- 9 - 4 giờ kém 15 phút
Liều thuốc tê ngắn ngủi từ việc Helen Kirsch được giải thoát khỏi nỗi khổ sở đang dần hết tác dụng, và nỗi ám ảnh căng thẳng từ tình thế tiến thoái lưỡng nan của bản thân cô đang trở lại, còn dày vò khổ sở gấp đôi lúc trước. Ánh đèn hậu đỏ quạch của chiếc taxi chở kẻ bị tình nghi về nhà đã khuất hẳn, và cô chỉ còn một mình. Ở ngoài đường, xung quanh vắng tanh, cô lại chỉ có một mình. Với bốn mươi, có khi là năm mươi phút quý giá bị mất toi, và vẫn ở xa thành công như trước.
Cô đã trở lại phố Bảy Mươi Đông, con phố Bảy Mươi Đông đầy biến cố với hai phát súng trong một buổi tối, một phát vô hại, một phát giết người. Vậy nên tất cả những gì cô phải làm để quay lại ngôi nhà của Graves là chậm chạp bước về phía Tây, dọc theo con phố. Đó là nơi mà lúc này cô phải đến. Cô sẽ phải bắt đầu lại từ đầu, cô sẽ phải bắt đầu từ một nơi nào đó, và đó là điểm khởi đầu cho bất cứ cuộc tìm kiếm mới nào.
Cô đang giữ chiếc chìa khóa thứ hai, chiếc mà họ đã lấy ra từ người Graves, vì thế cô sẽ không gặp khó khăn nào để vào nhà lần nữa. Cô chỉ không rõ mình hy vọng đạt được điều gì khi vào đó một lần nữa; cô biết làm thế sẽ là chấp nhận một sự mạo hiểm lớn. Nhưng cô chẳng thể làm gì khác, khi giờ đây manh mối cuối cùng đã hoàn toàn bốc hơi. Và còn hơn thế nữa, cô đang bị lôi kéo lại gần nơi đó một cách không khoan nhượng, bởi thứ mà người ta vẫn thường gọi là sức hút bất khả kháng của hiện trường tội ác đối với kẻ gây ra nó. Như thể cô chính là kẻ sát nhân, nếu xét đến cách cô bị lôi kéo trở lại nơi đó.
Cô biết đó là cái gì; cô muốn nhìn, cô phải nhìn, để xem liệu vụ giết người đã bị phát giác hay chưa, liệu có dấu hiệu nào về hoạt động của cảnh sát, có ánh đèn nào, có bất cứ điều gì cho thấy bí mật trong ngôi nhà không còn chỉ thuộc về hai người họ nữa hay không.
Vậy là cô chậm rãi, thận trọng quay lại, không hề giống một người đang chạy đua với thời gian, đi qua đại lộ Lexington, qua Công viên. Gần hơn, mỗi lúc một gần hơn. Từ giữa Park-Madison, cô đã có thể nhìn thấy dãy nhà phía trước; đủ rõ để thấy rằng nó vẫn vắng tanh, lặng ngắt, và ít nhất thì từ bên ngoài có vẻ mọi thứ vẫn đang trong tầm kiểm soát. Không có chiếc xe nào đậu ở xung quanh hay gần lối vào, không có thân hình bất động nào của một cảnh sát đứng gác bên ngoài, không có ai đi vào hay đi ra. Trên hết, không có ánh sáng hắt ra từ các ô cửa sổ trên mặt tiền. Và ánh đèn từ các ô cửa sổ có thể được nhìn thấy từ rất xa, nhất là trên một con phố không có ánh sáng như ở đây.
Hay đó chỉ là một cái bẫy? Phải chăng đang có một cái bẫy bố trí sẵn chỉ chờ sập xuống? Ồ, không phải một cái bẫy của cảnh sát, không phải một cái bẫy do con người bày ra. Họ không thể biết rằng cô đang quay trở lại, vào thời điểm này, hay thậm chí là liệu cô có trở lại hay không. Là một cái bẫy khác, do kẻ thù thực sự của họ bày ra. Thành phố này.
Giờ cô đã tới đại lộ Madison. Cô nhìn sang góc đường bên kia, nơi cô đã bắt đầu cuộc hành trình. Cô đã đi đúng một vòng, và giờ lại quay về đây, hoàn toàn tay trắng. Chiếc taxi đã rời đi, chiếc xe đã đưa cô tới chỗ Helen Kirsch trong một chuyến đi nhầm lẫn.
Một chiếc xe chở sữa nhỏ với cái thùng bằng nhôm lướt qua, một chiếc xe kiểu mới bắt đầu được sử dụng từ năm ngoái. Êm ái và linh hoạt như những chiếc xe điện lúc sáng sớm. Đã đến giờ giao sữa rồi. Trời đã sắp sáng.
Cô băng qua đại lộ Madison và tiếp tục đi.
Ngôi nhà đã gần hơn.
Cô sẽ không bao giờ quên được mặt tiền của ngôi nhà đó. Nó đã bắt đầu ám ảnh cô. Cô sẽ còn thấy nó một thời gian dài nữa, kể cả khi đã rời xa nơi này. Cho dù người ta có phá dỡ nó, rồi nơi này trở thành khu đất trống và ngôi nhà không còn nữa, cô vẫn sẽ nhìn thấy nó. Cô sẽ vẫn ở bên ngoài như thế này, vào một đêm nào đó, trong một giấc mơ. Ngôi nhà sẽ lại dựng lên sừng sững trong tâm trí cô, sẽ nguyên vẹn, hoàn chỉnh trở lại, như tối nay. Và – nếu cô may mắn – cô sẽ thức dậy đúng lúc chuẩn bị bước vào nhà.
Dường như đã lâu lắm kể từ khi cô chậm rãi đi đi lại lại bên kia đường, phía trước ngôi nhà, còn anh thì vào trong để trả lại tiền. Không thể là cùng buổi tối hôm nay, không buổi tối nào có thể kéo dài đến thế. Nhưng vậy đấy, cô thật ao ước có thể trở lại thời điểm đó, thay vì lúc này. Vì, cho dù cảm giác ấy có khổ sở đến mức nào khi việc chờ đợi diễn ra, cho dù lúc ấy cô đã sợ hãi kinh khủng đến mức nào, sợ rằng anh có thể bị bắt quả tang, ít nhất lúc ấy họ vẫn chưa biết chuyện gì đã xảy ra, họ vẫn chưa biết những gì đang chờ đợi mình trong nhà.
Cô thở dài. Câu triết lý ưa thích khi còn làm ở vũ trường trở lại với cô, Ước thì ích gì chứ?
Cô tự hỏi anh đang ở đâu, đang xoay xở thế nào. Hy vọng anh ấy có được vận may khá hơn mình, cô thầm nghĩ. Cô hy vọng anh vẫn an toàn, không bị mắc kẹt trong bất cứ chuyện gì. Mắc kẹt cũng hay; liệu phiền toái nào có thể tồi tệ hơn được tình trạng mà anh đang mắc kẹt vào, mà cả hai người họ vốn đang lún sâu vào?
Cô cảm thấy ghê tởm chính mình. Ờ, mày với những hy vọng và ao ước của mày. Tại sao mày không cầm lấy một cái xương chạc gà tây[5], rồi tới gặp tay cảnh sát đầu tiên mày thấy và đề nghị thi bẻ nó với anh ta để kết thúc chuyện này luôn cho rồi?
Cô dừng lại. Lúc này ngôi nhà đang ở đối diện. Thật tức cười, cô thầm nghĩ, một ngôi nhà với một xác chết bên trong lại trông chẳng khác gì bất cứ ngôi nhà nào khi ta đang đứng bên ngoài. Sự khác biệt duy nhất chỉ nằm ở những điều ta biết.
Cô bước vào. Cô cảm thấy điều đó trước cả khi thực hiện cử động đầu tiên. Cô không biết tại sao, cô không biết làm thế sẽ được gì; nhưng dù sao thì cứ đứng ngơ ngẩn chẳng biết làm gì ngoài phố, nhìn chằm chặp vào ngôi nhà thì cũng có ích gì đâu cơ chứ?
