← Quay lại trang sách

Chương 12

Meredith ngồi im trong yên lặng khoảng mười phút, giữa màn đêm đang bủa vây quanh cô. Lòng cô tan thành nước, và Meredith biết mình không thể di chuyển, suy nghĩ hay hít thở ngay lúc này. Cô chợt nhận ra vũ trụ này bao la là thế nhưng mình lại quá bé nhỏ, không chứa hết nổi những khả năng vượt ngoài trí tưởng tượng của bản thân.

Như hồn ma chẳng hạn.

Liệu người ta có hóa điên đột ngột như khi bị cúm,… hay ngắt công tắt điện? Tâm trí cô không tài nào tiếp nhận nổi cảnh tượng vừa nãy. Cảm giác giống như nghe thấy không còn mặt trời mọc vào buổi sáng: Niềm tin vững chắc vào thực tế của của Meredith đã đảo lộn, tòa nhà chọc trời hóa ra chỉ là ngôi nhà xây bằng những lá bài.

Nhưng chuyện này không phải là ảo giác; cũng không phải lời của kẻ mất trí. Meredith đã tận mắt nhìn thấy một hồn ma. Hình bóng người phụ nữ vụt biến mất nhanh như khi xuất hiện. Một người phụ nữ giống cô như đúc.

Meredith nhớ lại những lần mình bảo với Lucy rằng ma chẳng có thật. Vậy mà niềm tin giờ biến thành hoài nghi - nếu cô nhận định sai về chuyện này, thì còn nhầm lẫn bao nhiêu chuyện nữa? Có lẽ bầu trời không thật sự màu xanh, có lẽ khoa học không thể trả lời tất cả mọi thứ, có lẽ cuộc sống của cô không hề hạnh phúc. Cô chỉ biết chắc một điều: thế giới sáng nay lúc mình thức dậy rất khác biệt so với thế giới trước kia.

Cô cúi xuống chạm vào mặt đất, biết đâu nó cũng không rắn chắc như cô nghĩ. Cô lại rùng mình, cảm nhận có gì đó đang choàng qua vai. Mãi đến lúc Ross khoác áo lên người cô, cô vẫn còn hoài nghi có ai đó đang ngồi cạnh mình.

Quay đầu lại, cô ấp úng. “Chuyện đó… chuyện đó vừa xảy ra sao?”

“Đúng vậy.” Ross có vẻ sốc không kém gì cô. Meredith cẩn thận quan sát anh. Cô vẫn chưa hoàn toàn tin vào những điều anh kể về chuyện săn ma, về bà ngoại cô. Mấy người tin vào chuyện này đều điên điên khùng khùng… nhưng có vẻ cô đã bắt đầu tin như họ. Cô ráng nhớ lại những chuyện Ross đã kể với mình - ngẫm nghĩ lại những lời nói từng bị cô gạt sang một bên.

“Bà ấy giống em như đúc,” Meredith lên tiếng.

“Anh biết.”

“Nhưng… nhưng mà…” cô chẳng nói trọn thành câu.

Cô thấy tay Ross nắm lấy tay mình, mái tóc dài cọ lên má cô khi anh cúi sát lại. Anh đang khóc. “Anh biết,” anh lẩm bẩm, trong khi thật lòng anh muốn nói, mình không sao hiểu được.

Không tin vào ma quỷ, nhưng cô tin vào nỗi đau. Cô hiểu được cảm giác cô đơn dù người ta không hề muốn vậy. Những cảm xúc này chân thật đến nỗi nó vượt khỏi những điều không tưởng, biến thành điểm tựa để cô níu lấy. Tâm trí Meredith quay cuồng, cảm giác sợ hãi, vụ tự tử. “Hóa ra chuyện là vậy à?” Meredith tự hỏi. “Bà ấy… tự tử sao?”

“Anh nghĩ vậy.” Giọng anh khàn khàn trong đau đớn.

“Chúng ta không thể giúp gì sao?”

“Chuyện đã xảy ra,” Ross đáp. “Bà ấy đã ra đi rồi.”

Linh hồn đã đối diện với Meredith. Cảm giác giống như nhìn vào chính mình trong gương - không hẳn vì diện mạo giống nhau, mà vì ánh mắt Lia Pike có thứ gì đó mà Meredith nhận ra mình cũng có. Meredith không hiểu được ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ là một nét mực vô hình, nhưng cô biết một người mẹ chẳng muốn làm gì khác ngoài việc bảo vệ con mình bình an.

Bản năng làm mẹ là bẩm sinh, ăn sâu vào từng tế bào. Phụ nữ có thể cảm giác được con từng nằm trong bụng sau khi sinh nở; sau một thời gian dài chia sẻ máu thịt, hai mẹ con sẽ trở thành một phần của nhau. Nếu đứa bé qua đời - dù còn là phôi thai, hay lúc mới sinh, hay năm lên mười ba tuổi do bệnh khô da sắc tố XP - thì một phần linh hồn của người mẹ cũng chết theo. Sau khi nhìn vào khuôn mặt tĩnh lặng của đứa bé, Lia hẳn chỉ muốn mau mau kết thúc.

“Bà ấy vẫn dõi theo con gái mình,” Meredith nói.

Dù biết cơ thể người rồi sẽ phân hủy thành chất hữu cơ, thì Meredith hy vọng mẹ cô vẫn tồn tại trong hình dạng nào đó, ở một nơi có cửa sổ hướng về thế giới để bà được thấy Meredith, Ruby và Lucy. Đây cũng là hy vọng của Lia Pike… nhưng bà ấy vẫn chưa đặt chân đến nơi đó. Nếu cô đến được nơi đó, nhiều năm sau, chẳng biết con gái bà có nhận ra bà hay không?

Meredith quay sang Ross. “Anh nghĩ cuối cùng hai mẹ con có tìm được nhau không?”

Anh không trả lời, anh không thể trả lời. Hai tay anh ôm mặt thổn thức. Nỗi buồn ấy vừa sâu thẳm vừa tăm tối như giếng nước; là nỗi buồn mà Meredith đã chứng kiến trên khuôn mặt Lia Pike khi bà biết tin con gái mình đã ra đi.

“Ross,” cô gọi tên anh. Lúc này cô đột nhiên nhớ tới những lời anh đã từng nói, những điều cô không thèm đếm xỉa đến nhưng hóa ra là sự thật: Con người có thể tưởng tượng mình đang yêu một người không hề tồn tại. Cô dè dặt chạm vào tay anh, để anh biết rằng lúc này cô sẽ giữ lấy anh nếu anh rơi xuống. Nhưng anh giằng tay mình ra, để lộ vết sẹo trên cổ tay nhẵn nhụi.

“Ho sẽ tìm thấy nhau,” anh đáp, tránh không nhìn vào cô. “Họ sẽ làm được.”

“Đứa bé vẫn còn sống,” Eli giải thích, “Nhưng cô ấy nghĩ đứa bé đã chết nên đã treo cổ tự tử.” Anh đi lòng vòng quanh nhà bếp của Shelby, tự rót một ly nước trong lúc thuật lại những tình tiết. “Cô ta kéo một khối nước đá lớn ra ngoài hiên, dùng nó làm bệ đỡ để với đến xà nhà. Nhưng lúc ông Pike tìm thấy cô ấy vào sáng sớm, nước đá đã tan đi, khiến hiện trường giống như là một vụ giết người hơn là tự tử. Sau bảy mươi năm, anh đã chính thức khép lại vụ án.” Anh lắc đầu. “Chúa ơi. Cảnh sát bọn anh có thể hơi chậm một chút, nhưng không đáng bị nhận xét là kém năng lực đâu.”

Lúc bước ngang qua Shelby tại bàn ăn, anh chạm vào vai cô. “Và vẫn chưa hết,” Eli ngồi xuống đối diện cô. “Spencer Pike đã qua đời vào đêm qua.”

Anh cứ nói mãi, nhưng Shelby chẳng nghe thấy gì. Cô chỉ chăm chú vào cảm giác khi tay Eli rời khỏi vai mình, giống như có gì mất mát.

Một ý nghĩ chợt vụt qua trong tâm trí Shelby. Cô không còn tưởng tượng nổi trước khi gặp được Eli Rochert, cuộc đời mình ra sao.

Ồ, chết thật, cô thầm nghĩ, mình yêu anh ấy mất rồi.

