phóng đi một lần nữa, rồi quay đầu trượt về chỗ cũ. “Cậu Ross?” cậu bé reo lên. “Có cậu ở đây đúng là tuyệt cú mèo.”

Ngồi trên tấm chăn đặt cạnh Ross, Shelby tiện tay bứt mấy cọng cỏ. “Đây là lời khen đáng giá nhất rồi đấy.”

“Em biết.” Ross nằm xuống, gối đầu lên hai tay. Một ngôi sao băng vừa vụt qua tầm mắt anh, vẽ nên một chiếc đuôi bạc trên bầu trời. “Cậu nhóc được quá, Shel à.”

Mắt cô dõi theo Ethan. “Chị biết chứ.”

Ethan phóng rầm xuống đoạn dốc gỗ. “Đủ giỏi để đi săn ma với cậu không?” cậu nhóc gào lên.

“Ai bảo cháu là cậu đi săn ma?”

“Cháu có nguồn tin riêng mà.” Ethan vừa xoay ván trượt vừa nhảy lên cao, cố dùng tay chộp lấy tấm ván. “Cháu nhanh nhẹn lắm, cậu thấy không? Còn nữa, cháu không buồn ngủ vào buổi tối… và khả năng giữ bí mật của cháu thì cậu không tin nổi đâu…”

“Chắc rồi,” Ross cười phá lên.

“Không, cậu Ross à, thật đấy, sao cậu không dẫn cháu theo?”

“Để xem nào. Vì mẹ cháu sẽ lột da cậu; và cậu cũng nghỉ hưu rồi.”

“Nghỉ hưu?” Cậu bé kéo dài giọng. “Nghĩa là cậu mệt mỏi vì việc săn ma rồi sao?”

“Xét về mặt nào đó thì đúng là thế.”

Ethan sững sờ vì tin này. “Vậy thì đúng là chán thấy bà.”

“Ethan.” Shelby lắc đầu cảnh cáo.

“Giờ thì cậu có khác gì người thường đâu,” cậu nhóc lầm bầm.

Ross nhìn cậu nhóc trượt ván ra xa. “Đây là câu xỉ vả sao?”

Shelby phớt lờ câu hỏi, quay qua nhìn chằm chằm vào Ross. “Vậy em ổn chứ?”

“Ổn mà.” Anh mỉm cười với cô. “Hoàn toàn ổn ”

“Em biết mà, chị hơi lo lắng khi em chẳng liên lạc gì. Suốt 6 tháng trời.”

Ross nhún vai. “Em phải đi đây đi đó suốt với nhóm Warburton.”

“Chị không biết em đã ngừng điều tra mấy hiện tượng tâm linh rồi.”

“Chính em còn không ngờ. Nhưng em chán ngấy vì chẳng gặp được thứ mà mình muốn.”

“Chuyện một nhà cổ sinh vật học không tìm thấy thứ mình muốn so với chuyện một nhà săn ma không gặp được thứ mà mình truy đuổi khác nhau rất xa,” Shelby trầm ngâm. “Ý chị là xương khủng long có đầy ngoài kia, vấn đề là em có gặp may để khai quật chúng hay không. Nhưng ma… nếu ma có ở khắp mọi nơi, vậy sao đến giờ vẫn chưa ai chứng minh được chuyện đó?”

“Em đã từng đến một căn phòng mà nhiệt độ giảm xuống hai mươi độ chỉ trong vòng vài giây. Em ghi âm được bài đồng ca của nhà thờ vang lên trong dãy phòng trống rỗng bị khóa kín. Em từng thấy vòi nước tự động mở. Nhưng em chưa bao giờ thấy linh hồn nào xuất hiện. Trời đất, em biết là chuyện gì cũng có cách giải thích. Có lẽ là do Chúa Trời, yêu tinh, hay một thiên tài máy móc ở cách đó ba dặm vừa bấm nút điều khiển từ xa.”

Shelby cười toét miệng. “Có phải giống như cậu nhóc nào đó đến năm mười lăm tuổi vẫn tin vào ông già Noel không?”

“Em đã ngừng tin lúc mười tuổi rồi,” Ross đính chính. “Còn chị chắc không phải là người đặt bẫy trên mái nhà và bị bắt quả tang đâu nhỉ.”

“Em còn vết sẹo thủy đậu nhỉ.”

“Có dấu móng bò trên đó hẳn hoi.” Ross thò tay rút một điếu thuốc, nhưng lại nhìn sang Ethan và đổi ý. “Em nên từ bỏ việc này lâu rồi.”

“Hút thuốc hả?”

“Săn ma.”

“Tại sao em lại không từ bỏ sớm hơn?”

Ross nhớ đến lời Curtis Warburton nói: Một nửa công việc trong nghề này là phải nói với người ta những gì họ muốn nghe. Anh nhớ đến chiếc nhẫn đính hôn của Aimee lạc mất sau một đêm dù anh đã lật tung cả phòng lên. “Vì chuyện xảy ra toàn là những thứ em không hiểu… và em nghĩ phải điều tra cẩn thận thì mới hiểu được nguyên nhân.”

“Có lẽ trước kia em nên theo ngành vật lý mới phải.”

Ross nhún vai. “Khoa học không thể giải thích được tất cả mọi chuyện.”

“Như không giải thích được Chúa Trời sao?”

“Không đến mức cao siêu như vậy. Điều gì sẽ khiến một người vội lướt qua ba mươi nghìn người mà không ngoái đầu nhìn lại một lần, nhưng lúc nhìn đến người thứ ba mươi nghìn lẻ một, người đó lại nhận ra mình không thể rời mắt khỏi cô ấy lần nữa?”

“Ross à, tình yêu đúng là không thể giải thích bằng lý trí, nhưng đó đâu phải hiện tượng tâm linh.”

Ai nói? Ross nghĩ. “Ý em không phải vậy. Khi không thể nhìn thấy nhưng lại cảm nhận được thứ gì đó ngay trước mắt, vì sao chị sẵn sàng tin vào cảm giác của mình lúc đó nhưng lại không tin vào lúc khác?” Anh đứng dậy phủi quần. “Chị biết không, em đến những ngôi nhà đó… và tất cả những gì em cần làm là mở lòng lắng nghe người ta kể hết mọi chuyện. Họ không phải bị tâm thần, Shel…. Có những người là tiến sĩ hoặc giám đốc điều hành của mấy công ty nằm trong bảng xếp hạng Fortune 500. Khi một người nhìn thấy ma, người đó sẽ chỉ mong tìm được ai đó không cho là họ bị điên chỉ vì thừa nhận những điều cha mẹ dạy bảo là không đúng sự thật.”

Đó là những gì Ross từng muốn tin. Anh đã gặp những nhà ngoại cảm tuyên bố rằng nhìn đâu cũng thấy linh hồn, rằng những hồn ma ấy liên tục thu hút sự chú ý của họ. Nhưng giờ đây anh lại nghi ngờ. Anh bắt đầu tin rằng khi ai đó qua đời, thì thế là hết.

“Tiến sĩ hay giám đốc điều hành cũng có thể nói dối mà. Hoặc điên mà,” Shelby đáp lại.

“Thế thì một đứa nhóc 4 tuổi thì sao?” Ross quay qua nhìn chị. “Có một cậu nhóc chạy tới ôm mẹ giữa đêm khuya và bảo có một ông cụ trong phòng bảo hai mẹ con phải rời khỏi xưởng để ông ta đóng một cái bàn thì sao? Sau đó chị vào thư viện tìm hiểu và phát hiện căn nhà được xây dựng trên nền một xưởng mộc hai trăm năm về trước thì sao?”