Ít ra thì cô cũng tiếp cận ngôi nhà một cách can đảm. Không lén lút, không thập thò. Cô đi thẳng đến chỗ ngôi nhà và bước lên các bậc cấp. Cách còn lại là cách nguy hiểm hơn trong hai lựa chọn, là cách dễ gây nghi ngờ hơn nếu vô tình lọt vào mắt ai đó.
Lần trước cô đã cùng anh bước vào trong nhà. Vào một mình sẽ đáng sợ hơn nhiều. Ngộ nhỡ có kẻ nào đó đang lẩn khuất bên trong thì sao? Không phải cảnh sát hay một người có tư cách chính danh, mà là một kẻ không thể đoán trước được sự hiện diện từ ngoài này, một kẻ không muốn bật đèn lên hay không muốn việc đột nhập của hắn bị phát hiện, giống như anh và cô khi trước. Một người mà ta không hề nhận ra sự có mặt của hắn, cho tới khi đã quá muộn.
Cô đi tiếp. Còn có thể làm được gì nữa đây? Quay ra ngoài kia sẽ chẳng giải quyết được gì.
Cô tra chìa khóa vào ổ. Đó là chiếc chìa khóa của người đã chết. Cô nhớ bàn tay anh đã run rẩy thế nào khi tra chìa khóa vào lần trước. Anh cần phải thấy bàn tay cô lúc này, như thế hẳn anh sẽ biết run rẩy đích thực là thế nào. Cẳng tay cô đang thực sự nhảy vòng quanh trong khớp khuỷu của nó. Và âm thanh mới to làm sao! Ít nhất thì với đôi tai cô, âm thanh run rẩy đó chẳng khác gì những cái lon thiếc đang kêu rổn rảng. Theo cái cách báo trước sự xuất hiện của mình thế này, cô hoàn toàn có thể bấm chuông cửa luôn cho xong.
À mà có gì khác nhau chứ. Dù sao thì bên trong cũng chẳng có ai hết.
Là mày hy vọng thế thôi, cô khẽ đính chính.
Cửa mở.
Im lặng.
Bây giờ thì cô đã biết đường đi hơn một chút, vì đã từng ở đây một lần rồi. Đầu tiên là đi thẳng, rồi sẽ gặp cầu thang. Trước tiên cô đóng cửa trước lại, rồi bắt đầu tiến vào trong. Cô có thứ cảm giác chống chếnh đó, như thể đang đi trên một sợi dây thừng mà việc di chuyển trong bóng tối luôn đem đến, ngay cả khi cảm giác về phương hướng là tương đối rõ ràng.
Lại thứ mùi của da và đồ gỗ đó.
Nơi này thật tĩnh lặng. Làm sao một ngôi nhà lại có thể tĩnh lặng đến thế? Cứ như thể nó đang làm quá chuyện đó lên, vì một mục đích phản trắc nào đó.
Cô thầm nghĩ, Hãy kiểm tra xem liệu cái va li có còn ở chỗ mày đã để nó lại, tựa vào tường hay không. Đó chắc chắn là một manh mối về chuyện liệu có ai ở trong này hay không.
Cô biết mình đã để cái va li lại ở phía nào, nhưng tất nhiên không thể nhớ được là cách cửa bao xa. Cô quay người đi thẳng về phía đó. Cô tìm thấy bức tường, rồi dùng hai lòng bàn tay lần xuống phía dưới. Cô lần xuống tận chân tường, tới tận ván ốp chân tường mà không chạm phải thứ gì.
Không, không phải ở đây. Xa hơn chút nữa.
Cô lui ra khỏi tường chút ít, rồi lại tiếp tục đi. Cô tiến thêm chừng bốn bước rồi lại quay vào sát tường và thử tìm ở đó. Chắc chắn là đúng rồi, ở khoảng chỗ này. Không thể xa hơn nữa. Hẳn là lúc này cô đã phải đi gần tới chân cầu thang rồi.
Hai tay cô lại giơ ra, lòng bàn tay hướng về phía trước, để tìm bức tường và áp chúng vào đó, trượt xuống tới vị trí chiếc va li hẳn đang tọa lạc...
Bức tường đã thay đổi.
Nó không còn là lớp thạch cao mát lạnh và nhẵn mịn như trước nữa, nó cũng không bằng phẳng. Bàn tay cô ấn vào thứ gì đó mềm mềm. Nó chỉ lún vào một mức nhất định; lún vào một chút rồi chạm vào thứ gì đó cứng chắc ở bên trong. Thứ gì đó thô ráp, nhưng đồng thời cũng mềm mại. Có nhiều sợi cứng. Lớp vải nhung. Của một chiếc áo khoác. Một chiếc áo khoác, với một thân người sau lớp vải. Một chiếc áo khoác với một cơ thể bên trong.
Có một người đang đứng đó, dán sát vào tường. Áp sát lưng vào tường, cố tránh việc bị phát hiện. Và cô đã dừng lại ngay trước nó, trước người đó, và như một người chơi trò bịt mắt bắt dê – có điều đây lại không phải là trò chơi – cô đưa hai lòng bàn tay dò dẫm chạm vào người đó.
Cô có thể nghe thấy tiếng hít mạnh từ cơ thể đó phát ra – không phải hơi thở của cô – ngay khoảnh khắc cô chạm vào nó. Hơi thở của cô đã ngừng lại hoàn toàn.
Có một người ở đó, ngay trước mặt cô, ai đó còn sống nhưng đứng bất động như chết, bị chốt cứng lại đó, do bị cô phát hiện.
Bóng tối cuộn xoáy dữ dội xung quanh cô; nó cuộn lên thành ngọn, như một con sóng bị cản lại sắp sửa vỡ bung ra ập xuống người cô. Cảm giác lúc này giống như ở trong một con sóng; một con sóng xấu xa gây hoảng loạn các giác quan. Cô bắt đầu đi lùi lại, bị nhấn chìm trong tình trạng vô cảm giữa con sóng ấy. Cô bật ra một tiếng rên khe khẽ, một âm thanh cô không hề định thốt ra.
“Quinn, cứu em...”
Một cánh tay ôm quanh hông cô; ý thức của cô trong phút chốc trở nên quá mơ hồ để cảm nhận rõ rằng nó là để đỡ cô hay để giữ cô lại. Cánh tay đó giúp cô giữ được tỉnh táo, thoát ra khỏi cảnh mất tri giác.
Giọng nói của Quinn cất lên, “Bricky! Bình tĩnh lại, Bricky!”
Cô lại bước tới, vô thức gối đầu lên vai anh. Cô tựa người vào anh như thế, không nói nên lời trong suốt một phút.
“Chúa ơi”, anh nói, “anh không biết đó là em. Anh đã đứng đây cứng đờ người, sợ rằng...”
Cô vẫn chỉ có thể thở hổn hển, kể cả sau đó một lúc. “Nếu thứ đó không thể giết em thì không gì có thể.”
Anh dẫn cô rời khỏi bức tường trong bóng tối, cả hai cánh tay đều ôm lấy cô như đang giữ một chiếc thùng. “Lại đây, ngồi xuống cầu thang một chút đi, cầu thang ở ngay đây rồi...”
“Không, giờ em ổn rồi. Chúng ta hãy lên lầu đi, chúng ta có thể bật đèn lên để có chút ánh sáng, để có thể thoát khỏi cái bóng tối đáng nguyền rủa này. Phần lớn là do nó thôi.”
Họ lên lầu. Giờ thì ổn cả rồi, khi có anh bên cạnh, cô không còn hoảng sợ nữa.
“Thật tức cười khi hai chúng ta cùng quay lại đây như thế này, gần như cùng lúc. Cũng không gặp chút may mắn nào, đúng không?” Cô phỏng đoán.
“Vô ích. Anh quay về để bắt đầu lại.”