Shelby tin rằng tình yêu tựa như nhật thực - đẹp đến nghẹt thở, lôi cuốn và khiến người ta mù quáng. Cô chưa từng né tránh chuyện yêu đương, nhưng cũng không mong muốn bắt đầu một quan hệ. Người ta hay ví von “đắm vào bể tình” chính là như vậy, một khi đã yêu, ắt phải mê trầm tận đáy.

Cô cũng từng yêu chồng cũ say đắm - cô biết cảm giác tim đập nhanh khi nghe giọng của một người đàn ông qua điện thoại ra sao, và cảm giác thế giới ngừng quay khi hôn nhau. Nhưng cô tin rằng tình yêu đó đã chấm dứt, giống như nhiều mối tình khác. Yêu là sẵn sàng nhảy khỏi vách đá với niềm tin ai đó đứng dưới đáy vực sẽ đón được bạn. Nhưng với Shelby, anh chồng cũ đã chạy mất dép trước khi cô chạm đáy. Và thú thật là, cô không chắc mình muốn nhảy thêm lần nữa.

“… và nếu em nghĩ theo hướng đó… Shelby, này, em không sao chứ?” Eli nắm tay Shelby để cô chú ý, nhưng cô tỏ vẻ do dự. Anh lập tức quay lại. “Có chuyện gì sao?”

Hàng ngàn câu trả lời nhảy loạn lên trong đầu cô. Cô buột miệng: “Nếu em đang hấp hối, anh có thể hiến tặng em một quả thận chứ?”

Eli bối rối nhìn cô. “Ý em là thận của anh?”

“Anh còn hiến tặng được thận của ai khác sao?” Cô trừng mắt nhìn anh. “Sao nào?”

“Anh… anh… được chứ. Anh sẽ tặng mà.”

Shelby rên rỉ vùi mặt vào lòng bàn tay.

“Anh trả lời không đúng sao?” Eli hoang mang thắc mắc.

Cô buộc mình nhìn thẳng vào mắt anh. “Em muốn yêu anh, Eli. Nhưng đồng thời, em cũng không muốn. Khi em ở bên anh, em không nghĩ mình đã từng làm điều gì đúng đắn hơn thế. Nhưng một khi thừa nhận việc đó, thì mọi chuyện sẽ tuột dốc thôi. Nhìn xem tình yêu đã khiến em trai em ra nông nỗi nào. Hay với Sói Xám hoặc Lia Pike. Hay… Này, có gì đáng cười hả?”

Bên kia bàn, Eli cười toe toét đến tận mang tai. Anh lại nắm lấy tay cô, khiến cô không kịp giãy ra. “Tình yêu,” anh lặp lại, đó là những gì anh cần nghe. “Em nói Tình yêu.”

Lucy úp lòng bàn tay vào đèn pin, đến khi ánh đèn biến thành màu đỏ. Ethan thì kẹp đèn pin giữa hai đầu gối khẳng khiu, da cậu trắng nhợt đến mức tưởng thấy rõ cả cơ và xương. Căn cứ bí mật này - nằm dưới tấm bạt nhựa phủ trên cái bàn ngoài trời - sặc mùi khói, nhưng vậy cũng đáng. Đây là thề ước đầu tiên của Ethan, cậu muốn chuẩn bị kỹ càng hết sức.

Cậu bé hơ lưỡi dao Thụy Sĩ qua ngọn nến. “Sẵn sàng chưa?” Lucy hỏi.

Hóa ra cô bé nhỏ hơn cậu nhóc chưa đầy một tuổi, nhưng người ta sẽ không nhận ra chuyện này khi trò chuyện với hai đứa. Lucy nhảy dựng lên nếu con nhện chân dài xuất hiện cách cô bé cả nửa mét, ai cũng biết cô bé sợ nhện như sợ con rồng Puff trong phim Chú rồng thần kỳ. Cô bé yên lặng đến nỗi thỉnh thoảng Ethan quên mất cô bé đang ngồi cạnh cậu. Cô bé thậm chí không thể đứng thăng bằng trên ván trượt của cậu mà không bị ngã.

Nhưng cô bé biết đọc tên mọi từ mô tả bộ phận cơ thể người trong từ điển và luôn kể rằng mẹ là người dạy cho mình biết. Cơ thể cô bé toát ra mùi hương của bánh quy đường. Và sau đợt cắm trại suốt mùa hè, da cô có màu rám nắng đẹp tuyệt vời mà Ethan chưa tùng thấy.

Cô kể với Ethan cảm giác bơi lội trong hồ, ngủ gật dưới ánh nắng mặt trời rồi giật mình tỉnh giấc vì cảm giác nóng nực và chóng mặt đến mức không biết hôm nay là ngày mấy và vì sao mình lại ngủ ngoài này. Cậu nhóc kể với cô bé về cảm giác tóc gáy dựng đứng lúc con ma theo cậu Ross ra khỏi căn nhà cũ kỹ bị ma ám. Cô bé thú nhận thỉnh thoảng mình trốn trong chăn giả bộ không có đó khi hồn ma xuất hiện. Cậu miêu tả cảm giác bỏng rát khi bác sĩ sử dụng một chất lỏng để đóng băng tế bào tiền ung thư trên da.

“Nhanh nào, Ethan,” Lucy nhắc. “Em ngộp thở muốn chết rồi.”

Cô bé hay nói đệm kiểu “muốn chết rồi”, “muốn chết đi được”, nhưng mẹ cậu cẩn thận không bao giờ nhắc đến mấy câu đó, phòng khi cậu làm điều ngu xuẩn.

“Được rồi.” Ethan rọi đèn pin lên con dao, rồi bỏ đèn pin xuống, tiếp đó là con dao. “Rồi. Em cầm cái này đi.” Cậu đưa đèn pin cho Lucy và lau sạch lưỡi dao - không nên phát tán bệnh dịch hạch - rồi lại hơ nó qua ngọn nến thêm lần nữa. Khi cậu liếc mắt lên, Lucy dường như tái mét một cách bất thường. “Em không phải sắp ngất đi đấy chứ?”

Cô bé cau có giơ cổ tay mình ra.

Ethan giơ tay phải ra song song với cô bé. “Anh sẽ giúp em tìm một con ma trước khi ma bắt được em,” cậu nói.

Cô bé trừng mắt nhìn cậu. “Em sẽ dắt anh ra chỗ có ánh nắng mặt trời.”

“Vì lòng can đảm,” Ethan nói rồi nhanh nhẹn vạch một đường giữa cổ tay mình và cô bé. Cậu áp sát hai vết thương hở vào nhau.

Lucy hít sâu. “Vì lòng can đảm.” cô bé quấn dải băng xé từ áo thun của Ethan quanh hai cánh tay trong khi chờ đợi và hy vọng sự can đảm sẽ hòa vào nhau chặt chẽ như máu.

Az bị tiếng chim hót đánh thức. Ông nằm im trên giường một lúc, lắng tai nghe tiếng chim sẻ mỏng manh hòa quyện vào âm thanh lảnh lót của chim đớp muỗi và giọng hót trầm trầm của chim lợn. Phải mấy tuần nay ông mới lại nghe thấy giai điệu này, lũ chim bặt lặng từ khi ông kể với những người Abenaki khác về nghĩa địa thổ dân, rồi giúp mang theo chiếc trống tới mảnh đất nhà Pike để biểu tình.

Ông chậm rãi ngồi dậy, cảm nhận từng đốt sống kêu cót két. Vung chân xuống giường, ông thử đẩy dép ra chạm chân trần xuống nền đất.

Thật là ấm áp, đúng với tiết trời vào tháng Tám. Không hề lạnh buốt như trước nữa.

Az vén cửa lều bước ra ngoài.

Thế giới dường như đã thăng bằng trở lại, không lệch đi đôi chút dù vẫn quay, đến một lúc ai cũng phải chú ý. Az bẻ một đóa hoa từ nhành kim ngân mọc cạnh túp lều, lặng ngắm mật hoa tụ lại thành giọt. Ông nâng đóa hoa lên miệng và nếm thấy vị ngọt thay vì vị nước mắt.

Một chiếc máy bay xé toạc bầu trời làm hai, vậy mà bầu trời chẳng hề sụp đổ. Az đứng yên, không còn cảm giác quá khứ dồn nén khiến đầu mình đau như búa bổ. Ông nhắm mắt lại, lập tức cảm nhận được phương bắc nằm ở đâu.