“Chuyện đó… có thật sao?”

Cậu nhóc bốn tuổi đó cuối cùng phải tự đánh vào đầu mình để khỏi nghe thấy giọng nói của con ma; phải dụi mắt để không thể thấy nó. “Đúng là trẻ con cũng có thể phát điên. Nhưng quan trọng là em từng tự mình chứng kiến.” Tuy vậy, chính Ross phải tự hỏi liệu anh đang cố gắng thuyết phục chị gái hay bản thân mình.

Shelby vỗ vai anh. “Ross à, chị không biết nữa, nhưng nếu có ai đó tìm được bằng chứng về ma thì chị chắc chắn người đó sẽ là em.”

Anh chần chừ nhìn cô, thọc tay vào túi, móc ví tiền rồi lôi ra một tấm hình.

“Cậu đừng nói với chị là thứ này nhìn giống cái miệng và con mắt nhé.” Cô nheo mắt. “Còn có một bàn tay nữa này.”

“Em chưa nói gì với chị. Là chị tự nói với em đấy nhé.”

“Vậy cái này là cái gì?”

“Curtis Warburton gọi chúng là vật thể duy linh, hay còn gọi là ngoại khí. Khi em chụp tấm ảnh này, trong hồ không có sương mù, không có hơi thở, không có bất kỳ thứ gì cả. Nhưng đây là hình ảnh hiện trên phim âm bản. Phim chụp nhạy đến nỗi có thể bắt được ánh sáng, nhiệt độ và năng lượng điện từ… nói chung là những nguồn năng lượng mà linh hồn sử dụng để hiện hình.” Ross đút tấm hình vào ví. “Nhưng nói cho cùng, đây cũng có thể là do trong phòng rửa ảnh người ta đổ nhầm hóa chất gì đó.”

Anh không kể lúc chụp bức hình đó, không khí bỗng trở nên lạnh buốt, khiến lông tay, lông chân anh dựng đứng, rồi suốt cả ngày hôm đó, tay anh run rẩy còn mắt như không tài nào nhìn tập trung nổi.

“Em chắc là không có sương khói gì khi chụp ảnh chứ?” Shelby hỏi lại.

“Không có.”

Cô cau mày. “Nếu thấy bức ảnh trên báo, chị sẽ nghĩ nó đã qua chỉnh sửa. Nhưng…”

“… nhưng vì em là em trai chị nên chị phải tin em sao?”

Ethan phóng đến trước mặt hai người và kêu lên. “Ở một mỏ đá trong thành phố có người đàn ông bị sát hại vào nhiều năm trước. Mọi người đều nghĩ mỏ đá đó bị ma ám. Chúng ta có thể đi và…”

“Không” Ross và Shelby đồng thanh.

“Ôi trời,” Ethan càu nhàu rồi lượn ra xa.

Ross nhìn về phía chân trời, màn đêm đã bắt đầu ửng hồng. “Đến lúc vào nhà rồi đúng không?”

Shelby gật đầu và bắt đầu thu dọn đồ đạc. “Vậy giờ em sẽ làm gì?”

“Theo dấu vật thể bay không xác định.” Anh nhìn cô chị. “Giỡn thôi mà.”

“Em có thể làm bảo mẫu khi chị đi làm. Mặc dù trông nom Ethan có thể còn đáng sợ hơn công việc trước kia đấy.”

“Ma không hề đáng sợ,” Ross phản bác trước khi sực nhớ phải chọn từ cẩn thận hơn. “Họ là người. Họ từng là người mà.”

Đang gấp chăn, Shelby khựng lại. “Nhưng em chưa từng thấy con ma nào.”

“Đúng là vậy.”

“Mặc dù em rất muốn.”

Ross gượng cười. “Này, em chưa từng thấy một tờ mười ngàn đô la nhưng em vẫn luôn muốn thấy một tờ đấy.”

Nghỉ việc lúc này đúng là sáng suốt. Anh chỉ phải tự thuyết phục bản thân yên lòng với quyết định đó. Sự thật là suốt chín tháng qua, anh chẳng tìm thấy thứ cần tìm. Anh chưa bao giờ nhìn thấy ma quỷ vì đâu có gì hiện hình lên mà nhìn.

Nhưng có lần, một bức hình kỳ quái đốt cháy một lỗ sau túi quần anh; có lẽ hồn ma đó đã sử dụng sức mạnh từ nhiệt lượng, ánh sáng hoặc thậm chí từ pin của máy chụp hình, để hiện hình cho người ta nhìn thấy. Đối với Ross, chuyện này hoàn toàn hợp lý. Dù sao đi nữa, Aimee chính là người tiếp thêm sinh lực cho anh. Không có cô, anh chẳng khác gì một hồn ma, sống vô định lay lắt qua ngày.

“Tôi chưa hề ủi vào anh ta!” viên đốc công đang trong ca trực hét lên. Gương mặt ông ta bóng lưỡng đỏ ửng như quả mận. Từ trên xe ủi, ông ta trừng mắt nhìn xuống Eli, hai khoanh tay lại trước cái bụng phệ.

“Ông Champigny…”

“Winks.” Người đàn ông nằm uể oải dưới đất cười gian trá với Eli. “Đấy là tên mọi người hay gọi tôi.”

Chú chó của Eli đột nhiên nhảy ra và vồ lên ngực Winks. “Đi xuống, Watson,” Eli ra lệnh. “Ông Champigny tôi yêu cầu ông đứng dậy. Tập đoàn Redhook đã được cấp phép theo hợp đồng để thẩm tra khu đất này.”

“Anh ta đang nói tiếng Anh đấy à?” Winks hỏi nhóm người đứng gác gần đó.

“Anh không thể bắt giam bọn họ sao?” Rod van Vleet hỏi.

“Họ chưa hề gây sự. Đây chỉ là tranh chấp dân sự thôi.” Đây là những gì ngài cảnh sát trưởng Follensbee đã ra lệnh cho Eli. Ông ta không hề muốn làm trầm trọng thêm chuyện vốn có thể bùng nổ thành cuộc tranh chấp sắc tộc. Eli biết bộ tộc Abenaki sẽ không làm to chuyện nếu họ không bị dồn ép quá mức. Đồng thời anh cũng chẳng có tâm trạng đâu ra cho chuyện này. Anh còn phải đi tóm một gã say tên là Abbott Thule ở cửa tiệm tạp hóa và đưa hắn tới phòng tạm giam để tỉnh rượu. Anh còn phải kiếm gì đó cho con Watson ăn. Anh lại càng không muốn phí thời gian với đám thổ dân sở hữu sự kiêu căng láo xược đủ để lấp đầy hồ Champlain.

Anh xoa xoa gáy. Vào những lúc thế này, Eli tự hỏi tại sao mình không chuyển đến Florida sau khi mẹ qua đời. Mới ba mươi sáu tuổi mà anh đã quá vất vả. Quỷ sứ thật, anh lẽ ra có thể đi dạo cùng bố, đánh một trận golf chẳng hạn. Anh lẽ ra đang ngồi dưới gốc cây cọ. Chú chó Watson ngồi cạnh nhe răng như cười với anh.

“Có người còn sống tại khu đất này,” Winks khăng khăng lý sự.

“Thật thế sao?” Eli hỏi.

Mặt Rod sa sầm. “Chưa tìm thấy thứ gì cả. Chỉ có một hộp thiếc nhỏ, mảnh vỡ đồ gốm và một đồng xu năm 1932.”

“Một đầu mũi tên nữa,” Az Thompson nói to. “Đừng quên có đầu mũi tên đấy nhé.”