Họ không hỏi nhau về trải nghiệm của người kia. Họ đã không thành công, vậy nên có nhắc lại cũng chẳng ích gì. Mà cũng chẳng còn thời gian nữa; đó mới là điều cốt yếu.
Khi đèn được bật sáng, họ gần như không nhìn xuống cái xác. Lúc này họ đã đi quá xa điểm đó rồi. Chỉ một thoáng liếc nhìn bằng khóe mắt, cho họ thấy một thứ màu đen với một khoảng ngực áo sơ mi màu trắng là đủ, chừng nào nó cho họ biết cái xác vẫn nằm đó. Cô thầm nghĩ, Người ta làm quen với sự hiện diện của cái chết trong một căn phòng thật nhanh biết bao. Đó là lý do tại sao những người ngồi canh cả đêm bên linh cữu chẳng bao giờ dựng dù chỉ một sợi tóc. Cô đã không bao giờ hiểu nổi khả năng đó của họ, cho đến tận lúc này.
Đó là xác chết đầu tiên cô từng thấy, ấy thế mà cảm giác sợ hãi cũng đã nhạt nhòa đi rồi. Cô thấy mình bước vào căn phòng và chỉ dửng dưng tránh đi một chút khỏi vị trí đó mỗi khi phải di chuyển qua, chỉ vậy thôi, không hơn. Như người ta sẽ làm để tránh giẫm phải một con chó hay con mèo đang ngủ.
Họ đang mất phương hướng. Họ đã chạm đáy. Họ đã cùng đường. Mỗi người có thể đọc được điều này trên đôi mắt người kia khi họ nhìn nhau, nhưng hai người cố nén không nói ra điều đó, không thừa nhận thực tế này thành lời. Sự tránh né của anh thể hiện ra bằng việc bồn chồn đi đi lại lại, như thể anh đang hoàn thành điều gì đó, trong khi cả hai đều biết không phải thế. Anh đi tới lối vào phòng ngủ, bật đèn lên, đứng nhìn quanh, như thể cố hết sức nhìn ra một thứ chẳng hề có ở đó để nhìn. Rồi anh lại quay ra, tới lối vào phòng tắm, bật đèn lên, lặp lại điều tương tự trong đó.
Chẳng ích gì. Làm thế chỉ vô vọng, cả hai người đều biết vậy. Họ đã vắt kiệt đến giọt cuối cùng tất cả những bằng chứng câm lặng mà nơi này có thể cung cấp. Họ đã vắt khô nó.
Cảm giác tuyệt vọng của cô thể hiện ra dưới hình thức thụ động hơn. Cô đứng im. Tâm trạng đó chỉ lộ ra qua các ngón tay của cô, đang đặt lên lưng tựa của một chiếc ghế; những ngón tay không ngừng cử động như các ngón tay của một người đánh máy trên một cái máy chữ vô hình.
Đột nhiên có một thứ phá vỡ sự im lặng. Nó biến mất, và họ không hề gây ra nó.
“Cái gì vậy?”
Nỗi kinh hoàng này giống như một luồng nước giá lạnh phun thẳng vào người họ, như một vòi nước hay đường ống bị bật tung, như một đợt thủy triều tê tái dâng lên lút đầu họ, trong một không gian khép kín không có lối thoát. Họ giống như hai tạo vật nhỏ nhoi – hai con chuột – bị mắc kẹt trong một căn hầm ngập nước, bị cuốn đi vòng quanh, vòng quanh, vẫn còn sống, nhưng chỉ biết quẫy đạp vô vọng trên bề mặt xoáy nước trước khi chìm xuống.
Nỗi kinh hoàng ấy xuất phát từ tiếng kêu khe khẽ của một cái chuông. Tiếng t-t-ting, t-t-ting rất khẽ, nhẹ nhàng, lặp đi lặp lại. Nó ở đâu đó không nhìn thấy, ẩn kín, nhưng rất đáng quan tâm với họ, có liên quan tới họ, có liên quan tới nơi họ đang có mặt.
Sau cú sốc đầu tiên như bị kim đâm, hai người đứng bất động, chỉ có đôi mắt họ dịch chuyển trong lộ trình hốt hoảng, lúc sang bên này, lúc sang bên kia, lần nào cũng quá muộn. Âm thanh đó cứ như một con ong bắp cày, vo vo lẩn khuất quanh đầu họ, trong khi họ đứng im, cố nhận diện nó, định hướng nó, định vị nó. Nó ở khắp nơi, nó chẳng ở nơi nào. T-t-ting, t-t-ting, êm ái, mượt như nhung, mãi không dứt.
“Cái gì vậy, chuông chống trộm à?” Cô thở dốc. “Có phải chúng ta đã chạm vào thứ gì đó mà chúng ta không nên...?”
“Nó phát ra từ đằng này... trong phòng ngủ. Hẳn phải có một cái đồng hồ báo thức trong đó...”
Họ lao tới lối vào, như hai con chuột chạy trốn cơn thủy triều sợ hãi. Có một chiếc đồng hồ nhỏ gấp lại được đặt trên tủ đồ. Anh cầm nó lên, mở nắp ra, đưa lên tai lắng nghe.
T-t-ting, t-t-ting... Âm thanh vẫn không gần hơn lúc trước, nó vang lên ở khắp mọi nơi, cùng một lúc, một âm thanh ma quái.
Anh đặt chiếc đồng hồ xuống, chạy ngược trở ra. Cô theo sau anh.
“Có thể là chuông cửa. Chúa ơi, chúng ta sẽ làm gì đây?” Cô rùng mình.
Anh chạy xuống vài bước rồi dừng lại trên cầu thang, lắng nghe.
“Không. Nó phát ra từ hai nơi cùng lúc. Nó vọng tới từ dưới kia, nhưng cũng vọng lại từ trên này, sau lưng chúng ta...”
Hai người chạy trở lại phòng ngủ, như hai con chuột đang chìm dần.
“Hãy thử đóng cửa lại.” Cô nói. “Làm thế có thể cho chúng ta biết là phòng nào...”
Cô đóng cánh cửa lại. Họ lắng nghe. Âm thanh tiếp tục vang lên, không giảm cường độ, không thay đổi, không bị ảnh hưởng bởi việc đóng cửa.
“Nó ở ngay trong phòng ngủ này, giờ thì chúng ta đã biết được... Ôi, giá như nó có thể ngưng lại một phút, để chúng ta trấn tĩnh tâm trí...”
Anh phủ phục, chống tay quỳ gối xuống sàn, bò đi bò lại lồm cồm hết hướng này lại hướng khác, như một con vật.
“Đợi đã, dưới kia có một cái hộp! Sát tường, dưới gầm giường, sơn trắng... Anh có thể thấy nó. Một đường dây điện thoại kéo dài. Nhưng còn cái máy...?”
Anh bật dậy, chạy tới đầu giường, hơi dịch nó ra khỏi tường. Rồi cánh tay anh luồn ra xung quanh và đằng sau nó, ở ngang tầm đệm giường và cầm chiếc điện thoại lên.
“Nó được móc vào đằng sau đầu giường, để anh ta có thế với được khi vẫn nằm trên gối mà không phải nhổm dậy.”
Vẫn không thể nhận ra âm thanh đó...
“Một trong những cái chuông giảm âm lượng, để nó không đổ chuông quá to vào tai anh ta. Chắc chắn phải có một cái nữa dưới nhà, còn đây là một đường dây kéo dài, chính nó đã đưa tiếng chuông đi khắp nơi, khiến chúng ta giật mình.”
Tiếng chuông tiếp tục vang lên khi anh nói.
Rõ ràng, không biết mệt mỏi. T-t-ting, t-t-ting...
Anh nhìn cô bất lực. “Anh sẽ phải làm gì đây?”
T-t-ting, t-t-ting... Tiếng chuông giống như trêu tức, không bao giờ chịu dừng.
“Ai đó chưa biết chuyện đang cố gắng liên lạc với anh ta. Anh sẽ thử vận may và trả lời.”