Az đổ nước vào ấm đun cà phê, sau đó đong cà phê bột. Ông rửa tay, rửa mặt và cẩn thận chỉnh lại trang phục, chỉ cần cài nhầm một hột nút cũng ảnh hưởng đến vận may mấy tháng trời đấy. Ông không hề thay đổi thói quen thường ngày, ngay cả trong thời gian Comtosook đang bị ếm bùa. Dù sao bạn cũng không thể đi ngược lại quy luật vật lý: Az hiểu rõ tình trạng hỗn loạn sẽ xảy ra, nhưng rồi cũng đến lúc mọi chuyện sẽ lắng xuống.

Nếu là phù thủy, chắc Ross sẽ truyền sức mạnh sang cho chị gái. Không phải sức mạnh cơ bắp kiểu đàn ông, mà là tinh thần chịu đựng, đó là cách để vượt qua tất cả. Vì anh không có chút nào tinh thần ấy, nên anh càng hiểu thấu. Thay vào đó, anh chỉ biết dọn dẹp lại mớ tài sản bỏ trong túi xách. Ross để dành cái áo sơ mi mềm mại nhất lại cho Shelby vì cái áo có mùi của Ross, và anh biết chị ấy sẽ muốn lưu lại vật kỷ niệm. Đồng hồ để lại cho Ethan với hy vọng Ethan có thêm thời gian được sống. Anh sẽ mang theo mấy đồng xu năm 1932 để rải dọc đường như Gretel rải vụn bánh mì để dẫn dắt Lia tìm thấy anh.

Hỏi: Loại người nào sống ba mươi lăm năm trên đời mà tài sản chỉ đủ để đựng trong một cái túi vải dù?

Đáp: Loại người chưa bao giờ có ý định nán lại cõi này lâu dài.

Sau khi gặp được hồn ma của Lia, anh đưa Meredith về nhà. Anh nghe thấy tiếng Meredith trò chuyện với bà Ruby lúc 5 giờ sáng, phấn khích kể lại những gì cô đã chứng kiến. Cô hứa sẽ quay lại Maryland sau vài ngày nữa, sau khi đã dàn xếp xong vài chuyện ở đây. Ross đoán là chuyện mảnh đất và đám tang ông Pike. Anh không biết liệu Meredith có tin vào những điều anh nói về ma, nhưng lúc này anh chẳng hề để ý. Anh chỉ nghĩ đến Lia, nhưng cô ấy sẽ không quay lại. Anh biết rõ điều này, rõ ràng như cảm giác hít thở mấy ngày này không khác gì uống phải hắc ín, từng ngày trôi qua như cứa vào da thịt. Anh mệt mỏi, mệt muốn chết, và anh chỉ muốn được ngủ một giấc.

Ross thò tay vào túi đồ một lần nữa. Con dao cạo của bố để lại cho Shelby. Dụng cụ đo lực điện động - tất nhiên là thuộc về Ethan. Anh lôi ra tấm ảnh hồn ma chụp được cùng với Curtis - hình bóng bên hồ - và mỉm cười. Anh có thể tặng nó cho Meredith.

Anh chắc chắn sẽ không để lại lời nhắn nào. Nghĩ tới cảnh chị mình diễn dịch tờ giấy nhắn trong lần rời nhà trước, anh quyết định chẳng để lại lời nào. Anh tỉ mẩn xé mấy tờ giấy trên bàn thành mảnh vụn rồi quăng vào thùng rác.

Rồi anh nhìn thấy Lucy Oliver đang đứng trên hành lang nhìn vào phòng. “Chào cháu,” anh lên tiếng. Thực ra mà nói con bé khiến anh không thoải mái. Ánh mắt trong trẻo màu bạc, sáng rực nổi bật trong khi những nét còn lại bình thường, và con bé cứ ra vẻ như quen biết anh được mấy tháng chứ không phải mấy ngày. Đêm nay con bé mặc quần short jean và áo thun in chữ MADAME PRESIDENT. Trên cổ tay con bé có dán băng dính in hình yêu tinh Shrek. “Cháu té vì đứng trên ván trượt sao?” Ross thân thiện đặt câu hỏi.

“Không phải,” Lucy đáp, không buồn giải thích gì thêm. “Cháu đến báo là sắp đến giờ ăn rồi.”

Ross cố nặn ra một câu trả lời đại loại như “Được rồi”, hoặc là “Chú xuống ngay”, nhưng lại buột miệng thắc mắc. “Lia có nhắc đến chú với cháu không?”

Lucy chầm chậm gật đầu. “Thỉnh thoảng ạ.”

“Cô ấy nói gì?”

Thay vì trả lời, Lucy quét mắt khắp phòng Ross rồi nhìn chằm chằm vào đống đồ gọn gàng. “Chú đang làm gì vậy?”

“Chú đang chuẩn bị sẵn sàng để rời đi,” Ross đáp.

“Đi đâu?”

Lúc nhìn vào con bé, anh cảm giác Lucy biết câu trả lời của anh không phải là một nơi cụ thể.

“Chú chưa đi được đâu,” Lucy dõng dạc xác nhận.

Anh nghiêng đầu. Con bé biết được bao nhiêu chuyện chứ? “Vì sao chưa được?”

“Vì đến giờ ăn sáng rồi.” Lucy bước thêm một bước, chìa cánh tay dán băng dính ra. “Xuống nhà nào,” cô bé nói, lẳng lặng chờ đến khi Ross nắm lấy tay mình.

Meredith chưa hề mong đợi nhiều người sẽ đến viếng đám tang của Spencer Pike, nhưng đứng một mình cùng Eli Rochert và một con chó săn khi cha xứ làm lễ tang đúng là hơi xấu hổ. Nhưng nghĩ đến bộ tộc Abenaki đang biểu tình vì dự án xây dựng, cô biết mình nên cảm tạ trời đất vì không có ai chạy đến đây nổi trống. Meredith không dắt Lucy theo vì con bé chẳng biết người này là ai, và một đứa nhạy cảm như vậy tốt nhất không nên đến nghĩa trang làm gì. Shelby chắc chắn sẽ có mặt nếu Meredith ngỏ lời, nhưng cô cần người chăm sóc Lucy hơn là cần ai đó kề cận an ủi trong lễ tang của một người đàn ông mà cô chẳng hề quen thân. Còn Ross, ai biết anh ta đang ở đâu. Meredith chẳng hề gặp anh sau cái đêm nhìn thấy Lia, mà cô cũng không muốn gặp lại. Với anh, lời chia sẻ xem chừng không hợp như lời từ chối.

“Mời cô?” cha xứ nhắc, nhưng cô chẳng hiểu gì. Cô nhìn qua Eli cầu cứu, và anh gật đầu ra hiệu về đống đất.

Meredith bốc một nắm đất rồi rải lên quan tài ông Pike. Eli âm thầm tuồn một tấm séc cho cha xứ. Meredith đành tự nhủ đấy cũng là một phần của nghi thức. Tiền đấy trích từ đâu… Tiền của Eli? Hay từ quỹ thị trấn? Hy vọng cả hai đều không phải, Spencer đã rút khô thị trấn Comtosook rồi.

Cha xứ nói lời chia buồn với Meredith rồi trịnh trọng bước đến chiếc VW Bug và lái xe đi mất. Bài hát của nhóm Simon và Garfunkel phảng phất vọng lại từ cửa sổ xe mở toang. Bàn tay to lớn của Eli khẽ chạm vào vai cô. “Muốn tôi đưa cô về nhà không?”

Meredith nhún vai. “Tôi muốn ở lại thêm một lúc nữa.”

“Được rồi,” Eli đáp. Anh dắt theo chú chó quay đi, nhưng quay lại và tháo điện thoại nhét bên thắt lưng đưa cô. “Gọi cho tôi khi nào cô xong nhé?”

Meredith cảm ơn rồi dõi theo bóng anh lái xe xa dần. Cô tự hỏi Shelby có nhận ra cô ấy may mắn đến mức nào mới đúng lúc gặp được một người đàn ông như vậy. Một làn gió nhẹ thổi tung làn váy đen tuyền khi cô đứng nhìn ngôi mộ mới đắp. “Tạm biệt,” cô khe khẽ nói vì cảm thấy ai đó cần được yên nghỉ.

“Thoát nợ rồi,” cô nghe giọng nói phát ra từ phía sau.

Az Thompson đứng cách đó vài mét, trên mình là bộ vest đen rộng thùng thình phối với áo sơ mi trắng và cà vạt. “Tôi không tưởng tượng được sẽ gặp ông ở đây,” Meredith đáp.