Nhân viên quy hoạch đảo mắt. “Vâng, đúng vậy, họ tìm thấy một đầu mũi tên. Nhưng thứ này chẳng minh chứng được gì ngoài việc có một đứa con nít nào đó chơi trò Cao bồi và Thổ dân ở đây.”

Az Thompson tiến về phía họ. “Chúng tôi cũng chẳng quan tâm tới những đầu mũi tên. Cái chúng tôi quan tâm là tổ tiên mình. Ông chưa từng xem bộ phim Quỷ Ám sao? Nếu các ông đào bới nơi yên nghỉ của họ, đảm bảo dù có xây dựng thứ gì ở đó thì cũng không yên ổn được đâu.”

Eli tự hỏi lão già này có liên hệ quái gì đến khu đất. Theo như anh biết thì Az chuyển từ nơi nào đó ở phía tây đến thị trấn Comtosook. Phải công nhận là thời gian Az sống ở thị trấn cũng ngang ngửa với Eli, nhưng dường như ông ta chẳng liên quan gì đến khu đất. Chắc ông ta căm hận dự án quy hoạch không phải vì lý do cá nhân mà là vì nguyên tắc thôi.

“Đây là lời đe dọa,” Rod tố cáo với Eli. “Cậu nghe ông ta nói rồi đấy.”

Az cười lớn. “Tôi đe dọa anh cái gì?”

“Nguyền rủa. Một… lời nguyền.”

Ông lão thổ dân khum tay quanh tẩu thuốc và mồi lửa. Ông hít khói vào, từng chữ nhả ra theo làn khói. “Cậu nên tin vào những chuyện này trước khi nó thực sự ra tay với cậu. Cậu có tin vào mấy chuyện thế này không, cậu van Vleet?”

“Nghe này, Az” Eli thở dài. “Tôi biết các người cảm thấy thế nào về công ty phát triển này. Nhưng nếu có khiếu nại gì thì nên đến tòa án là tốt nhất.”

“Lần gần nhất hệ thống pháp lý này phán xét điều gì tốt nhất cho bộ tộc Abenaki, họ đã tiêu diệt gần hết bộ tộc chúng tôi,” Az mỉa mai. “Không, Thám tử Rochert, tôi nghĩ chúng tôi sẽ không khiếu nại với tòa án của anh đâu.”

“Tòa án của anh?” Winks lập tức đứng dậy, khịt khịt mũi và phủi bụi trên quần jean. “Eli, ai nói với cậu rằng bộ đồng phục màu xanh đẹp đẽ sẽ làm làn da của cậu trông ít giống thổ dân hơn?”

Không hề nghĩ ngợi, Eli lao đến tấn công Winks, túm lấy vạt áo và ném anh ta vào cạnh chiếc xe ủi đất. Watson lao theo ngay, nhe răng. Eli nghe thấy tiếng đầu Winks đập bốp vào khung sắt, sau đó lý trí quay lại với anh. Anh cảm thấy Az Thompson đang nhìn mình chằm chằm, không khí như nghẹn trong phổi.

Khi Eli quay người đi và gọi chú chó của mình, anh nhớ tới chuyến câu cá bên hồ suốt mùa hè với người họ hàng của mẹ. Những cậu bé da nâu rám nắng đi chân trần, thích thú rượt đuổi nhau và dẫm bẹp đám cỏ cao trong phạm vi gần một dặm vuông. Lúc hơn mười tuổi Eli mới biết ra cái hồ tên Pitawbagw - nghĩa là vùng nước trung tâm - có tên trên bản đồ là hồ Champlain.

Gật đầu với tay tài xế xe ủi, Eli ra hiệu tiếp tục. Anh cố ý quay lưng lại với đám thổ dân để tránh mất bình tĩnh.

Một tuần sau khi đến Comtosook, Ross thơ thẩn dọc bờ hồ, lờ đi tiếng đá sỏi sột soạt dưới chân. Nước hồ lạnh - lạnh buốt quá mức so với tháng Tám - nhưng anh chẳng hề quan tâm. Chỉ cần còn có cảm giác, dù không thoải mái, cũng tốt rồi.

Hồ Champlain dài đến nỗi không thể nhìn thấy cuối hồ bên kia từ đầu hồ bên này. Dãy núi Adirondacks thấp thoáng bên bờ đối diện trông như những người lính. Aimee được sinh ra bên kia hồ, tại vùng ngoại ô New York. Vào cái ngày bầu trời sụp đổ ấy, hai người đang trên đường lái xe đến nhà bố mẹ cô.

Một lần nọ, tại hiệu sách ở Manhattan nơi Ross làm việc có một tác giả đến diễn thuyết về nghi thức tang lễ. Trong nghi thức chôn cất của người Tây Tạng, nhà sư sẽ xẻo thịt từ cái xác, cắt thành từng miếng để chim kền kền dễ ăn. Ở Bali, thi thể người chết được chôn trong nhiều năm để lên kế hoạch cho một nghi lễ hỏa thiêu đầy công phu. Nhưng trước khi mai táng, xác chết sẽ được đặt trên một tháp tre trang trí sặc sỡ, quay tròn, vẩy nước và lắc lư để linh hồn không tìm được đường quay về.

Đêm đó, Ross phải quần quật xếp ghế cho khán giả rồi sắp xếp sách ký tặng lên bàn, lại còn phải đưa nước cho tác giả tại bục diễn thuyết. Đúng là đông khủng khiếp - mấy nhà xã hội học chen chúc giữa đám chơi style Goth tóc tai lỉa chỉa khoác áo đen. Ross đứng đằng sau lắng nghe, cảm thấy ngạc nhiên vì có quá nhiều cách để con người vĩnh biệt cuộc sống.

Aimee vội vàng lách vào đám đông giữa bài diễn thuyết. Cô vẫn đang khoác áo bệnh viện. Ross nghĩ ngay rằng chắc cô lạnh cóng rồi. Lúc ở nhà Aimee vẫn mặc cái áo đó thay đồ mặc nhà mà còn thấy lạnh, huống chi cô lại vừa băng qua mấy con phố vào tháng Mười Hai.

Ý nghĩ thứ hai của anh: có gì đó không ổn rồi.

“Này.” Ross ôm chầm lấy Aimee khi cô suýt bước ngang qua anh để tiến vào khu giá sách.

Cô nhào thẳng vào lòng anh rồi thút thít khóc. Vài khán giả quay lại, còn tay diễn giả thì liếc mắt vì bị phân tâm.

Ross kéo Aimee vào khu sách làm vườn, nơi mà chẳng kẻ nào ở New York buồn ngó đến. Anh dùng tay ôm lấy gương mặt cô, tim anh đập thình thịch: Cô bị ung thư sao; hay có thai; hay là cô không còn yêu anh nữa.

“Martin đi rồi,” cô nghẹn ngào thốt lên.

Ross ôm cô, cố gắng nhớ cái tên. Từng đoạn ngắn thông tin hiện lên trong đầu anh - Martin Birenbaum, 53 tuổi, là nạn nhân vụ cháy ở nhà máy hóa chất. 85 phần trăm cơ thể ông bị bỏng cấp độ ba. Ca bệnh này được giao cho Aimee, một sinh viên y khoa năm ba đang làm việc ở phòng cấp cứu. Cô phải cố gắng giúp ông ấy cảm thấy dễ chịu bằng cách xử lý vết thương, giữ chúng sạch sẽ và bôi thuốc Silvadine. Khi ông hỏi mình sắp chết phải không, cô đã nhìn vào mắt ông ấy và trả lời là đúng.