Bàn tay cô vụt đua tới, chộp lấy cổ tay anh, siết chặt quanh nó, lạnh như băng. “Hãy cẩn thận! Có thể anh sẽ mang cảnh sát tới chỗ chúng ta đấy? Họ sẽ biết ngay là không phải giọng của anh ta.”
“Có thể anh sẽ lo liệu được. Có thể nếu anh nói khẽ, không rõ ràng, họ sẽ không nhận ra sự khác biệt; anh có thể giả bộ mình là anh ta. Đây là cơ hội duy nhất của chúng ta. Chúng ta có thể tìm ra điều gì đó... dù cho chỉ là một, hai từ nhiều hơn những gì chúng ta đã biết, thì ít nhất chúng ta cũng có thêm được chừng đó, theo hướng tích cực. Đứng sát cạnh anh. Hãy cầu nguyện thành tâm nhất có thể. Anh thử đây.”
Anh nhấc ngón tay giữ cái móc treo ống nghe ra, và đường dây đã được thông.
Anh đưa ống nghe áp lên tai, thận trọng như thể nó mang điện cao thế vậy.
“A lô.” Anh nói với giọng khàn khàn không rõ ràng. Chính cô cũng nghe không rõ, vì anh đã nuốt đi phần lớn âm thanh.
Tim cô đập thình thịch. Đầu họ ghé sát nhau, tai kề tai, lắng nghe, lắng nghe cuộc gọi trong đêm.
“Anh yêu.” Một giọng nói vang lên. “Barbara đây.”
Cô liếc mắt nhìn về phía bức ảnh trên mặt tủ quần áo. Barbara, cô gái trong bức ảnh lồng khung bạc. Chúa ơi, cô kinh hoàng thầm nghĩ. Ta có thể lừa được bất cứ ai, ngoại trừ bạn gái của một người đàn ông. Cô ấy biết anh ta quá rõ. Chúng ta sẽ không bao giờ...
Khuôn mặt anh trắng bệch ra vì căng thẳng, và cô gần như có thể cảm thấy một mạch máu trên thái dương anh đập áp vào thái dương cô.
“Steve, anh yêu, em có để cái gương gấp mạ vàng ở chỗ anh không? Khi về đến nhà em không tài nào tìm thấy nó, và em thấy lo về chuyện đó. Anh tìm xem anh có cầm nó không nhé. Có thể anh đã cất nó vào túi áo giúp em.”
“Cái gương gấp của em à?” Anh nói mơ hồ. “Đợi một chút.”
Anh che ống nghe lại trong giây lát.
“Anh phải làm gì đây? Anh phải nói gì?”
Bricky đột nhiên vùng ra khỏi anh. Cô chạy sang phòng bên cạnh, rồi quay lại. Cô đang cầm trên tay một thứ và giơ lên cho anh thấy, một thứ bóng loáng và lóe sáng dưới ánh đèn.
“Bảo với cô ta là có, và tiếp tục nói chuyện. Giữ cho giọng của anh thật khẽ. Giữ giọng thật khẽ. Đến giờ thì vẫn tốt. Cô ta không thực sự muốn cái này, đó không phải lý do cô ta gọi. Nếu anh cẩn thận, anh có thể tìm hiểu được điều gì đó.”
Cô lại kề sát người anh, tai ghé vào ống nghe. Anh bỏ bàn tay bịt ống nói ra.
“Có.” Anh thì thào. “Anh có nó ở đây.”
“Em không thể ngủ được. Đó là lý do thực sự em gọi cho anh. Không phải cái gương.”
Anh đưa mắt nhìn Bricky, ngụ ý, “Em đúng.”
Giọng nói kia đang chờ đợi; đến lượt anh phải nói gì đó. Khuỷu tay Bricky thúc vào sườn anh giục giã.
“Anh cũng không thể ngủ được.”
“Nếu chúng ta kết hôn, mọi thứ sẽ trở nên đơn giản hơn nhiều, phải không nào? Khi đó anh chỉ cần lấy nó ra khỏi túi áo, để lên mặt tủ ngăn kéo trong phòng ngủ của chúng ta.”
Bricky đưa mắt nhìn xuống giây lát và nhăn mặt. Ngỏ ý kết hôn với một xác chết sao? Cô thầm nghĩ.
“Chúng mình chưa bao giờ chia tay trong tâm trạng bực bội như thế này.”
“Anh xin lỗi.” Anh khẽ thì thào.
“Có lẽ nếu chúng ta không tới đó, tới cái chốn Perroquet đó, thì việc đó đã chẳng xảy ra.”
“Phải.” Anh thụ động đồng ý.
“Cô ta là ai?”
Lần này anh không nói gì.
Giọng nói ở đầu dây bên kia vẫn nhẫn nại trước sự im lặng của anh, có lẽ cô ta xem nó là sự bướng bỉnh. “Cô ta là ai vậy, Steve? Cô gái tóc đỏ cao ráo mặc váy màu lục sáng ấy.”
“Anh không biết.” Anh trả lời như vậy, vì đó là câu trả lời hợp lý duy nhất mà anh có thể đưa ra; hóa ra đó lại là câu trả lời thích hợp.
“Trước đây anh đã nói thế rồi. Đó là điều đã khiến chúng ta bắt đầu cãi vã. Nếu anh không biết cô ta là ai, vậy thì sao cô ta lại cố ý chen vào khi chúng ta nhảy conga line?”
Anh không trả lời, không thể.
“Rồi tại sao cô ta lại nhét một tờ giấy ghi lời nhắn vào tay anh?”
Giọng nói kia coi việc anh tiếp tục im lặng đồng nghĩa với chối bỏ.
“Em đã thấy cô ta làm thế. Chính mắt em trông thấy cô ta.”
Cả hai người cùng chăm chú lắng nghe.
“Và sau khi chúng ta quay về bàn, tại sao anh lại gật đầu với cô ta, ở tận bên kia phòng? Phải, em thấy cả việc đó nữa. Em thấy qua cái gương gấp của mình, trong khi em có vẻ như không quan sát. Như thể anh muốn nói, ‘Anh đã đọc lời nhắn của em; anh sẽ làm điều em nói.’ ”
Có một khoảng ngừng để anh có cơ hội nói gì đó; anh không thể sử dụng nó.
“Steve, em đã bỏ qua lòng tự tôn để gọi cho anh như thế này; anh sẽ không xử sự nửa vời với em chứ?”
Cô ta đợi nghe anh nói gì đó. Anh không nói gì.
“Sao hả, thái độ của anh đã thay đổi kể từ lúc đó. Cứ như thể anh nóng lòng muốn tiễn em ra tận cửa để thoát khỏi em vậy. Em đã khóc, Steve ạ. Em đã khóc khi anh ra về. Em đã khóc suốt từ lúc đó tới tận bây giờ, suốt nửa buổi đêm. Steve. Steve, anh đang nghe em nói đấy chứ? Anh còn đó không vậy?”
“Còn.”
“Nghe anh thật xa cách, thật... Là do điện thoại hay do anh vậy?”
“Tín hiệu không tốt, anh đoán vậy.” Anh trả lời, miệng mím lại.
“Nhưng Steve, nghe giọng anh thật... thật khó gần, như thể anh sợ phải nói chuyện với em vậy. Em biết điều này thật ngớ ngẩn, nhưng em có cảm giác thật kỳ lạ là anh không ở một mình. Có sự chờ đợi hết sức kỳ cục trước mỗi lời anh nói, như thể có ai đó bên cạnh chỉ đạo vậy.”
“Không.” Anh thì thào phản đối.
“Stephen, anh không thể nói to hơn được sao? Anh đang thì thào, như thể sợ đánh thức ai đó dậy vậy. Và nếu anh đang thức, vậy thì còn ai trong nhà nữa?”
Một người đã chết, Bricky thầm nghĩ, kèm theo một cái nhăn mặt trong nội tâm.
Anh bịt tay lên ống nói. “Cô ta bắt đầu nói lung tung. Anh phải làm gì đây?”