“Ông không đến vì hắn ta.” Az nhìn xuống ngôi mộ nơi quan tài vừa chôn xuống. “Đã lâu rồi ông mới cảm thấy vui vẻ vì sống lâu hơn ai đó.” Ông ngước mắt lên nhìn Meredith, “Cháu có muốn đi dạo một lúc không?”

Cô tuột giày cao gót ra, xách vung vẩy trong tay và chân trần bước theo Az. Ông leo lên đồi, băng qua mấy ngôi mộ. Thỉnh thoảng lòng bàn chân cô lại buồn buồn vì có gì đó chạm vào. Ông dừng lại nơi cây liễu rũ xuống, bên cạnh là một băng ghế đá sạt một bên. “Nơi này không hề thích hợp để suy ngẫm tí nào,” ông càu nhàu cau có.

“Thế ông thường đi đâu?”

“Đến chỗ thác nước,” Az lập tức đáp lại. “Hoặc nằm dài dưới bầu trời đầy sao.” Ông quay sang nhìn cô rồi nằm xuống đất. “Hiểu lời ông nói rồi chứ?”

Cô thoáng do dự trong chốc lát vì bộ váy này không phải của cô, nhưng sau đó vẫn ngồi xuống cạnh Az, dõi mắt ngắm nhìn bầu trời. “Ông thấy gì trên đó?” cô đặt câu hỏi giống như lúc đang vui đùa với Lucy.

“Những đám mây,” Az thành thật đáp lại.

Meredith ôm gối. Trên khuỷu tay cô là vết bầm sau đợt rút máu vài ngày trước. Az cũng có một vết tương tự. “Tôi hỏi ông một điều được không?”

“Tất nhiên rồi.”

“Chỉ là… tôi không biết nên gọi ông là gì. Ông Thompson, hay Az, hay John?”

“Ông vẫn luôn ước mơ cả sân vận động toàn người hâm mộ gọi mình là Ted Williams, nhưng nếu được một cô gái gầy teo gọi bằng N’mahom cũng vui lắm rồi.”

“Từ đấy nghĩa là gì?”

“Ông ngoại của tôi.” Ông nhìn thẳng vào Meredith. “Ông đoán là nếu gọi ra như vậy thì cháu sẽ thực sự tin tưởng mọi chuyện.”

Cô gật đầu. “Nhưng cũng không đem lại điều gì tốt đẹp cho mọi người.”

“Vì sao cháu nói vậy?”

Nước mắt tuôn trào trên mặt Meredith. Cô sửng sốt nhưng tự nhủ đây là vì ngày hôm nay thời tiết oi bức và cô đang thiếu ngủ. “Quá nhiều chuyện đã xảy ra,” cô thì thào. “Quá nhiều người bị tổn thương.” Cô nghĩ đến những người như Az, Lia, người Abenaki tồn tại như vô hình trong thị trấn, rồi cô nghĩ đến Ross. “Chuyện này tưởng như chẳng hề liên quan đến cháu, nhưng hóa ra cháu lại là nguyên nhân.”

“Con người ai cũng khổ sở đi tìm ý nghĩa cuộc sống. Vì sao lại là tôi, vì sao lại là lúc này. Thật ra mọi chuyện không phải tự dưng xảy ra mà không có nguyên nhân. Đôi khi điều quan trọng là chỉ cần ở bên cạnh ai đó đúng nơi, đúng lúc mà thôi.”

“Chỉ vậy thôi sao?” cô thắc mắc.

“Từng ấy cũng đủ lắm rồi.” Ông quay đầu lại mỉm cười. “Hôm nay cháu về nhà sao?”

Meredith dự định bay về Baltimore chiều hôm đó. Nhưng cô sẽ hoãn chuyến bay sang ngày hôm sau. Cô không muốn ký ức cuối cùng trước khi rời khỏi Comtosook lại là đám tang của Pike. “Cũng sắp rồi ạ,” cô trả lời. “Ông sẽ viết thư cho cháu chứ?”

“Ông không thích viết lách. Pike và đám người đó từng viết bao nhiêu thứ, mà đâu có thứ nào tốt lành. Người Alnôbak vẫn thích lưu giữ lịch sử qua chuyện kể hơn là văn viết.”

“vẫn còn một chương dài chưa viết đấy,” Meredith lẩm bẩm.

“Vậy thì cháu phải là người kể chuyện rồi.”

Lúc nhận ra ông nói nghiêm túc, cô lắc đầu. “Cháu không biết kể về chuyện gì hết.”

“Không quan trọng. Cứ biết đoạn nào thì bắt đầu từ đoạn ấy là được.”

“Ý ông là kể cho Lucy sao?”

“Kể cho bất kỳ ai muốn lắng nghe,” Az đáp.

Cô vén tóc ra sau vành tai. “Về chuyện đó… cháu sẽ đọc di chúc vào chiều nay. Eli đã sắp xếp một thẩm phán viết lời phán quyết để mảnh đất thuộc về cháu, vì cháu là con gái của mẹ… và bà ấy là người thừa kế chính thống nhất… Cháu muốn… cháu muốn ông nhận lấy nó.”

Ông phá lên cười. “Ông biết làm gì với mảnh đất to đùng thế kia?”

“Cháu nghĩ ông muốn chia sẻ nó với người khác.”

Meredith đưa tay bứt một cọng cỏ. “Miễn là cháu và Lucy vẫn có một chỗ ở mỗi khi quay về thăm ông là được. Ông sẽ giúp cháu dàn xếp mọi chuyện chứ?”

“Tìm một gã tên là Winks Champigny. Anh ta có tên trong danh bạ đấy. Anh ta biết phải làm thế nào. Ông sẽ giúp cháu, nhưng ông sẽ rời khỏi đây một thời gian.”

“Đời cháu đúng thật là. Cháu gặp một người đàn ông tuyệt vời, nhưng lại lỡ chuyến.” Meredith cười cười nhìn ông. “Ông sẽ ở đây lúc cháu đến thăm được không?”

“Chắc chắn rồi,” Az đồng ý.

“Em chắc là không sao chứ?” Shelby hỏi lần thứ mười. Cô nhìn hình bóng Meredith phản chiếu trong gương, tay đeo sợi dây chuyền lên cổ.

“Vì sao lại không yên tâm? Bọn trẻ tự chơi đùa với nhau. Em chỉ việc ngồi trên ghế ngậm kẹo xem phim thôi mà.”

Đúng là chuyện hiếm với Shelby - cô được mời đi ăn tối và hẹn hò. “À thì chị biết em phải thu dọn đồ đạc cho chuyến bay ngày mai. Chỉ cần Ross về đến nhà thì nhiệm vụ của em sẽ kết thúc.”

Anh đã ra ngoài để lấy lại mớ thiết bị còn đặt trong nhà Pike. Meredith không tài nào hiểu nổi vì sao anh lại đợi đến tận tám rưỡi tối mới đi. “Chị biết Eli sẽ đưa chị đi đâu không?”

“Một nhà hàng năm sao nào đó ở Burlington.” Cô ngả người ra giường bên cạnh Meredith, cười toe toét đến mức mỏi cả cơ mặt. “Mình đã hẹn hò với anh ấy chục lần rồi,” Shelby lẩm bẩm. “Ở cửa hàng, sang nhà anh, lái xe đi dạo cùng nhau. Vậy mà sao vẫn cảm thấy thế này?”

“Vì chị cuồng anh ta đến phát điên rồi,” Meredith châm chọc. “Do chất dopamine do não tiết ra đấy.”

“Đành để chuyên gia di truyền giải thích tình yêu bằng phản ứng khoa học vậy.”

“Những người không hề biết yêu đương là gì như bọn em thích cách nghĩ như vậy hơn.”

Shelby lật người nằm sấp lại. “Bố Lucy là người thế nào?”

“Một thằng cha không đáng mặt làm bố,” Meredith trả lời. “Bố Ethan thì sao?”

“Tất nhiên là anh em cùng hội với thằng cha kia,” Shelby chống tay lên cằm. “Em từng yêu hắn ta sao?”

“Đắm đuối.”

“Chị cũng vậy.” Cô nhìn thẳng vào Meredith. “Thỉnh thoảng chị giả vờ không quen biết Eli. Hoặc vờ như anh ấy không phải là điều cuối cùng chị nhớ đến trước khi chìm vào giấc ngủ. Một kiểu mê tín, em biết không - đừng quá coi trọng tình yêu thì không ai cướp nó khỏi mình được.”