Martin là bệnh nhân đầu tiên chết trên tay Aimee, vì vậy cô chẳng thể nào quên được gương mặt ông ấy. “Em cố ở cạnh ông ấy vì biết mình không giúp được gì,” Aimee tâm sự. “Em biết thời gian có thể khiến mọi thứ dễ chấp nhận hơn. Nhưng cũng có thể không. Lẽ ra em không nên học y.” Cô đột nhiên nhìn chằm chằm vào anh. “Khi em chết, anh phải ở cạnh em nhé. Như hôm nay em đã làm với bệnh nhân.”

“Em đâu phải là người sắp chết…”

“Ross, lạy Chúa, em vừa trải qua một trải nghiệm đau đớn tột cùng… Anh không thể hứa với em sao?”

“Không được,” anh trả lời thẳng thừng. “Vì anh sẽ là người ra đi trước.”

Cô im lặng một lúc, rồi một tiếng cười nhỏ xíu vang lên. “Anh đặt vé chưa?”

“Ngạ quỷ, hay còn gọi là ma đói,” tay diễn giả đang thao thao bất tuyệt, “là hồn ma của những người Trung Hoa chết bất đắc kỳ tử… nên họ mới lang thang khắp nơi gây họa cho người sống.”

Aimee lập tức ngẩng đầu lên. “Chúng ta đang nghe thứ quái quỷ gì vậy, Ross?”

“Đúng vậy,” anh trả lời. “Đúng là tào lao thật.”

Sau đó, hai người không bao giờ nhắc đến Martin Birenbaum nữa. Ross đi cùng Aimee tới dự đám tang. Hồi Aimee còn sống, có những bệnh nhân khác nữa đã qua đời, nhưng anh chẳng nhớ cô có suy sụp thêm lần nào nữa hay không. Rốt cuộc, cô cũng như đa số bác sĩ đều hiểu cái chết chỉ là đoạn cuối của cuộc đời.

Anh lia một hòn đá xuống hồ Champlain, hòn đá chìm xuống trước khi hòn đá thứ hai anh ném trượt trên mặt nước. Aimee được hỏa táng. Tro cốt của Aimee được rải ở đâu đó bên kia hồ, gần với cha mẹ cô ấy. Anh không biết bọn họ giờ ra sao. Ba năm sau khi Aimee qua đời, anh không nhận điện thoại và thư từ của họ vì quá đau khổ.

Ross nhặt giày lên, định quay về xe. Lúc ngồi vào ghế lái, anh sực nhớ đến câu chuyện của nhà diễn thuyết tại hiệu sách. Người Mexico tin rằng hằng năm có một ngày bức màn âm phủ được vén lên và những linh hồn xa xưa có thể quay về thăm hỏi người mà họ đã bỏ lại sau lưng.

Khi em chết đi, anh phải ở cạnh em nhé.

Nhưng lúc đó anh chẳng ở cạnh cô. Và bây giờ anh cũng chẳng theo cô được.

Văn phòng của Meredith Oliver tại Viện Nghiên Cứu Generra mang mã bưu điện của thủ đô Washington D.C. Nhìn từ cửa sổ văn phòng, người ta có thể thấy được Đài Tưởng Niệm Jefferson. Cô thấy đúng là mỉa mai khi đám nhà khoa học tại đây vẫn luyên thuyên mãi về tư tưởng con người sinh ra đều bình đẳng - nhưng trong mắt họ chỉ có tinh trùng và trứng khỏe nhất mới nên tồn tại.

Ông bà De la Corria ngồi trước mặt cô đang lo lắng nắm chặt tay nhau. “Tin tốt đây,” Meredith mỉm cười thông báo. Hơn mười năm kinh nghiệm chẩn đoán di truyền tiền cấy phôi, cô hiểu chuyện khiến các cặp vợ chồng căng thẳng còn hơn quá trình thụ tinh trong ống nghiệm chính là việc chờ đợi kết quả kiểm tra trước khi thụ tinh. “Có ba phôi sống được.”

Carlos De la Corria mắc chứng rối loạn đông máu. Vì sợ di truyền sang con, ông và vợ đã chọn phương án hỗ trợ sinh sản, nghĩa là Meredith sẽ tiến hành sàng lọc di truyền các phôi tạo ra từ tinh trùng và trứng của hai người. Trước khi phôi thai được cấy vào tử cung, bà mẹ biết chắc con mình sẽ không mắc chứng rối loạn đông máu.

“Bao nhiêu phôi là con trai?” Carlos hỏi.

“Hai.” Meredith nhìn thẳng vào mắt ông. Gene rối loạn đông máu nằm trên nhiễm sắc thể X. Điều này có nghĩa những bé trai sinh ra trong nhà De la Coria sẽ không tiếp tục di truyền căn bệnh của cha. Vậy nếu chúng tiếp tục có con trai, chứng rối loạn đông máu sẽ được xóa sổ khỏi thế hệ tương lai của gia đình.

Carlos nhấc vợ khỏi ghế và xoay tròn bà quanh văn phòng nhỏ của Meredith. Tất cả những nhà đạo đức học luôn sợ hãi về hậu quả khi tác động lên gene đúng là nên chứng kiến những khoảnh khắc thế này. Trên bàn làm việc của Meredith là hai bức ảnh - một bức ảnh của Lucy và bức ảnh kia là bệnh nhân đầu tiên của cô, một người phụ nữ mắc bệnh xơ nang đang ôm con trai cười rạng rỡ. Nhờ có Meredith, con cô ấy sinh ra không mang căn bệnh đó.

Bà De la Corria ngồi xuống ghế một lần nữa, vẫn chưa hít thở được bình thường. “Còn phôi nữ?” bà nhẹ giọng thắc mắc.

“Phôi thai thứ 3 có nguy cơ truyền bệnh cho đời sau. Tôi rất tiếc,” Meredith trả lời.

Ông Carlos siết tay vợ. “Vậy thì,” ông nói với vẻ lạc quan. “Có vẻ như chúng tôi sắp có hai cậu con trai sinh đôi.”

Vẫn còn nhiều trở ngại cần vượt qua, và có khả năng phôi thai không phát triển được tới cùng - Nhưng Meredith đã hoàn thành trách nhiệm. Kể từ lúc này, những bác sĩ khác tại Viện Nghiên Cứu Generra sẽ đảm nhận việc cấy phôi cho người mẹ. Meredith đáp lại lời cảm ơn của vợ chồng nhà De la Corria rồi in ra lịch khám của mình. Còn hai ca hội chẩn khác, sau đó cô sẽ có nguyên buổi chiều làm việc trong phòng thí nghiệm.

Meredith đeo kính đọc sách - vì chẳng muốn phô trương nên cô vẫn nhét kính trong túi - rồi kéo cây bút gài mớ tóc xoăn của mình. Mái tóc vàng hoe xoăn tít phủ ngang vai như có cá tính riêng nên lúc nào cũng lộn xộn. Đây đúng là trò đùa của Chúa dành cho Meredith Oliver, một người thích kiểm soát mọi thứ. Cô xoa tay lên mặt, dụi dụi đôi mắt nâu đỏ ngầu. “Tối nay,” cô tự nói thành tiếng với chính mình, “Tôi sẽ không làm việc nữa. Tôi sẽ về nhà, tắm nước nóng, và đọc cho Lucy nghe một bài gì đó không phải trích từ tạp chí Lý thuyết di truyền?

Cô tự hỏi nếu nói thành lời thay vì nghĩ trong đầu chẳng biết có quyết tâm thực hiện hơn hay không.

“Bác sĩ Oliver?” Tiếng gõ cửa vang lên, rồi cô thư ký xuất hiện. “Gia đình nhà De la Corria đã ký giấy xác nhận.”