Cô cảm thấy anh sắp sửa từ bỏ vì tuyệt vọng, như một lối thoát nhanh nhất. “Đừng. Đừng làm thế, cho dù anh định làm gì đi chăng nữa. Nếu thế anh sẽ để lộ thân phận mình.”
Anh trở lại với cuộc điện đàm. “Stephen, em không thích cách anh đang xử sự. Chuyện gì đang diễn ra ở đó vậy. Có phải Stephen không?”
Anh lại bịt ống nói lại. “Cô ta lại vặn hỏi. Anh nguy mất.”
“Đợi một chút nào, đừng mất bình tĩnh. Em sẽ giúp anh qua được chuyện này. Đưa ống nghe sang chỗ em một chút nào.”
Đột nhiên cô lên tiếng, thật rõ ràng, với giọng ủy mị say khướt êm ái nhắm thẳng vào ống nói điện thoại.
“Anh yêu, lại đây nào. Em phát chán vì đợi rồi. Em muốn một ly nữa. Anh còn đứng đó nói chuyện bao lâu nữa đây?”
Ở đầu dây bên kia là một cú sốc chớp nhoáng, gần như một vụ nổ; không hề có âm thanh hay hiệu ứng nào thể hiện nó, vậy mà anh gần như có thể cảm nhận được chấn động của nó lan đi theo đường dây về phía mình, thật dữ dội. Và rồi giọng nói nọ rút đi. Không phải về khoảng cách vật lý, mà là qua các lớp đau đớn. Lui về một mức độ xa cách không bao giờ lấp đầy được nữa.
Khi giọng nói đó vang lên, nó không còn sự phẫn nộ nữa. Chẳng có gì hết. Cả sự lạnh lùng sắc lẹm, nói cho cùng là một dạng nghịch đảo của sự nổi nóng, cũng không. Chỉ còn lại sự lịch thiệp trung tính, kinh điển.
Giọng nói ấy chỉ nói thêm hai câu nữa. “Ôi, em xin lỗi, Stephen.” Và giữa câu này với câu sau là một hai nhịp thở nhọc nhằn. “Tha lỗi cho em, em đã không biết.”
Có một tiếng cạch, rồi sau đó là sự im lặng.
“Đó là một quý cô.” Bricky rầu rĩ tán dương người gọi khi anh gác máy. “Một quý cô đích thực.”
Anh quệt mu bàn tay qua miệng với vẻ ân hận. “Phù, như thế thật tàn nhẫn. Anh ước gì chúng ta không phải làm như vậy. Dù sao thì cô ấy cũng đã đính hôn với anh ta... dù cho cô ấy là ai đi chăng nữa.” Rồi anh nhìn cô tò mò. “Làm sao em dám chắc làm thế sẽ thành công?”
“Nói cho cùng thì em cũng là một cô gái.” Cô buồn bã nói. “Tất cả các cô gái đều có cảm nhận giống nhau.”
Họ nghĩ về cô gái thêm một lúc nữa, cả hai cùng ngoảnh về phía cô ta, ở kia, trong cái khung bạc. “Tối nay cô ấy sẽ không ngủ”, anh lẩm bẩm. “Chúng ta đã khiến trái tim cô ấy tan nát.”
“Đằng nào thì trái tim cô ấy cũng sẽ tan nát, không theo cách này thì cách khác. Song điều đáng cười ở đây là cô ấy sẽ thấy khổ sở theo cách này hơn là nếu cô ấy phát hiện ra anh ta đã chết. Đừng hỏi em tại sao.”
Rồi họ bỏ lại cô ta và trở về với mối bận tâm của bản thân.
“Được rồi, chúng ta đã biết nhiều hơn một chút”, anh nói. “Chúng ta đã lấp đầy được thêm một khoảng thời gian trống nho nhỏ nữa. Họ đã tới buổi trình diễn ở Winter Garden, Hellzapopin, sau đó tới chỗ mà tại đó họ đã gặp rắc rối. Cái nơi tên là Piro... cô ấy nói là gì nhỉ?”
“Perroquet.” Cô biết quá rõ cuộc sống về đêm mà cô căm ghét ở thành phố này. “Em biết chỗ đó ở đâu, trên phố Năm Mươi Tư.”
“Nhưng điều đó vẫn chưa đưa ta đến tận thời điểm anh ta quay về đây và vụ giết người xảy ra. Vẫn còn một khoảng trống từ lúc anh ta chia tay cô bạn gái ở nhà cô này và...”
Cô đang nghĩ về điều đó.
“Có chuyện đã xảy ra ở đó. Một chuyện quan trọng. Điều quan trọng nhất chúng ta biết được cho tới giờ, trong cả tối nay. Anh ta chắc chắn đã nhận được một tờ giấy ghi lời nhắn, chắc chắn phải có một lời nhắn.” Cô lại gần bức ảnh hơn. “Bức ảnh này không giống khuôn mặt của một cô gái sẽ dựng đứng lên vì một chuyện như thế, chỉ bởi những suy nghĩ ghen tuông. Hãy nhìn cô ấy xem. Cô ấy quá xinh đẹp và tự tin để có thể nghĩ ra những chuyện như thế, chỉ để tự chuốc bực vào mình. Nếu cô ấy nói đã thấy nó, thì đúng là cô ấy đã thấy nó, anh có thể đặt cược vào chuyện đó. Đã có một lời nhắn. Vấn đề là chuyện gì đã xảy ra với tờ giấy đó? Giá như chúng ta biết được Graves đã làm gì với nó.”
“Xé vụn nó ra thành triệu mảnh, anh đoán vậy.”
“Không, vì nếu anh ta làm thế khi vẫn ở bên cạnh cô ấy, hành động này sẽ chẳng khác nào lời khẳng định rằng anh ta đã nhận được một lời nhắn, và anh ta không hề muốn cô ấy biết việc đó. Và sau khi đã chia tay cô gái thì lại không còn lý do gì để xé nó đi nữa, cô bạn gái đâu còn bên cạnh anh ta để đòi xem đâu. Xét theo diễn biến câu chuyện thì có thể anh ta đã để nguyên tờ giấy. Và nhiều khả năng anh ta đã làm thế. Điều em muốn biết là anh ta đã giấu nó ở đâu khi vẫn ngồi cạnh cô bạn gái trong câu lạc bộ? Anh ta hẳn đã cất nó ở đâu đó trên người.”
“Chúng ta đã lộn trái tất cả túi áo túi quần của anh ta ra, và nó không có trong bất cứ túi nào...”
Cô trầm ngâm gõ gõ ngón tay lên vành môi dưới. “Hãy thử nghĩ thế này xem. Quinn, anh là một người đàn ông. Em hình dung là đàn ông các anh sẽ hành động tương đối giống nhau trong một tình huống cụ thể. Anh đang ở trong một hộp đêm cùng cô bạn gái đã đính hôn, và anh vừa nhận được một mẩu giấy ghi lời nhắn của một người lạ, một lời nhắn anh không muốn bạn gái mình trông thấy. Khi đó anh sẽ làm gì với nó, nhiều khả năng nhất là anh sẽ nhét nó vào đâu? Hãy trả lời thật nhanh, đừng dành nhiều thời gian ngẫm nghĩ. Nếu anh bắt đầu nghĩ về nó, việc suy nghĩ sẽ làm câu trả lời trở nên mất tự nhiên.”
“Anh sẽ cuộn nó lại rồi ném đi.”
“Không. Anh đang nhảy conga line khi tờ giấy được dúi cho anh, anh sẽ không có cơ hội để làm thế. Nếu anh bỏ tay khỏi hông bạn nhảy, nhiều khả năng anh sẽ lỡ nhịp và làm rối loạn đội hình.”
“Được rồi, có lẽ anh sẽ thả nó xuống sàn; không cần phải cử động tay quá nhiều, chỉ cần kệ nó rơi xuống thôi.”