“Chẳng ai cướp nó ra khỏi tay chị được đâu,” Meredith phản đối. “Tình yêu thăng hoa hay thất bại vì hai người trong cuộc… chứ không phải vì âm mưu của định mệnh.”

“Em nghĩ vậy sao? Em chưa từng nghĩ mình phải ở bên cạnh ai đó sao?”

“Lạy Chúa, không hề! Nếu tin trên đời này bạn chỉ có một tri âm tri kỷ, tìm một trong sáu tỉ người… xét về mặt toán học thì đúng là cầm chắc thất bại. Làm sao gặp được?”

Shelby lắc đầu. “Vậy nên mới cần đến số mệnh. Nếu không sinh Ethan, chị sẽ không ly hôn với Thomas. Nếu Ethan không mắc bệnh khô da sắc tố XP, chị sẽ không chuyển đến một thị trấn nhỏ thế này, chỉ vì nhà cửa cách xa nhau để Ethan thoải mái vui đùa vào ban đêm. Nếu Ross không bị dồn vào đường cùng, em ấy cũng không đi điều tra mảnh đất nhà Pike. Tất cả những chuyện này đủ kinh khủng thế nào… nhưng rốt cuộc lại để chị gặp được Eli.”

“Chị có từng nghĩ số mệnh muốn chị kết hôn với Thomas không?”

“Này, ban đầu thì…”

“Thì vậy đó. Số mệnh,” Meredith tranh luận, “chỉ là thứ mà người ta sáng tạo ra để giải thích những gì mình không hiểu. Nếu chị nghĩ Eli là người số mệnh dành cho chị, chị sẽ tự nhủ mọi chuyện đã được sắp đặt. Và nếu anh ta khiến chị đau khổ, chị sẽ nghĩ anh ta không phải là người số mệnh lựa chọn. Em đã dành mười năm trời tìm kiếm một người đàn ông vừa bước vào phòng không cần tìm cũng nhìn thấy em. Nhưng em chưa bao giờ tìm được. Em thừa nhận mình đúng là xui xẻo trong chuyện yêu đương nhưng cũng có thể tự nhủ mình chưa gặp được đúng người thôi. Dù sao ngộ nhận mình là nạn nhân lúc nào cũng dễ dàng hơn chấp nhận thất bại mà.”

Shelby ngồi dậy. “Vậy điều gì khiến em cảm thấy một người đàn ông vô cùng cuốn hút khi đứng giữa đám đông? Còn cảm giác sét đánh giữa em và cậu ta thì sao? Cảm giác quyến luyến mãnh liệt chỉ sau lần đầu gặp gỡ như thế nào?”

“Vì yêu,” Meredith đáp lại. “Tình yêu là lý do. Không phải số mệnh.” Cô nhớ đến chuyện Lia, chuyện cô đã hiện thân nơi khoảng trống trong rừng. “Cũng có những điều chị không thể giải thích. Ví dụ như người đàn ông đỡ một viên đạn cho vợ mình, bất chấp bản năng cầu sinh nguyên thủy. Hoặc chuyện cô bé bí mật viết trong nhật ký một câu mà chỉ người yêu cô đích thực sẽ nói, và khi hai người gặp nhau, tay trong tay, anh ta đã nói đúng lời ấy.”

“Chuyện đó xảy ra rồi sao?”

“Ồ, chưa đâu,” Meredith đáp. “Nhưng em vẫn chưa hoàn toàn từ bỏ hết hy vọng đâu. Vấn đề là nếu tình yêu xuất hiện, đó là vì em đi tìm và gặp được anh ta. Không phải vì số mệnh sắp đặt.”

“Vì sao hử, Meredith! Em đúng là khô khan mà.” Chuông cửa reo lên dưới lầu. Shelby nhảy xuống giường, xỏ chân vào 2 chiếc giày khác nhau và hỏi. “Đôi nào đẹp hơn, giày bệt hay giày cao gót?”

“Nếu là số mệnh,” Meredith bông đùa, “thì chẳng khác gì nhau hết.”

Shelby cười toe toét, xỏ chân vào đôi cao gót. Sau khi nhìn lại mình trong gương một lần cuối, cô hối hả xuống lầu mở cửa. Meredith bước theo sau.

Eli đứng đó, trên tay là một cành hoa hồng phấn, cạnh đóa hoa lớn có một nụ nhỏ hơn chìa ra, giống như hai mẹ con. Anh đang mặc một bộ vest xám đậm, bên trong là áo trắng ủi thẳng tắp kèm cà vạt màu trái nam việt quất. “Này,” Shelby trêu ghẹo, “bảnh bao quá chừng.”

“Em… em trông…” Eli lắc đầu. “Anh học thuộc một đống từ nhưng chẳng nhớ được gì hết.”

“Tác dụng của dopamine ấy mà,” Shelby an ủi.

“Rạng rỡ?” Meredith gợi ý. “Lộng lẫy? Hớp hồn?”

“Không phải,” Eli cuối cùng cũng đáp được. “Thuộc về anh.”

Az nhấp một ngụm rượu whisky Ross vừa mang đến mỏ đá. Hai người ngồi trên ghế xếp Az chôm được từ kho chứa vật dụng, vừa uống rượu vừa ngắm nhìn bầu trời như cái vạc bị lật nghiêng, khiến những vì sao tung tóe khắp nền trời. “Cậu có biết tôi đúng ra phải bảo cậu rời khỏi đây không,” ông càu nhàu.

“Cứ nói đi.”

“Đi đi,” Az bảo.

“Ông biết tôi sẽ không rời đi mà,” Ross nói.

Az nhún vai. “Trong mỏ đá có thuốc nổ. Ngòi nổ được gài khắp mọi nơi. Máy tính sẽ lập trình cho nổ ngay bình minh sáng mai. Ông liếc mắt sang Ross và cất lời cảnh cáo: “Đừng làm gì ngu xuẩn nghe chưa?”

“Ngu xuẩn,” Ross cứ lặp đi lặp lại. “Ngu xuẩn à. Thế nào mới gọi là ngu xuẩn? Theo đuổi không chỉ một mà đến hai người phụ nữ không còn trên cõi đời này có gọi là ngu xuẩn không?”

“Này” Az giơ tay chỉ vào chai rượu, “đưa chai rượu qua đây.”

Ross tung chai rượu sang cho Az, sau đó chứng kiến Az thảy chai rượu vào trong mỏ đá khiến nó vỡ tan tành. “Ông làm cái quái gì thế?”

“Muốn tốt cho cậu thôi.” Az chậm rãi đứng dậy, cắp ghế xếp vào nách. “Giúp tôi trông chừng chỗ này vài phút được không?”

“Ông đi đâu đấy?”

“Hút thuốc,” Az đáp.

Ross lặng nhìn ông men theo mỏ đá đi xa dần. “Ông đâu có hút thuốc!” Ross gào lên nhưng ông già không nghe thấy, hoặc chẳng buồn nghe. Anh đứng dậy, đút tay vào hai túi quần và dõi mắt nhìn xuống đám thủy tinh vỡ vụn từ chai rượu hiệu Bushmill. Từng mảnh thủy tinh sáng lấp lánh. “Khỉ thật,” Ross chửi thề, giơ chân đá một hòn sỏi bay vèo xuống vực sâu. Cảm giác thích thú, anh lại đá thêm một hòn sỏi nữa. Anh ngoái nhìn ra sau nhưng chẳng thấy bóng dáng Az đâu. Anh đốt một điếu thuốc, thảy nó xuống mỏ đá. Điếu thuốc hạ cánh cách bọc thuốc nổ chưa đầy gang tay rồi tắt ngấm.

Anh mệt mỏi với chuyện bắt đầu lại một cuộc đời mới vì cuộc sống trước kia chẳng có gì vui thú. Giống như Lia, anh cũng bị quá khứ trói buộc. Khi Aimee ra đi, lòng anh cũng chết theo. Rồi khi anh tìm lại một người cho anh hy vọng sống, hóa ra cô ấy đã qua đời cách đây bảy mươi năm.