Không cần nhìn, Meredith cũng biết đây là cái gì - Giấy xác nhận để Viện Nghiên Cứu Generra loại bỏ phôi thứ ba của họ, phôi nữ. “Họ lẽ ra nên đợi đến khi cấy ghép xong, vẫn có khả năng không cấy được phôi, và sau đó…”

Giọng cô nhỏ dần. Chuyện này cũng chẳng thay đổi được gì. Gia đình De La Corria thà không có con còn hơn sử dụng phôi thai bé gái này. Đứa con của họ vẫn có khả năng không di truyền chứng rối loạn đông máu… vẫn có khả năng cô bé sở hữu mái tóc bóng mượt của mẹ và đôi mắt màu hạt dẻ của cha sẽ lớn lên khỏe mạnh. Nhưng vì mang nguy cơ di truyền bệnh cho đời sau nên cha mẹ thà rằng không sinh ra bé thì hơn.

Meredith ký vào giấy xác nhận rồi đặt sang một bên. “Vợ chồng nhà Albertsons đến rồi,” cô thư ký thông báo.

“Chờ tôi một phút.”

Ngay khi cánh cửa đóng lại, Meredith nhấc điện thoại gọi về nhà. Cô tưởng tượng ra cảnh con gái đang ngồi trên bàn ăn tập viết những từ bắt đầu bằng chữ U hay chữ V. Hai bím tóc xoăn xõa xuống lưng cô bé như mô hình hệ gene con người. Lucy nhấc máy. “Ai đấy ạ?”

“Chào con, Cọng Mì Bé Bỏng.”

“Mẹ! Mẹ đang ở đâu vậy?”

“Mẹ đang ở trên sao Mộc. Còn con?”

“Ở sa mạc Calamari.”

Meredith mỉm cười. “Phải là Kalahari chứ.”

“Khi nào mẹ về nhà thế?”

“Sớm thôi con.”

Bỗng dưng cô bé im lặng. “Trước khi trời tối được không mẹ?”

Meredith nhắm mắt. “Mẹ sẽ về ăn tối,” cô hứa. “Nói với bà Ruby đi. Và không được ăn thêm bánh Oreo cho tới khi mẹ về nhà nhé.”

Lucy nấc một cái. “Làm thế nào mà mẹ biết con đang…”

“Bởi vì mẹ là mẹ của con. Yêu con.” Meredith gác máy, sau đó xoắn tóc cao lên đỉnh đầu. Cô mò mẫm tìm một sợi dây thun trong ngăn kéo, nhưng chỉ thấy mấy chiếc kẹp giấy có tác dụng như kẹp ghim. Mắt cô liếc qua giấy xác nhận của vợ chồng De la Corria đã ký. Trong cơn bốc đồng, Meredith nhét tờ giấy vào ngăn kéo dưới bàn làm việc. Tạm thời cô sẽ coi như tờ giấy này bị thất lạc, phòng khi có gì ngoài ý muốn.

Meredith nhấn nút điện thoại nội bộ. Một khắc sau cánh cửa mở ra và vợ chồng nhà Albertson xuất hiện. Như hầu hết các cặp vợ chồng lần đầu tiên đến văn phòng của cô, hai người trông vừa chán nản vừa kiệt quệ. Meredith chìa tay ra, nói dứt khoát. “Tôi là bác sĩ Oliver. Tôi đã đọc qua trường hợp của hai vị. Và tôi có thể giúp.”

Az biết trong trường hợp khẩn cấp, ông còn chẳng đuổi được một con sóc ra khỏi mỏ đá Angel, huống hồ là một kẻ đột nhập có vũ trang. Mấy ông chủ giữ Az lại làm bảo vệ chỉ vì lòng trắc ẩn hay thương hại, hoặc có lẽ vì ông chỉ lấy phân nửa tiền lương. May mắn thay, chỉ có một con đường dẫn đến khu mỏ, mà thật ra Az cũng chẳng buồn quan tâm đến chuyện đó. Ông ngồi trong căn lều nhỏ thắp đèn tại văn phòng khu mỏ. Thay vì phải theo dõi ba màn hình giám sát khắp nơi, ông lại dán mắt vào màn hình thứ tư đang chiếu trận đấu của đội tuyển bóng chày Red Sox.

“Hả,” ông Az khịt mũi liên tục. “Người ta trả cho mấy đứa mười một triệu đô la một năm chỉ để vậy thôi sao?”

Nơi này là một trong những mỏ đá granite ở bang Vermont. Vân đá in đậm vào vách núi như những nếp nhăn hằn sâu trên gương mặt Az. Hồi trước, người ta khoan đá bằng cách thủ công, cho nổ tung rồi nghiền đá để xuất khẩu. Ngày nay hầu hết mọi công đoạn đều do máy móc điều khiển. Lúc làm việc một mình ban đêm, Az chưa từng thấy bóng dáng ai khác, dù giữa giờ làm cao điểm thì chỗ này cũng vắng ngắt như vậy. Đôi khi Az tự hỏi có phải mình là người duy nhất được thuê làm việc ở đây.

Suốt ba mươi năm làm việc ở mỏ đá, ông chỉ trình lên hai bản báo cáo an ninh. Một bản liên quan tới cơn bão sét kích nổ một chỗ vốn dự kiến sẽ cho nổ vào ngày hôm sau. Bản thứ hai là về một người đàn ông muốn tự tử. Ông ta cố tình trèo lên bức tường bảo vệ rồi nhảy xuống đống đá nhọn bên dưới. Người đàn ông ngốc nghếch này bị gãy hai chân, rồi hồi phục và thành lập một công ty mạng.

Ông Az thích làm việc một mình vào ban đêm. Nếu im lặng khi đi tuần xung quanh, ông có thể nghe thấy tiếng nụ hoa nở; ngửi thấy hương vị lúc giao mùa. Thỉnh thoảng ông còn nằm ngửa, gối đầu lên hai tay để ngắm những vì sao tự biến đổi thành những chòm sao tái hiện lại đời mình - chòm sao hình bò tót giận dữ, chòm sao cán cân công lý bị lệch, chòm sao sinh đôi đáng yêu mà ông đã đánh mất nhiều năm về trước.

Ông tự hỏi điều gì đang diễn ra tại khu Otter Creek Pass này. Tuần vừa rồi, Rod van Vleet đến thẩm tra khu đất, sự kháng nghị của bộ tộc Abenaki trở nên căng thẳng, lôi kéo sự chú ý của dư luận. Có ích nhất là chuyện tên sâu rượu Abbott Thule của thị trấn tỉnh dậy vào buổi sáng với mái tóc thẳng trở nên xoăn tít. Gã ta đành phải dành cả ngày trong nhà thờ kể lể với Chúa và đổ tội cho ma quỷ vì việc xui xẻo của mình. Tin đồn lan khắp Comtosook như đám cánh hoa hồng lác đác rơi lên dãy xe đỗ tại cửa hàng Dairy Twirl và làm tắc ống cống phòng tắm ngoài trời của hồ bơi thị trấn.

Nếu Rod van Vleet có chút đầu óc thì gã ta sẽ biết tranh thủ đêm khuya mà đưa mớ thiết bị xây dựng vào khu đất, khi đám thổ dân đang ngáy khò khò trong lều ở phía xa. May mắn là tên cầm đầu của tập đoàn Redhook đúng thiểu năng. Xét tới cuộc chống đối vô tổ chức của bộ tộc Abenaki thì hai phe đang ở vị thế cân bằng.