“Lại không. Như thế tờ giấy sẽ bị những người đang nhảy giẫm bẹp, và vị hôn thê của anh chỉ cần cúi xuống nhặt nó lên khi cô ấy tới vị trí đó. Điều quan trọng nhất là cô ấy đã không hề thấy anh ta làm cả hai việc kể trên, và cô ấy đã quan sát anh ta từ khoảng cách hai người ở phía sau trong hàng... nghĩa là đủ gần để có thể quan sát chính xác. Anh ta nhận được tờ giấy, rồi nó biến mất, không có thêm dấu hiệu nào nữa, dù cho nó đã bị ném đi hay được nhét vào túi.”
“Vậy thì chắc là anh ta đã giữ nó trong lòng bàn tay.”
“Chính xác. Giờ là điều em đang cố đạt đến bằng cách kiểm tra anh. Hàng nhảy giải tán và anh ta đưa cô bạn gái quay lại bàn. Đó là lúc anh ta tống khứ nó vào chỗ nào đó, ngay khi đã có cái bàn ngăn cách giữa họ để che chắn. Giờ hãy thử lại. Anh đang ngồi tại bàn với cô ấy, và cô ấy bắt đầu lôi chuyện đó ra vặn hỏi, vì thế anh không thể chỉ thụ động tiếp tục trông chờ vào vận may được nữa. Anh được che chắn tới tận đây...” Cô vạch một đường phía trên thắt lưng của anh. “Tờ giấy vẫn nằm trong tay anh, từ chỗ nhảy điệu conga line, và anh phải tống khứ nó đi thật nhanh. Anh không thể dùng các túi áo, ví cũng không, hộp đựng thuốc lá cũng không, vì cô ấy sẽ thấy tất cả những chỗ đó, chúng đều nằm trên mép nước.”
“Anh sẽ ném nó xuống dưới bàn...”
“Không bao giờ. Một lần đọc là chưa đủ, nhất là trong hàng nhảy conga line, lúc anh phải di chuyển cả hai chân. Anh muốn xem lại tờ giấy, để ngẫm nghĩ kĩ hơn, hoặc để quyết định xem nên làm gì với nó khi anh chỉ có một mình và có thể làm việc đó một cách an toàn. Anh ta trở nên bồn chồn từ thời điểm đó, vừa nãy cô ấy đã nói với anh như vậy. Điều đó chứng tỏ lời nhắn đã khiến anh ta phải suy nghĩ, anh ta cần đưa ra một quyết định. Những thứ như thế không bao giờ bị vứt đi chỉ sau một lần liếc qua. Đó là một công việc chưa hoàn tất. Anh ta giữ nó lại. Nhưng là ở đâu?”
“Có thể anh ta đã nhét nó dưới cái khăn trải bàn ở chỗ mình.”
Cô dừng lại, sững sờ trong thoáng chốc. Rồi cuối cùng cô nói, “Không. Không, em không nghĩ anh ta đã làm thế. Như thế có nghĩa là để nó ở lại đó khi họ ra về. Cũng có nghĩa là một người lạ nào đó có thể sẽ nhặt được nó. Khả năng anh ta làm thế còn thấp hơn cả khả năng anh ta ném tờ giấy đi. Và em không nghĩ anh ta có thể làm vậy mà không bị cô gái kia để ý thấy khăn trải bàn đã bị bàn tay anh ta làm xô lệch đi. Hãy nhớ rằng anh ta đang cố làm hạ hỏa một cô gái đang nổi điên và có lý do chính đáng để nổi điên, một cô gái đang ngồi đối diện với anh ta, và họ có sáu con mắt và chừng một tá giác quan khác.”
Anh đang cố, nhưng không thể làm sáng tỏ được nhiều. “À, anh không... anh có lẽ gần hết chỗ để giấu rồi. Có thể anh đã ngồi lên nó trong lúc vẫn ngồi ở ghế, nhưng nếu vậy thì ngay khi đứng dậy anh sẽ lâm vào tình thế còn tồi tệ hơn.”
“Đừng bận tâm, Quinn.” Cô chán nản lắc đầu. “Anh sẽ trở thành người chồng trung thực của một người phụ nữ nào đó. Rõ ràng anh chẳng có chút mưu mô nào.”
“À, anh chưa từng nhận được một tờ giấy ghi lời nhắn được một người dúi vào tay mình trong hộp đêm, ngay khi anh đang đi cùng một người khác”, anh ấp úng phân trần.
“Em sẵn lòng tin lời anh về chuyện đó.” Cô lạnh lùng tán thành.
Họ lại quay vào trong. Cô đứng im, nhìn xuống cái xác. Với cô, dường như đó là tất cả những gì họ đã làm suốt buổi tối, nhìn xuống cái xác.
“Hãy thử tìm trong cái túi nhỏ đựng đồng hồ hay túi gì như các anh vẫn gọi ấy, ở đằng trước ngay dưới thắt lưng. Lúc trước chúng ta đã lộn trái cái túi đó ra chưa nhỉ? Em không nhớ nổi nữa.”
Anh quỳ gối xuống, móc ngón tay cái vào trong, lộn trái nó ra.
“Trống không.”
“Mà cái túi đó rốt cuộc có tác dụng gì vậy?” Cô lơ mơ hỏi. Rồi trước khi anh kịp trả lời, “Đừng bận tâm. Giờ đâu phải lúc để tìm hiểu về chức năng của trang phục nam giới.”
Anh vẫn ở nguyên tư thế cũ, lom khom, các ngón tay do dự đặt trên đầu gối.
“Quinn, em có thể đề nghị anh... Anh có thể lật anh ta lại một phút không?” Cô ngập ngừng hỏi.
“Lật úp lại hả? Em nghĩ chúng ta thực sự phải quấy rầy...?”
“Chúng ta đã làm quá nhiều thứ rồi, lục lọi các túi quần túi áo rồi những việc khác, thế nên em không thấy việc này có vấn đề gì.”
Anh lật cái xác úp mặt xuống, nhẹ nhàng hết mức có thể. Một cảm giác ghê tởm bất giác lướt qua trong tâm trí hai người, rồi nhanh chóng bị kìm xuống.
“Em muốn làm thế này để làm gì?” Anh hỏi, nhăn mặt về phía cô.
“Chính em cũng không biết nữa.” Cô khổ sở nói.
Anh lại đứng lên. Họ nhìn nhau lúng túng; mất phương hướng, không biết phải làm gì tiếp theo.
“Tờ giấy không có trên người anh ta, chắc chắn là thế. Có thể anh ta đã cất nó ở chỗ nào đó quanh đây, sau khi về nhà. Bàn làm việc... chúng ta vẫn chưa kiểm tra nó.”
“Việc đó sẽ mất cả đêm.” Cô nói trong lúc bước đến chỗ cái bàn. “Hãy nhìn đống bừa bộn trên đó mà xem. Em nghĩ rằng anh nên vào phòng ngủ và kiểm tra các ngăn kéo, còn em sẽ tìm nhanh ở đây.”
Tích tắc, tích tắc, tích tắc... Trong sự tĩnh lặng khi hai người bận rộn với phần trách nhiệm của riêng mình, tiếng đồng hồ vang lên như lớn gấp bội.
“Quinn!” Đột nhiên cô gọi.
Anh hối hả lao vụt ra.
“Ý em là nó nằm ở đây à? Em tìm ra nhanh vậy sao?”
Vậy nhưng, cô lại đang đứng quay lưng vào cái bàn làm việc.
“Không, Quinn, anh ta mặc rất chỉn chu. Em vừa quay lại và có một thứ đập vào mắt em. Một bên tất của anh ta có một lỗ thủng, cái lỗ ở ngay trên chiếc giày. Cái đó không khớp với cách ăn mặc của anh ta. Tất bên trái ấy, Quinn.” Anh đã đến bên cạnh nó.
Chiếc giày rơi xuống với một tiếng thịch khẽ. Cái “lỗ” đã biến mất cùng với nó.
“Tờ giấy ghi lời nhắn.” Anh nói.