Anh tưởng tượng điếu thuốc ấy rơi xuống đúng nơi đặt thuốc nổ, gây ra một âm thanh điếc tai làm rung chuyển mặt đất, đẩy anh ngã xuống mỏ đá. Anh hình dung thân thể mình bị cắn nuốt bởi ngọn lửa. Từng ánh lửa liếm vào áo quần, khiến nỗi đau rơi rụng theo. Vì sao lại là mình? Vì sao mình lại gắn bó với với không chỉ một mà đến hai người phụ nữ đã chết? Anh có phải là sợi dây gắn kết siêu nhiên hay không? Hay là một con tốt thí của vũ trụ? Một tia chớp thu hút những linh hồn lạc lối? Cũng có thể anh đang chịu trừng phạt. Khi Aimee qua đời, Ross được tung hô như một anh hùng, nhưng bản thân anh biết rõ mình hoàn toàn đối lập với hình tượng đó.

Hồi còn bé, anh rất thích đọc truyện tranh. Anh không ngừng kinh ngạc về sức mạnh và lòng dũng cảm được thể hiện qua từng trang giấy thẳng thớm như lề đường. Chỉ cần những siêu anh hùng xuất hiện trên trang truyện, anh đã cảm thấy họ đang hướng đến sự vĩ đại. Anh kể với Meredith mình là kẻ bất tử, nhưng anh không phải là Siêu Nhân, lại càng không phải là Captain Marvel. Anh thậm chí còn chẳng có chút gì may mắn. Người ta thì gặp được cô gái trong mơ, trúng thưởng vé số cào, nhặt được tờ mười đô la trên phố. Vận xui cũng phải chấm dứt, tiếp theo đó là những chọn lựa sai lầm, nhưng với anh hai điều đó chẳng khác gì. Anh không thể tiếp tục một cuộc đời vô nghĩa, và cũng không có cách nào cứu được một người đáng được sống.

Ross trèo lên hàng rào an toàn. Anh đứng tay chống nạnh, chân mở rộng giống hệt hình ảnh chúa cứu thế hoặc tội phạm bị xử bắn, mà cũng có thể là cả hai. Từng hơi thở khó nhọc như nuốt phải mảnh chai; từng bước chân như bước trên bàn đinh. Nhảy đi, anh thầm nghĩ, rồi mọi thứ sẽ được bắt đầu lại.

Anh trượt chân nhưng lập tức lấy lại thăng bằng, bật cười vì sự cảnh giác của mình. Anh cẩn thận như chú hề trong rạp xiếc giữ cái ghế thăng bằng trên mũi - vì sao một thứ cồng kềnh và nặng nề như thế lại thắng nổi trọng lực nhỉ.

Khẽ cúi người ra phía trước, Ross lấy lại thăng bằng để khỏi ngã nhào qua hàng rào. Nhưng cái mũ bóng chày in chữ Đêm Rùng Rợn xoay tròn rồi hạ cánh ngay trên khối thuốc nổ.

Trên sàn diễn, chú hề có thể làm rớt cái ghế, nhưng anh ta sẽ giơ tay chụp được trước khi nó rớt xuống vỡ tan. Dù sao anh ta cũng phải diễn đi diễn lại một màn hết đêm này qua đêm khác. Ross lùi xa khỏi hàng rào, lếch thếch quay về nhà.

Rod van Vleet vừa đốt sạch tháng lương cuối cùng tại quán bar duy nhất ở Comtosook. Đây là nơi duy nhất đón chào anh sau vụ việc quy hoạch mảnh đất gây ra biết bao xáo trộn. Oliver Redhook đã đích thân gọi điện thông báo anh bị đuổi việc rồi yêu cầu trả điện thoại và xe ô tô về tổng công ty ngay thứ Hai. “Tôi có thể phái một con khỉ đã qua huấn luyện đến Vermont,” Redhook gào lên trong điện thoại, “gửi anh đi đúng là một sai lầm chết người.”

Thực tế éo le đến mức anh pha rượu lại là một trong những gã thổ dân đánh trống ngay trước xe kéo của công ty anh suốt ba tuần liền. Để ăn mừng thắng lợi, anh ta vui vẻ mời Rod ba chầu rượu rồi mới tính tiền vào những lượt tiếp theo. Đến ly thứ tám, đầu óc anh chẳng còn tỉnh táo để nhấc nổi ly rượu. Cái ly trơn nhẵn trông tí hon đến mức anh tính hỏi mượn anh chàng pha chế rượu một cái kính lúp để nhìn cho rõ.

“Thêm một ly,” anh lè nhè mà còn nghe không rõ giọng mình.

Anh chàng pha rượu lắc đầu. “Không được, ngài van Vleet. Trừ khi ngài tự gọi taxi đi.”

“Taxi là tôi chứ còn ai nữa,” Rod càm ràm.

Anh pha rượu liếc mắt nhìn người phụ nữ ngồi cạnh Rod. Cô ta có mái tóc dài đen tuyền, vai u thịt bắp như hậu vệ chơi bóng bầu dục. Nhìn kỹ lại, hóa ra đó là đàn ông. Rod nốc cạn ly rượu. “Thôi vậy,” anh lè nhè. “Tôi tự vác xác đến Burlington kiếm một bữa tiệc thâu đếm nào đó là được.”

“Làm vậy đi,” anh pha rượu đáp. “Nhưng coi chừng đâm xe vào đâu đấy.”

Rod thò tay vào túi quần, móc ra một chùm chìa khóa. Anh ta loạng choạng rồi ngã dụi vào quầy bar bóng loáng. “Đáng đời chúng mày.”

Ánh đèn xe cảnh sát lóe lên kính chắn gió, hắt một luồng sáng xanh nhạt lên da Shelby. Không cảm thấy lạnh nhưng cô vẫn rùng mình quấn chặt áo khoác Eli quanh người. Eli chu đáo đậu xe ở một góc khuất để Shelby khỏi nhìn thấy cảnh tượng đổ nát kèm cái xác nằm trên đường, nhưng cô vẫn quay đầu lại cố nhìn hiện trường tai nạn.

“Anh xin lỗi,” anh áy náy nói với cô ngay khi nghe thấy tiếng bộ đàm vang lên trên đường đến nhà hàng. “Anh phải ghé qua một lát.”

Shelby hoàn toàn thông cảm, vậy nên lúc này mới có cảnh cô bước xuống xe, giày cao gót lộc cộc dọc lề đường ẩm ướt. Bên ngoài không gian ấm cúng trong xe là một mớ âm thanh hỗn độn, từ tiếng còi xe cứu thương đến tiếng la ó của cảnh sát và tiếng máy ảnh tanh tách chụp lại hiện trường. Cô tiến lại gần, có phần tin chắc sẽ nhìn thấy Ross.

Cô không có mặt tại hiện trường tai nạn nơi Aimee qua đời, nhưng cô thấy những vụ sau này, khi xe Ross lật nhào, bác sĩ cấp cứu phải cố định nó vào cáng cứu thương giống y hệt cái cáng đặt bên kia lề đường.

Lúc điện thoại gọi đến báo tin về Ross, cô đang cho Ethan bú sữa. Cô suýt tí nữa thì mặc kệ tiếng chuông vì không tài nào vừa loay hoay ôm đứa con đang buồn ngủ vừa trả lời điện thoại. Đến giờ cô vẫn không nhớ nổi nhân viên cảnh sát gọi điện báo tin là đàn ông hay phụ nữ. Chỉ có vài từ sót lại trong trí nhớ, chúng bám chặt như xi măng trong ký ức cô, thỉnh thoảng lại sống dậy: Ross, tai nạn, nghiêm trọng, người đi cùng, tử vong.

Thời gian ngừng lại, Ethan vùng vẫy lăn từ đùi cô xuống đám gối đặt trên ghế sô pha. Shelby cố gắng tưởng tượng hình ảnh Ross máu be bê bết nhưng trong đầu cô chỉ thấy hình ảnh cậu học sinh lớp năm gầy gò với ánh mắt phun lửa muốn đến đập gã ngồi sao bóng bầu dục học lớp mười một một trận nhừ tử vì đã khiến trái tim Shelby tan nát.

Lúc này, cô đẩy hai người cảnh sát qua một bên để nhìn cho kỹ hơn. Áo quần rách nát, khuôn mặt trầy xước nhưng Shelby vẫn nhận ra được diện mạo của gã doanh nhân muốn quy hoạch mảnh đất nhà Pike.

Một cánh tay túm lấy khuỷu tay Shelby và kéo cô lùi lại phía sau. Eli trừng mắt giận dữ nhìn cô. “Em đang làm gì ở đây vậy?”