Một con côn trùng phát sáng nhỏ xíu vụt qua mắt Az. Nhưng ông nhận ra đấy không phải là một con bọ mà là một đốm sáng trên màn hình quan sát tối đen như mực hướng đến bờ tường phía Bắc. Một cơn hưng phấn rùng cả hai vai của Az - Phải mất một lúc ông mới hiểu vì sao mình lại phấn khích đến thế. Az chỉnh lại chiếc mũ trên đầu rồi hướng về nơi phát ra đốm sáng. Dấu vết của tuổi già rơi rụng theo từng bước chân, khiến ông mạnh mẽ tiến tới với dáng đi thẳng tắp như cây sồi lao về phía bầu trời.

Ross không biết nên trách ai nhiều hơn: Ethan đã gieo hạt giống tò mò vào đầu anh, hay do chính anh quá để tâm. Cậu cháu nói khu mỏ Angel bị ma ám, mọi người đều nói thế. Ross rảo bước dọc theo đường mòn đến khi thấy tóc gáy dựng đứng. Vậy anh sẽ bắt đầu điều tra từ nơi này. Bài học từ nhóm Warburton là không được sử dụng đèn pin. Chính quyền thường mặc kệ những người săn ma, nhưng đột nhập đất riêng vẫn là trái phép. Nếu muốn thăm dò nghĩa trang, phải biết cho xe đi thụt lùi và không bật đèn pha để nhanh chóng chạy trốn lúc cần. Nếu lẻn vào đất tư nhân thì càng phải làm mọi cách để tránh gây chú ý.

Nỗi nhớ nhung về Aimee lúc chiều làm Ross muốn thử một lần cuối cùng, dù đã tuyên bố bỏ nghề. Vậy nên anh đi từ hồ Champlain đến Burlington, tìm tới cửa hàng điện tử hạ giá để mua một cái máy quay phim hồng ngoại mới toanh. Khi Shelby dọn bữa tối lên bàn, anh bảo với chị gái rằng tối nay mình có hẹn.

“Thật sao?” Nụ cười rạng rỡ của Shelby mức khiến Ross cảm thấy chói mắt. “Ai thế?”

“Không phải chuyện của chị.”

“Ross,” Shelby đáp lại, “đây đúng là chuyện em cần.”

Ross không thích nói dối Shelby. Ross ghét cách chị ấy với tay qua kính xe chỉnh lại cổ áo cho anh rồi nói rằng cửa sẽ để mở đến lúc anh trở về.

Lúc này, khi Shelby đang tò mò rốt cuộc Ross đang hẹn hò với ai thì anh đang đặt đèn pin lên tảng đá, bắt tay lắp đặt đế ba chân cho máy quay phim. “Mình không cố ý đến tìm cái gì hết,” Ross nhìn qua ống ngắm và thì thầm. Anh do dự rồi lại tự nhủ.

Anh đã bỏ nghề rồi.

Anh không tin vào ma quỷ nữa, không còn nữa.

Nhưng nếu cái gì đó xuất hiện bây giờ thì sao? Nếu anh lập tức bỏ đi mà không tìm hiểu cặn kẽ thì sao? Nếu Ethan nói đúng về chuyện có ai đó bị giết tại mỏ đá - thì chắc sẽ có một linh hồn không yên nghỉ quanh quẩn đâu đây. Nếu hồn ma không chịu lên thiên đường hay cõi nào khác vì có chuyện chưa hoàn thành - kiểu như những người chết tức tưởi hoặc tự tử mà không để lại lời nhắn nào. Cũng có thể họ ở lại vì không muốn xa rời người mình yêu.

Ross biết nếu gặp may thì anh có thể bắt được một hay hai luồng sáng gì đó vụt qua. Anh có thể thu được vài hiện tượng giọng nói điện tử. Và nếu có bằng chứng về hiện tượng tâm linh ở khu mỏ này, thì Aimee chắc cũng đang quanh quẩn đâu đó.

Mặc cho cảm giác dẫn dắt, Ross hướng máy quay vào một chỗ trong khu mỏ mà anh không tài nào rời mắt khỏi, dù chẳng biết có vụ giết người nào từng xảy ra hay không. Anh đổi qua cuộn phim mới, kiểm tra pin rồi ngồi xuống đợi.

Đột nhiên anh lóa mắt trước ánh đèn pha. “Cho tôi giải thích,” anh thốt lên.

Nhưng dù muốn nói gì thì Ross cũng cứng họng khi nhận ra mình đang đối mặt với một người tiền sử trong bộ đồng phục bảo vệ cũ kỹ; một người đàn ông với ánh mắt chứa chất đủ thăng trầm dâu bể, đến nổi Ross chắc chắn mình đang gặp một bóng ma.

“Ông là ai?” anh lắp bắp. Dáng điệu lóng ngóng như chưa bao giờ thấy một người thổ dân nào của Ross khiến Az tức giận.

“Cậu đột nhập trái phép,” Az gầm gừ.

“Vùng đất này từng là của ông sao?”

Chúa Jesus thân mến, thế là hai người bắt đầu tán gẫu về những người thổ dân bị treo trên cây xương rồng peyote. Az trông hom hem già nua trong bộ đồng phục đã mặc suốt hai mươi lăm năm, dù sao thì… Anh chàng này có vẻ bình thường với mái tóc dài đen nhánh đặc trưng của dòng máu tộc Abenaki. Chỉ thế thôi cũng đủ khiến Az mềm lòng. “Nghe này, tôi nói cho cậu biết. Cậu cứ thu dọn tất cả những gì đang làm và rời khỏi đây đi, tôi sẽ không kể với ai về việc bắt quả tang cậu đâu.”

Ross gật đầu rồi tiến lại gần, định chạm vào Az. Giật mình, Az lùi ra sau và rút dùi cui ra.

“Làm ơn! Tôi chỉ… tôi chỉ muốn hỏi ông vài câu thôi.”

Chúa ơi. Nếu cứ kiểu này thì Az sắp bỏ lỡ cả hiệp đấu thứ mười bảy mất.

“Ông sống ở đây sao?”

“Không, và tôi cũng không sống trong lều thổ dân, nếu đó là câu hỏi tiếp theo.” Az chộp tay anh. “Giờ thì tắt cái thứ đó đi và…”

“Ông có thể chạm vào tôi sao…?”

“Tôi còn có thể đánh cho cậu ra bã nữa nếu cậu còn tiếp tục hành động như thế,” Az càu nhàu. “Đội Red Sox đang hòa với đội Yankee nên phải nhanh lên.”

Gương mặt kẻ đột nhập héo đi thấy rõ. Lúc ngồi bên giường bệnh của bạn mình, Az từng thấy vẻ mặt ấy, cứ như sinh khí của cậu ta bỗng vụt tắt. “Đội Red Sox sao,” anh ta lẩm bẩm. “Vậy ông không phải ma rồi.”

“Tôi có thể đã già nhưng tôi chắc rằng mình chưa chết.”

“Tôi cứ nghĩ ông là…” Anh lắc đầu và vươn tay ra. “Tôi là Ross Wakeman.”

“Cậu đúng là đồ điên, điên nặng rồi.”

“Tôi cũng nghĩ vậy.” Ross vuốt tóc. “Tôi là một người nghiên cứu về các hiện tượng tâm linh. À, đúng ra khi trước có làm.”

Az nhún vai. “Cậu từng tìm được gì chưa?”

Ross khựng lại. “Vậy ở đây có gì để tìm không?”

“Chưa từng thấy gì khác ngoài tôi ra. Dù sao thì ở đây cũng chẳng có gì.”

“Vậy ông biết chỗ nào khác sao?”

Az lảng tránh câu hỏi. “Cậu không được đến đây. Đất sở hữu tư nhân.”

Ross vờ bận rộn lau chùi thiết bị nhằm tranh thủ chút thời gian. “Tôi nghe kể nhiều năm trước ở đây có vụ giết người.”