Anh vuốt nó phẳng phiu và bắt đầu đọc mảnh giấy nhỏ nhàu nhĩ khi cô bước đến bên cạnh. Hai người cùng nhau đọc nốt phần còn lại.
Lời nhắn được viết vội nguệch ngoạc bằng bút chì, trong khi tờ giấy được để trên một bề mặt tạm thời không bằng phẳng; một lời nhắn được viết ở nơi không sẵn có điều kiện thích hợp cho việc viết.
Hẳn ông là Graves? Tôi muốn nói chuyện riêng với ông, tại nhà ông, sau khi ông đưa quý cô trẻ tuổi kia về nhà. Và tôi không có ý nói vào một thời gian nào khác, ý tôi là ngay tối nay. Ông không biết tôi, nhưng tôi cảm thấy mình giống như một thành viên trong gia đình. Tôi không muốn bị thất vọng và không tìm thấy ông ở đó.
Không ký tên.
Cô hào hứng hẳn. “Cô ta đã tới đây, anh thấy chưa? Cô ta đã tới! Đúng là cô ta đã ở trên này. Cô ta chính là người phụ nữ có vỉ diêm... Chúng ta đã đúng về việc đó. Em đã quên mất ai trong chúng ta...”
Anh ít lạc quan hơn, vì một lý do. “Nhưng việc anh ta nhận được lời nhắn và nhét nó vào giày của mình không chứng tỏ được là cô ta đã tới đây.”
“Cô ta đã ở đây, anh có thể tin chắc điều đó.”
“Làm cách nào chúng ta biết được?”
“Nghe này, bất cứ ai đã đi xa tới mức này sẽ đi nốt đoạn đường còn lại, anh đừng cố lừa chính mình nữa. Đây không phải là một cô nàng rụt rè. Một cô gái hay một người phụ nữ có thể viết ra một lời nhắn đầy thách thức như thế, ngang nhiên chen vào điệu conga line để dúi nó vào tay một người đàn ông có địa vị xã hội như Stephen Graves, ngay trước mũi cô gái mà anh ta đã đính hôn, trong khi thậm chí còn chẳng quen biết anh ta; cô ta sẽ không đời nào để bất cứ điều gì ngăn cản mình tới đây, một khi cô ta đã quyết định như thế! Anh đọc mà xem, ‘Và tôi không có ý nói một thời gian nào khác, ý tôi là ngay tối nay’. Người phụ nữ đó đã ở đây, anh có thể cược đồng đô la cuối cùng cho việc đó!”
Rồi cô nói thêm, “Và nếu việc đọc chữ đoán tính cách không khiến anh cảm thấy chắc chắn, hãy thử bịt mắt lại xem. Cách đó chắc chắn sẽ được.”
“Ý em là sao?”
“Cô ta mang theo thứ nước hoa tỏa ra từ vỉ diêm, và cũng là thứ em đã ngửi thấy trong phòng này khi chúng ta bước vào đây lần đầu tiên. Kiểu quý cô có thể viết một lời nhắn thế này cũng sẽ là kiểu mà túi xách sẽ sặc mùi nước hoa như thế. Cô ta đã ở đây.” Cô nhắc lại.
“Nhưng điều đó cũng không đồng nghĩa với việc cô ta đã bắn Graves. Cô ta có thể đã ở đây, và rời đi, rồi gã nhai xì gà xuất hiện sau khi cô ta về.”
“Em không biết gì về gã đó. Song em biết rõ là ngay trong lời nhắn này đã thừa đủ nguyên do để nổ súng rồi, thậm chí là từ trước khi cô ta tiếp cận Graves một cách trực diện.”
“Đúng là có một chút đe dọa trong đó.” Anh thừa nhận.
“Một chút thôi á? Cả lời nhắn đó đều ngập tràn sự đe dọa, từ đầu đến cuối. ‘Hẳn ông là Graves?’, ‘Tôi không muốn bị thất vọng và không tìm thấy ông’.”
Anh đang đọc lại nó. “Em có nghĩ đây là một vụ tống tiền không?”
“Chắc chắn đây là một vụ tống tiền. Một lời đe dọa luôn có nghĩa là moi tiền, nhất là khi nó do một người phụ nữ gửi cho một người đàn ông.”
“ ‘Tôi cảm thấy mình như một thành viên trong gia đình rồi’. Ý cô ta muốn nói gì đây? Graves đã đính hôn với cô Barbara. Điều đó khiến chuyện này có vẻ đây là cô nàng mà anh ta đã dan díu trước đó, và khi cô ta biết chuyện Graves đính hôn... Tất cả, ngoại trừ...”
“Phải, em cũng đã nghĩ tới điều đó rồi, khi lần đầu đọc qua lời nhắn. Tất cả ngoại trừ một điều, như anh vừa nói.”
“ ‘Ông không biết tôi’. Làm sao một anh chàng có thế dan díu với một cô nàng nào đó mà vẫn không biết cô ta chứ? Trừ khi cô ta ra mặt hộ một quý bà nào đó đế tiếp cận Graves. Cô ta là, người ta gọi thế nào nhỉ... người trung gian chăng? Có thể là một người chị em gái, hay đại loại thế.”
Cô lập tức loại bỏ suy nghĩ này. “Không, không bao giờ. Về điều đó thì không, nếu anh biết nhiều hơn về phụ nữ... Anh sẽ không bao giờ tìm thấy một người phụ nữ dùng một người phụ nữ khác làm trung gian trong một vụ tống tiền bắt nguồn từ chuyện yêu đương. Đừng hỏi em tại sao, nhưng điều đó là chắc chắn. Một người đàn ông có thể làm vậy, trong làm ăn hay một mưu mô thủ đoạn nào đó. Nhưng một người phụ nữ thì không bao giờ, trong bất cứ chuyện gì. Hoặc cô ta sẽ tự mình làm phần việc bẩn thỉu, hoặc nó sẽ không được làm.”
“Vậy là anh ta đã không dan díu với cô ả này. Nhưng dẫu vậy cô ta vẫn nắm thóp được điều gì đó ở Graves.”
“Và Graves biết cô ta có thứ nắm thóp được mình, hay ít nhất cũng cảm thấy như vậy. Cách anh ta hành động sau khi nhận được lời nhắn đã cho thấy điều đó. Anh ta đã gặp kẻ viết lời nhắn ngay tại đó, tại địa bàn của cô ta. Anh có hiểu em muốn nói gì không? Barbara đã ghen vì một kiểu lời nhắn khác, và cô ấy nghĩ tờ giấy này là kiểu lời nhắn như thế. Một lời nhắn thân mật, quá thân mật, từ một người mà anh ta quen biết; cô ấy nghĩ anh ta đang tán tỉnh người khác sau lưng mình. Tất cả những gì anh ta cần làm để khiến cô ấy dịu xuống là cho Barbara xem tờ giấy này, cho cô ấy biết lời nhắn thực sự là gì. Nhưng anh ta thà giữ nó lại cho riêng mình, ngay cả với cái giá phải trả là khiến cô bạn gái phát hiện ra nó và chia tay cô này trong cảnh bất hòa. Tại sao anh ta lại không muốn cho cô ấy xem? Hay đúng hơn là, tại sao anh ta không đứng dậy ngay lúc đó, đi thẳng tới chỗ cô ả kia hỏi cho ra lẽ trước khi cô ta rời hộp đêm. ‘Cô có ý gì với lời nhắn này? Cô là ai? Cô có mục đích gì? Nói thẳng điều cô muốn xem nào.’ ” Cô lắc đầu. “Anh ta hẳn phải biết rõ đằng sau lời nhắn là chuyện cần được giải quyết một cách tế nhị, và anh không thể bảo em nghĩ khác đi được. Rằng cô ả ít nhất đã đặt một chân vào cuộc, nếu không phải là cả hai; rằng đằng sau đám khói chắc chắn phải có lửa ở đâu đó. Anh ta đã làm theo ý cô ả, xử sự một cách mềm mỏng. Tại sao anh ta lại phải làm thế? Người ta không thường làm như vậy. Liệu anh...?” Rồi cô vội dừng lời. “Ồ, đừng bận tâm; dù sao thì anh cũng không thể rơi vào mấy vụ kiểu này được đâu. Em quên mất điều đó, em đã biết trước rồi mà.”