“Em… em phải xem.”

“Không ai muốn xem cảnh tượng này hết. Rod van Vleet gây tai nạn xe. Chẳng biết là chiếc xe bốc cháy vì va chạm hay vì hơi cồn toát ra từ tài xế nữa.”

“Anh ta không sao chứ?”

“Tất nhiên, nhưng anh ta bị vài chấn thương và bỏng da,” Eli kéo cô quay lại xe trước khi cô kịp hoàn hồn. Anh mở cửa, nhét cô vào trong xe và ra lệnh. “Ngồi trong này.”

“Em không phải Watson.”

Ánh mắt anh thoáng trở nên dịu dàng. “Anh biết mà. Watson quen nghe lời. Em thì không.”

Đúng lúc Eli quay lại để hoàn thành công việc phải làm, Shelby buột miệng gọi tên anh. Anh lập tức quay lại. Shelby không hiểu vì sao cô cảm thấy cần nói với Eli những suy nghĩ trong đầu. Rốt cuộc cô cũng lến tiếng, “Ross suýt chết trong một vụ tai nạn xe.”

Eli xoay người về phía đống đổ nát vẫn nghi ngút khói. “Suýt chết thì tính làm gì.”

Ethan trộm được máy đo EMF từ phòng ngủ Ross. Sau một hồi cân nhắc, cậu bé chọn cho mình cái áo thun ngắn tay - vốn chỉ được phép mặc trong nhà. Một tiếng gõ nhẹ lên cửa thông báo Lucy đã sẵn sàng. Cô bé rón rén bước vào phòng, ánh mắt mở tròn vì lo lắng khiến Ethan bật cười. “Chúng ta chưa ra khỏi nhà mà. Bình tĩnh đi.”

“Ờ hen.” Lucy hổn hển thì thào, “Tình huống xấu nhất thì chuyện gì sẽ xảy ra?”

Với Lucy tình huống xấu nhất là khi cô bé trở nên hoảng loạn. Chú Ross từng bảo ma không làm hại người. Với Ethan, tình huống xấu nhất, ờ thì còn tồi tệ hơn tưởng tượng của Lucy nhiều. Ethan từng kể với Lucy rằng mình sẽ bệnh nếu ở ngoài trời nắng, nhưng cậu bé chưa bao giờ nhắc đến cái giá phải trả - ung thư da, vết thương hở, tử vong. Nếu biết, cô bé sẽ chẳng bao giờ đồng ý với kế hoạch này. Nhưng Ethan suy nghĩ kỹ lắm rồi, nếu phải chết trẻ, cậu bé muốn được tự do làm việc mình thích. Cậu không muốn ở trong một phòng bệnh Nhi với mấy con khủng long màu tím ngu ngốc được vẽ trên tường để đánh lừa con nít.

Biết đâu giữ vững hy vọng sẽ thay đổi số phận - biết đâu ký ước bằng máu giữa cậu và Lucy đêm qua sẽ làm Lucy dũng cảm hơn và cậu sẽ mạnh mẽ hơn. “Được rồi,” Ethan giắt máy đo EMF vào lưng quần rồi mở cửa sổ phòng mình ra. “Chúng ta sẽ trượt dọc cột chống xuống mái hiên rồi nhảy xuống.”

“Phải dùng cách này sao?”

“Ngoài cách này thì chỉ còn cách bước qua chỗ mẹ em ngồi trong phòng khách thôi.” Cậu nhóc vừa nói vừa đặt một chân lên bậc cửa sổ. “Anh đi trước.”

“Chờ đã.”

Ethan quay đầu lại. “Lucy. Chúng ta đã thảo luận rồi, nhớ không? Từ khi sinh ra em đã nhát như gà nhép, anh thì mang căn bệnh quái gở. Vậy thì sao? Chỉ có những kẻ thất bại mới không chịu thay đổi thôi.”

“Nhưng nếu đây chính là số phận của chúng ta, nên chúng ta sinh ra phải như vậy thì sao?”

“Vớ vẩn,” Ethan phản bác. “Anh nói cho em nghe - Lúc phân chia gene tốt, Chúa ra ngoài uống cà phê, để một thằng ngu thế chỗ nên mới xảy ra chuyện này.” Cậu bé nhìn chằm chằm vào Lucy. “Nếu người ta không thể thay đổi thì trưởng thành có ích gì?”

Cô bé gật gù tán thành. “Chính xác là chúng ta sẽ đi đâu?”

“Đến nơi duy nhất mà chúng ta vừa gặp được ma vừa ngắm mặt trời mọc ở Comtosook,” Ethan đáp. “Tin anh đi.” Cậu bé giơ cánh tay trắng như sữa ra, lẳng lặng chờ đến khi Lucy đặt tay mình vào đó rồi nắm chặt. Sau đó hai đứa bé vội vàng leo qua cửa số, tiến vào bóng đêm với quyết tâm không muốn trở thành kẻ thất bại.

Bên bờ hồ Champlain, Az Thompson nhớ lại lúc con gái Lia đến đây cùng một nhân viên xã hội, và ông đã dạy cô vài từ bằng tiếng thổ dân. Lúc ấy, ông sợ đến mức chẳng dám thú nhận mình là ai hay mình biết con bé. Thay vào đó, ông dạy cô những câu bằng tiếng Abenaki; khiến cô nuốt chúng vào bụng, để chúng mọc rễ bên trong, đâm chồi nảy lộc thành khu vườn nhỏ bé bao bọc đứa cháu cô đang mang.

Lời nói dù vô hình và mỏng manh thế nào vẫn luôn ẩn chứa sức mạnh vĩ đại. Lời nói có thể vững chắc như pháo đài và sắc bén như kim loại. Chúng có thể cắn, tát, khiến người ta hoảng loạn và để lại thương tích. Nhưng khác với văn bản, chúng chẳng giúp gì được. Không có lời hứa nào từng cứu sống mạng người; hoàn thành lời hứa chỉ có tác dụng cứu rỗi linh hồn.

Đối với Az, chân lý đó hóa ra không hề sai. Sau tất cả, tất cả những gì còn lại là những câu đã viết và những lời đã nói. Ông nhìn xuống thùng đựng tất cả tài liệu, gia phả đặt bên bờ sông ngay tại nơi ông thường đặt cái xô đựng cá. Lẻn vào tầng hầm khu hành chính rồi lấy đám tư liệu còn lại về dự án ưu sinh bang Vermont chẳng có gì là khó vì không ai buồn khóa cửa sổ dưới hầm.

Az biết cách duy nhất khiến lời nói mất đi hiệu lực là phải xóa bỏ chúng. Dĩ nhiên những gì đã phát ra không thể nào rút lại được, nhưng người ta có thể ngăn không cho người khác bàn tán, nghe ngóng và đào sâu những điều ấy. Ông cầm cuộn băng dính mua từ cửa hàng Gas & Grocery, tách một đầu băng dính rồi dán lên áo ngay dưới tay mình. Nhấc chồng hồ sơ chi tiết của Spencer Pike lên, ông ôm lên ngực, quấn băng dính một vòng để cố định lên người.

Trong lúc quấn toàn bộ tài liệu và sơ đồ gia phả quanh thân thể gầy guộc, Az nhớ đến con gái mình: ánh mắt cô sáng lên khi thấy ông đang đến, động tác dùng tay ôm lấy bụng bầu, dáng cô đứng ngoài khu cắm trại của dân Gypsy như cành phong lan giữa cánh đồng hoa cúc dại. Dĩ nhiên muốn trồng phong lan trên đất ấy thì vẫn được, chỉ cần có ai đó chịu bỏ thời gian và khao khát được nhìn thấy nhành lan ấy sống sót.

Tâm trí ông lại trôi dạt xa hơn, quay về khoảnh khắc nhìn thấy Lily xinh đẹp của lòng mình vào buổi chiều đầu tiên khi ông đến làm thuê cho cha cô. Ông từ cánh đồng quay về để lấy thêm giỏ đựng quả và nhìn thấy cô với mái tóc bạch kim và làn da trắng muốt đang khiêu vũ dưới hiên nhà theo điệu hát khe khẽ. Cô giơ tay như đang ôm một người bạn nhảy trong tưởng tượng, nhảy một điệu van-xơ. Cô không hề nhận ra có người đang nhìn, và chỉ cần có vậy đã đủ hớp hồn Az. Az thầm nghĩ cô ấy cần một người bạn nhảy, và thế là câu chuyện bắt đầu.