“Người ta đồn thế thôi.”

“Ông biết chuyện gì xảy ra không?”

Az nhìn vào đường hầm của khu mỏ. “Chuyện này xảy ra trước khi tôi làm bảo vệ.”

“Được rồi.” Ross nhấc túi đựng máy quay lên và đeo lên vai. “Xin lỗi về việc… nhận nhầm kia.”

“Không có gì đâu.” Az tiễn chàng trai trẻ ra ngoài. Khi Ross đến chỗ đậu xe, Az vòng tay qua khung cửa bằng gang. “Cậu Wakeman,” ông gọi. “Những hồn ma cậu đang tìm đó? Không cách cậu quá xa đâu.”

Ông quay lại phòng bảo vệ, bỏ mặc Ross bối rối nên xem đó là một lời hứa hẹn hay là đe dọa.

• • •

Vài tuần sau, cư dân thị trấn Comtosook cũng dần tin mấy chuyện quái lạ là có thật. Mấy bà mẹ sau khi ngủ dậy không tài nào gọi được tên con mình vì cổ họng tắc nghẹn. Vài doanh nhân soi gương mà không nhận ra được khuôn mặt mình. Còn có mấy cặp tình nhân trẻ tuổi hay đậu xe tại công viên Point để xoắn xuýt lấy nhau, thì thầm những lời thề thốt cháy bỏng, nhận ra từng câu chữ ấy nhanh chóng vỡ tan như bong bóng xà phòng.

Shelby Wakeman thấy bọ rùa bám đầy mấy ô cửa sổ hướng ra phía bắc. Rod van Vleet không lái nổi xe của công ty quá một phần tư dặm đường vì hương quả mọng ùa vào khe thông gió làm không khí bên trong chiếc xe Taurus phát ngấy và đặc quánh như mứt. Ông Spencer Pike thò tay xuống gối đầu và phát hiện 3 quả trứng chim cổ đỏ màu xanh da trời.

Ethan giờ đã khá hiểu bệnh mình, tự nhiên thấy mình với tay bắt những tia nắng.

Đám mèo lũ lượt lẻn khỏi nhà và chạy ra sông tắm. Mực nước hồ Champain lên xuống hai lần một ngày như bị ảnh hưởng bởi thủy triều. Giàn hồng rụng sạch hoa, lá mọc thành một tầng dày lộn xộn. Các món trong bữa tối còn chẳng có vị bình thường.

Mặc dù thời tiết tháng Tám vẫn ôn hòa, khu đất đang tranh chấp trên đường Otter Creek Pass lại đóng băng cứng ngắc, khiến cho công tác đào móng trở nên bất khả thi xét về mặt vật chất lẫn tâm linh.

“Cậu nghĩ gì về chuyện này?” Winks Cáo Già thì thào thắc mắc lúc di chuyển dàn trống qua trái vài tấc. Mặt đất chỗ họ đang ngồi đều đóng băng. Nhưng trên đó, hoa bồ công anh vẫn nở.

Xứ New Zealand từng ghi nhận hiện tượng mặt đất đóng băng suốt mùa hè. Vào năm 1794, Niên giám Nông nghiệp dự đoán có sương giá vào tháng Bảy vì lỗi in ấn. Vậy mà chuyện đó lại trở thành sự thật khi núi lửa Vesuvius phun trào. Khói bụi bay vào bầu khí quyển tạo nên mùa đông bất thường. Cứ vài năm sương giá sẽ lan tới bang Vermont, làm nhiệt động giảm xuống dưới mức đóng băng, khiến trái cây chết héo trên cành. Nhưng thiệt hại đều xảy ra trên diện rộng toàn thị trấn chứ không chỉ ở một khu đất nhỏ.

“Anh nhớ những câu truyện về Azeban chứ?” Winks hỏi. “Mấy chuyện nghe hồi nhỏ? Tôi cứ nghĩ tới mãi.”

“Azeban?” Charlie Béo hỏi lại. “Cái con gấu mèo lừa đảo ấy à?”

“Ờ.” Winks gật gù. “Nhớ lúc nó ta bẫy người khác nhưng tự dính vào bẫy không? Có lần nó lén đi dập mất đống lửa mà Cáo đang ngủ kề bên, rồi chính đuôi nó bắt lửa.”

“Bây giờ mà có đống lửa thật thì tốt quá, thật đấy, ngay bây giờ…”

“Không, Charlie,” giọng ông Az vang lên từ phía sau. “ý của Winks là nếu cậu làm chuyện xấu với người khác, thì ác giả ác báo đấy.”

Ông nhìn mấy người bạn chọn chỗ ngồi rồi cầm dùi trống lên. Họ thường giết thời gian kiểu vậy, cùng hòa giọng thành một giai điệu mạnh mẽ và dai dẳng. Nếu không nghe bài hát bằng tiếng mẹ đẻ mà họ mãi không quên dù thế nào, thì chẳng ai biết được những người này thuộc bộ lạc Abenaki. Họ đã học rất tốt từ những bài học của quá khứ, tổ tiên của họ phải thông hôn để có tên họ gốc Âu và diện mạo của dân da trắng. Winks có mái tóc vàng còn làn da của Charlie Béo thì trắng như người Ireland.

“Ông nghĩ sẽ có chuyện nghiêm trọng hơn thế nữa không?” Winks thắc mắc. “Ý tôi là mấy chuyện quái lạ cứ tiếp diễn mãi.”

Winks chẳng cần phải giải thích vì ai cũng biết ngoài chuyện mặt đất đóng băng thì còn có chuyện đám ve sầu làm nghẽn máy xúc đất, khiến ông chủ hãng vận tải phải dùng máy hút bụi để tống khứ bọn chúng.

“Dân thị trấn đồn rằng nếu dân da đỏ không đuổi được tập đoàn Redhook ra khỏi khu đất thì các hồn ma sẽ ra tay,” Charlie Béo bổ sung.

“Nếu mộ của tôi bị máy ủi xúc lên thì tôi cũng điên tiết. Hừ, không biết chừng cũng sẽ hiện về nổi cơn thịnh nộ ấy chứ.” Winks khịt mũi. “Ông thấy thằng cha chuyên gia khảo cổ chứ? Mỗi khi cho rằng người ta chẳng thèm lắng nghe là gã ta sẽ nhắc đến “cha ông chúng ta”. Chẳng cần biết hồn ma có thật hay không thì cái từ đó cũng dọa cho đám dân thường chết khiếp rồi.”

“Không có thật sao? Hồn ma cụ tổ có viếng thăm tôi vào hè năm ngoái đấy,” Charlie Béo phản bác. “Ông cũng từng thấy ma rồi, đúng không Az?”

“Những người đã siêu thoát rất khác với những linh hồn còn kẹt lại,” Az trả lời. Ông cầm dao vót nhọn một nhánh cây. “Ở quê tôi có một cô gái bị cha mẹ ngăn không cho phép cưới người cô ấy yêu. Vì thế cô ấy treo cổ lên cây sồi trên đỉnh đồi. Sau khi chôn cất cô ấy, anh bạn trai cũng đến chỗ cây sồi treo cổ tự tử. Nếu một người thổ dân treo cổ thì linh hồn không thể bay lên trời mà sẽ mắc kẹt trong cái xác.” Ông gại thử đầu nhọn của nhánh cây. “Sau khi họ chết, vào ban đêm thường có hai ngọn lửa màu xanh xuất hiện trên đỉnh đồi.”

Winks chồm người về phía trước, khuỷu tay đặt lên đầu gối. “Có ai từng đến đó chưa?”