Ông tự hỏi Meredith đã bàn bạc với Winks về mảnh đất hay chưa. Ông băn khoăn không biết cô có quay lại Comtosook như đã hứa. Ông không thân thiết đến mức thấu hiểu được cô. Thỉnh thoảng những lúc sắp đi vào giấc ngủ, ông lại nhầm cô thành Lia. Hai người giống nhau, nhưng còn hơn thế nữa. Az không thể nói thay lời con gái, nhưng ông nghĩ Lia chắc sẽ tự hào lắm.

Lúc dán xong tập tài liệu cuối cùng lên người, cuộn băng dính cũng vừa hết. Az bước xuống hồ nước. Đã giữa tháng Tám mà nước vẫn lạnh buốt, khiến mắt cá chân ông tê cứng. Ông cảm thấy mớ tài liệu quấn quanh hông bắt đầu thấm nước. Giấy là bọt biển hút nước, neo giữ ông dưới đáy hồ đầy bùn.

Az hít một hơi thật sâu trước khi lặn xuống. Ông bước dọc đáy hồ, chân đá phải mấy con ốc, đá sỏi và kho báu bị lãng quên. Để mặc bong bóng thoát ra khỏi phổi, ông nằm ngửa ra, chìm nghỉm vì sức nặng của quá khứ buộc quanh người, lặng lẽ chờ đợi bình minh đến.

“Anh xin lỗi.” Eli nói với Shelby lần thứ ba mươi, khi anh mở cửa nhà và chú chó Watson nhảy ra mừng.

“Không phải lỗi của anh mà.”

Sau vụ tai nạn xe kia, hai người không chỉ lỡ mất giờ hẹn đặt bàn mà còn lỡ luôn giờ nhà hàng mở cửa. Bây giờ là 2 giờ sáng, đến McDonalds còn không mở cửa để hai người kiếm gì lấp bụng. Eli quăng chìa khóa vào cái tô trên kệ bếp đựng ba trái chuối héo queo. “Mình đúng là đối tượng hẹn hò dở tệ,” Eli lẩm bẩm lúc mở tủ lạnh. “Anh còn chẳng có gì để nấu cho em. Trừ khi em muốn ăn bánh mì trét mù tạt.” Anh săm soi ổ bánh mì cũ. “Có thể làm món nấm penicillin và mù tạt này.”

Đột nhiên Shelby vòng tay ôm chầm lấy anh từ phía sau. “Eli,” cô thỏ thẻ, “em thậm chí còn không thấy đói.”

“Không đói sao?” Anh giật mình quay lại đối mặt với cô.

Cô tháo lỏng cà vạt của anh rồi nhấc chân ra khỏi đôi giày cao gót. Lúc đi chân trần, cô trông thật bé nhỏ và mỏng manh đến mức khiến Eli liên tưởng đến bông tuyết chớp mắt một cái là vụt tan biến. “Không,” cô đáp, “nhưng em thấy hơi nóng.”

Eli thầm nghĩ, em đang ám chỉ với anh sao. Shelby quay lưng lại, nhấc tóc lên và bảo. “Kéo khóa váy giúp em đi.”

Anh đưa tay kéo dây kéo xuống, mỗi răng cưa mở ra là một lần Eli cảm giác tâm trí mình run rẩy. Làn da Shelby chính là thứ trắng nhất, mịn màng nhất mà Eli từng thấy. Kéo xuống dưới thêm tí nữa thì móc khóa áo ngực hiện ra trước mắt anh.

Anh lùi ra xa. Đàn ông chỉ nhịn được đến thế này thôi. “Có lẽ, à ừ, em nên tìm áo quần gì đó để thay ra,” anh đề nghị.

“Ồ, khỉ thật,” Shelby thản nhiên đáp lại. “Em chẳng mang theo áo quần gì hết.” Cô với tay ra sau, kéo nốt dây kéo xuống, mặc cho váy đầm trượt xuống đất. Trước mặt anh là cảnh tượng da thịt ẩn hiện dưới vải ren hết sức mê hồn. Cô quay lại mỉm cười rồi bước lên lầu, Watson lập tức theo gót.

Eli chẳng cần nghĩ gì thêm. Anh tháo bộ đàm và điện thoại ra khỏi thắt lưng, tắt máy, sau đó gác ống nghe chệch ra khỏi điện thoại cố định. Làm vậy là trái với quy định của cục cảnh sát, nhưng vụ khi nãy đủ cho đêm nay rồi. Và thú thật, anh chẳng thèm quan tâm nếu thế giới sắp bị hủy diệt, miễn là anh đang cùng Shelby lúc chuyện đó xảy ra.

Lúc đọc xong hết tất cả tạp chí quảng cáo được gửi đến nhà Shelby suốt tháng này, Meredith nhận ra có gì đó hết sức khác thường - đó là cô vừa yên ổn đọc hết chỗ tạp chí đó. Con gái cô vẫn thường tranh thủ những lúc Meredith rảnh rỗi ngồi một mình để hỏi những điều mình thắc mắc, ví dụ như vì sao môi có màu hồng, vì sao hai mẹ con không được phép nuôi chó. Vậy mà tối nay Lucy chẳng hề quấn quýt lấy cô. Ethan cũng không. Theo như lý luận toán học, một căn nhà có hai đứa nhóc dưới mười tuổi lẽ ra phải ầm ĩ hơn gấp hai lần mới phải.

Cô đặt tờ tạp chí Đồ gốm Barn xuống, cất tiếng gọi với lên lầu. Không có tiếng trả lời, nhưng bọn trẻ chắc đang đóng cửa chơi điện tử. Meredith bước lên lầu và lắc lắc tay đấm cửa bị khóa trái. “Ethan,” cô gọi to. “Hai đứa đang làm gì trong đó?” vẫn không có tiếng trả lời, cô bắt đầu cảm thấy căng thẳng. Cô lấy một cái móc áo làm bằng dây kẽm từ tủ quần áo, bẻ thẳng và chọc vào ổ khóa. Ổ khóa bật mở, Meredith bước vào phòng ngủ của Ethan và nhìn thấy một cái chuồng heo đặc trưng của đứa con trai lộn xộn - chẳng có gì mất tích, ngoại trừ hai đứa nhóc.

Cửa sổ mở toang.

Cô chạy vội xuống lầu, tìm danh sách số điện thoại khẩn cấp đặt bên điện thoại. Khi nãy cô mới nói với Shelby rằng cô sẽ chẳng bao giờ cần đến chúng đâu.

Lúc Ross bước vào bếp, Meredith quăng điện thoại cái rầm, quay mặt lại, nước mắt đầm đìa. “Nhà hàng đóng cửa, còn bộ đàm và điện thoại của Eli đều tắt hết. Lẽ ra anh ta phải mở điện thoại chứ. Cục cảnh sát còn chẳng thèm cung cấp thông tin gì mặc dù số điện thoại của Eli có phải bảo mật đâu…”

Vẻ đờ đẫn trên mặt Ross lập tức biến mất. “Có chuyện gì?”

“Bọn trẻ,” Meredith đáp. “Hai đứa đều mất tích.”

“Bao lâu rồi?”

“Em không biết. Em không biết nữa. Em vừa lên lầu nhưng không thấy hai đứa.”

“Em cũng không liên lạc được với Shelby và Eli à? ”

Cô lắc đầu.

“Được rồi. Để anh đi tìm hai đứa.”

“Anh không tìm được đâu. Anh đâu biết bọn nó đi đâu.”

“Anh biết. Ở yên đây, phòng khi hai đứa gọi điện hoặc Shelby về nhà.” Nhưng vừa bước ra khỏi cửa, Ross biết chắc Meredith sẽ theo sau anh.

Ai mà biết có bao nhiêu sắc thái của màu đen? Đứng dưới bầu trời không có ánh trăng chẳng khác gì giấu mình dưới chăn. Mũi giày sneaker của Lucy vừa chạm đến rìa mỏ đá trông như một vòng tròn khổng lồ trống rỗng. Một bước, một sai lầm là sẽ rơi xuống. Lucy phải nheo mắt lại mới thấy Ethan vừa thả tay ra khỏi lan can an toàn và biến mất ngay trước mắt mình.

Hơi thở cô bé như đông đặc lại thành khối chặn ngang họng. Cô bé muốn hét lên, nhưng Ethan sẽ nghĩ gì nếu bi?