Az vẫn tiếp tục gọt nhánh cây bằng con dao. Cảm nhận được Rod van Vleet đang ra sức giả vờ như không nghe thấy gì, ông đáp: “Chẳng có ai dại dột đi thử cả.”

• • •

“Ethan?”

Đang núp ngay dưới rèm cửa sổ, Ethan sững người khi nghe tiếng mẹ gọi. Cậu bé lùi xa khỏi ô cửa sổ ấm áp rồi quẳng cặp kính râm của mình vào kẽ hở giữa giường ngủ và bước tường. Ethan cất tiếng khi mẹ cậu bé mở cửa phòng ngủ, “Chào mẹ.”

Đôi mắt diều hâu của Shelby nhìn chằm chằm vào cái chăn nhàu nhĩ, cái mũ trên đầu Ethan, rồi liếc qua tấm rèm khép kín. Cô tiến lại gần cậu nhóc, nheo mắt và chỉnh lại ống tay áo sơ mi hụt một khúc so với cổ tay. “Mẹ sắp đi làm,” cô thông báo. “Lẽ ra con phải ngủ rồi chứ.”

“Con không thấy mệt mà,” Ethan phân bua. Nhưng cậu nhóc biết mẹ mình rất mệt. Thức cùng cậu cả đêm mà còn làm việc bán thời gian ở thư viện vào ban ngày còn gì? “Mẹ ơi,” cậu nhóc hỏi, “Mẹ có mệt không?”

“Lúc nào cũng mệt,” cô đáp rồi hôn tạm biệt cậu.

Cậu nhóc đợi đến khi nghe thấy tiếng bước chân mẹ vọng ra từ sàn bếp. Mẹ và cậu Ross cứ đối đáp chan chát với nhau mỗi khi tranh luận về chuyện Ethan có thể thức đến mấy giờ và phải làm gì lúc khẩn cấp. Ethan với tay vào khe hở bên giường để tìm cặp kính râm gọng bạc. Cậu chỉnh mũ lưỡi trai sụp xuống lông mày, rồi nhấc rèm cửa và cuộn mình như chú mèo con ngồi bên bậc cửa sổ. Chỉ sau ít phút vài vết bỏng xuất trên lớp da tái nhợt, lại thêm vài đốm ửng đỏ trên mặt nhưng Ethan không quan tâm. Cậu nhóc tình nguyện chịu thêm vài vết sẹo nếu đó là thứ cần thiết để chứng tỏ mình là một phần của thế giới này.

Mấy nhà nghiên cứu đến từ CRREL hay còn gọi là Đội Kỹ sư Quân Đội đã chạy xe từ Hanover, New Hampshire đến thị trấn Comtosook và cả ngày hôm đó khoan xuyên qua lớp đất đóng băng cứng như đá để thu thập mẫu vật. Bọn họ chỉ giải thích qua loa với Rod van Vleet rằng họ đến đây đơn thuần vì sự tò mò học thuật, rằng băng đá ảnh hưởng đến giao thông thế nào… nhưng không giải thích tại sao hoặc làm thế nào mà băng đá xuất hiện ngay thời điểm này, tại đây.

Một gã đến từ Viện Nghiên Cứu Địa Cực Scott cho rằng chỗ này giống như đất đóng băng vĩnh cửu, một hiện tượng khí hậu xảy ra khi nhiệt độ mặt đất dưới mức đóng băng từ hai năm trở lên. Chẳng đúng gì với tình hình thực tế ở đây, vậy mà gã ta cứ thao thao bất tuyệt về hố băng, băng trôi, gò băng và còn dạy đời Rod rằng rất lâu về trước, cả vùng Burlington và khu vực lân cận đều bị băng bao phủ.

Một nhóm nghiên cứu từ Đan Mạch đã liên lạc để hỏi việc vùng đất đột ngột đóng băng có ảnh hưởng tới tính chất hóa học của không khí và liệu Rod có cân nhắc bán khu đất lại cho mục đích nghiên cứu hay không?

Tuy nhiên cả đám khoa học gia đó không một ai có thể giải thích được cơn thèm thuồng kỳ lạ - Cứ đặt chân đến Comtosook là bọn họ đột nhiên thèm ăn chuối sấy giòn, hoa violet tẩm đường và bánh pudding nhà làm vỏ mềm tan. Họ cũng không thể lý giải cảm giác cô đơn như đường dây điện thoại chùng xuống dưới sức nặng của con quạ. Bọn họ chỉ biết phán rằng thường ở những vùng khí hậu quá rét lạnh, người ta cũng khó lòng giao lưu với nhau hơn.

Ngay khi họ quay lại phòng thí nghiêm và văn phòng, lấy các mẫu vật ra, phủi sạch mớ cánh hoa đọng trên ống nghiệm và bình giữ lạnh thì những lời đồn đại cũng bị lãng quên. Cũng như cư dân thị trấn Comtosook, bọn họ đã hiểu được một điều: Thế giới là nơi những thứ bất thường chỉ tồn tại cách những thứ bình thường một lằn ranh mỏng manh; dù môi trường có khắc nghiệt với con người đến đâu, nhiều sinh vật khác vẫn sinh sôi nảy nở.

Thư viện công cộng trong thị trấn Comtosook thường chẳng có mấy độc giả. Đây đúng là một điều may mắn, bởi dãy phòng nhỏ xíu nối tiếp nhau như chuỗi ngọc trai có vẻ hợp làm nhà nghỉ đồng quê hơn là nơi lưu trữ văn thư. Thời điểm đông khách nhất là vào sáng thứ Năm hàng tuần, khi chừng ba mươi học sinh mẫu giáo đến nghe kể chuyện trong hai phòng nhỏ thuộc khu vực trẻ em. Mấy cô thủ thư phải chạy qua lại giữa các phòng với cuốn sách mở rộng trên tay để chỉ cho bọn trẻ xem.

Một dãy kệ sách nằm trong góc, tràn ra đến giữa phòng, quay ngang quay dọc nếu cần, để chứa cho đủ sách vở trong không gian nhỏ hẹp này. Vào buổi sáng các ngày trong tuần, Shelby là nhân viên hỗ trợ tìm sách. Công việc của cô cần sự am hiểu không chỉ về hệ thống phân loại Dewey và những công cụ tìm kiếm khác nhau trên máy tính mà còn phải nắm rõ vị trí sách trên kệ. Nhưng hầu hết thời gian Shelby rảnh rỗi làm gì tùy thích, ví dụ như nghiên cứu từ ngữ.

Shelby yêu ngôn ngữ như những người sành ẩm thực yêu thức ăn - Mỗi âm tiết là miếng ngon để cuốn vào trong cổ họng mà nhâm nhi thưởng thức. Thỉnh thoảng cô cầm quyển từ điển và hào hứng lần dò từng mục từ như người ta đọc truyện trinh thám. Griseous: lốm đốm. Kloof: hẻm núi. Nidicolous: (chim non) Được nuôi một thời gian trong tổ.

Cô tưởng tượng một ngày nào đó mình được nhận một cuộc gọi từ Meredith Vieira trong chương trình Ai Là Triệu Phú, hay từ chương trình quà tặng âm nhạc trên radio thông báo sẽ tặng cô một món quà may mắn nếu biết nghĩa của một từ kỳ quái. “Pilose à?” Cô lặp lại và vờ như không biết để tạo không khí hồi hộp. “nghĩa là phủ đầy lông tơ.”

Sau bốn năm đại học và hai năm cao học, cô đủ thông minh để hiểu rằng cách mình sử dụng ngôn ngữ giống như dân miền biển xài túi cát: tự tạo ra bức tường ngăn c