Anh đã chuẩn bị sẵn sàng để được tán thưởng; nhưng rồi đành thu vẻ mặt đó lại.
“Nói cách khác”, cô nói tiếp, “lời nhắn đó đã đánh thức điều gì đó tận sâu trong tâm thức khi anh ta nhận được nó. Đó không chỉ là một lời đe dọa vu vơ từ trên trời rơi xuống.”
Cô trở nên phấn chấn trở lại, như thể sẵn sàng ra ngoài đó lần nữa. “Giờ thì chẳng còn gì để làm ở đây nữa. Điều quan trọng là bây giờ chúng ta đã xác định được cô ta. Em gần như chắc chắn rằng chúng ta đã xác định được. Và em sẽ ra ngoài tìm cô ta.”
“Nhưng chúng ta vẫn chưa biết tên cô ta, chưa biết cô ta trông thế nào hay cô ta đang ở đâu.”
“Chúng ta không thể trông đợi những bức ảnh chụp bằng kích thước thực được đưa cho chúng ta. Em nghĩ chúng ta sẽ làm tốt với những gì đã có, bắt đầu từ đầu như cách chúng ta đã làm. Ít nhất bây giờ cô ả đã trở thành một người rõ ràng, cô ta có thực, thay vì chỉ là một bóng ma mơ hồ, chỉ là chút mùi nước hoa thoang thoảng sắp tan biến trong một căn phòng. Chúng ta biết cô ta đã có mặt tại Perroquet vào khoảng nửa đêm; hẳn là phải có người thấy cô ta tại đó. Cô bạn gái của Graves đã nói với anh ít nhiều về cô ta. Là gì nhỉ? Một cô nàng tóc đỏ, cao ráo, mặc váy màu lục sáng. Đứng ở vị trí thứ ba trong hàng nhảy conga line. Ở đó tối nay không thể có chuyện tất cả các cô nàng đều tóc đỏ và mặc váy màu lục sáng được.” Cô vung rộng hai tay đầy phấn chấn để động viên anh về triển vọng của cuộc tìm kiếm. “Hãy nhìn xem chúng ta đã có những gì này!”
“Lúc này thì chỗ đó đã đóng cửa rồi.”
“Những người có thể trông cậy, những người có thể thực sự giúp chúng ta, họ vẫn còn ở đó. Những người bồi bàn, những cô gái phụ trách phòng gửi áo khoác, những người phục vụ ở phòng vệ sinh; tất cả những người đó. Em sẽ lần theo dấu vết của cô ta từ đó, dù cho em có phải kiểm tra từng chiếc lược trong phòng thay đồ để tìm những sợi tóc đỏ vương lại...”
“Anh sẽ đi với em.” Anh bước tới cửa phòng ngủ, tắt đèn, rồi đi tới phòng tắm. “Đợi một phút thôi”, anh nói, “anh muốn uống chút nước trước khi đi.”
Cô ra ngoài cầu thang mà không đợi thêm. Cô nghĩ anh sẽ đi theo ngay sau cô. Thế rồi vì anh không xuất hiện, cô dừng lại và đợi, cách đầu cầu thang hai, ba bậc. Sau đó, vì anh vẫn không tới, cô quay lại và đi lên hai, ba bậc thang, một lần nữa bước vào căn phòng đang sáng đèn.
Cô có thể thấy anh đang đứng đó, bất động, ngay bên ngưỡng cửa phòng tắm. Thậm chí từ trước khi cô tới bên cạnh anh, cô biết là anh đã tìm thấy, đã nhìn thấy gì đó, qua bộ dạng im phăng phắc tập trung cao độ của anh.
“Cái gì vậy?”
“Anh gọi em và em đã không nghe thấy. Cái này nằm trong bồn tắm. Tấm rèm che dùng khi tắm vòi hoa sen hẳn đã che khuất nó, khiến chúng ta không nhìn thấy cho tới tận lúc này. Khi anh vào lấy nước uống, khuỷu tay anh đã chạm vào tấm rèm, gạt nó lui vào xa hơn lúc trước. Và nó nằm đó, dưới đáy bồn tắm khô cong.”
Thứ này có màu xanh lơ sáng, và anh đang căng nó ra bằng cả hai bàn tay.
“Một tấm séc.” Cô nói. “Một tấm séc cá nhân của ai đó. Để em xem nào...”
Tấm séc được viết cho Stephen Graves, số tiền mười hai nghìn năm trăm đô la. Nó được chứng thực bởi Stephen Graves. Ký séc là Arthur Holmes. Trên tấm séc có đóng dấu chéo qua mặt trước mang dòng chữ: Bị trả lại – Không có tiền.
Hai người nhìn nhau lúng túng trong khi quan sát tấm séc; lúc này cô đang cầm một đầu của nó, còn anh cầm đầu còn lại. “Làm thế nào thứ này lại rơi xuống đáy bồn tắm được nhỉ?” Cô băn khoăn.
“Đó là phần ít quan trọng nhất. Chuyện này cũng dễ hình dung thôi. Hẳn là ban đầu tẩm séc này nằm trong ngăn đựng tiền trong két. Cái lỗ anh đục ở ngay trên đáy bồn tắm, theo đường thẳng. Khi anh kéo ngăn đựng tiền ra, hẳn tấm séc đã trượt ra ngoài và rơi xuống bồn tắm mà anh không để ý. Rồi sau đó tấm rèm đã che khuất nó khỏi tầm mắt anh, cho đến tận vừa nãy. Nhưng đó không phải là điều đáng lưu tâm. Em không thấy tấm séc này nghĩa là gì sao?”
“Em nghĩ là em hiểu. Rất có khả năng Holmes chính là gã nhai xì gà bồn chồn kích động đó, anh có nghĩ vậy không?”
“Anh dám cược là thế. Đây quả là một cái cớ đủ để giết người... Mười hai nghìn năm trăm... Ồ... Ồ!”
“Vậy thì có thể gã Holmes này đã tới đây tối nay, hoặc để thanh toán dứt khoát món tiền ngay lúc đó và ngay tại đây, hoặc để yêu cầu anh ta không truy cứu cho tới khi hắn kiếm được đủ tiền để hoàn trả trong tương lai gần. Và bởi vì Graves không thể tìm ra tấm séc, Holmes đã nghĩ rằng anh ta đang tìm cách nói dối. Họ đã cãi nhau, và Holmes đã bắn anh ta.”
“Vậy là, một cách gián tiếp, anh vẫn có trách nhiệm về cái chết của anh ta...”
“Quên chuyện đó đi. Holmes không nhất thiết phải giết anh ta, dù hắn có nghĩ rằng anh ta đang giấu tấm séc không đưa cho hắn. Holmes.” Cô trầm ngâm nói, đưa một ngón tay đang gập lại lên miệng. “Em đã nghe thấy hay nhìn thấy cái họ này ở đâu đó trong tối nay rồi. Đợi một chút, chẳng phải trong ví của anh ta có vài tấm danh thiếp sao? Em nghĩ là cái họ này được in trên đó.”
Cô đi sang phòng bên cạnh và lại quỳ gối xuống sàn. Cô lấy cái ví ra, lật qua hai, ba tấm danh thiếp. Cô ngước lên nhìn anh, gật đầu. “Chắc chắn rồi, em đã bảo mà. Holmes là người môi giới của anh ta. Tấm danh thiếp ở ngay đây.”
Anh tới bên cạnh cô, tay vẫn cầm tấm séc. “Tức cười thật. Anh không biết nhiều về mấy chuyện này, nhưng chẳng phải khách hàng thường hay viết séc cho người môi giới chứ không phải ngược lại hay sao? Và lại còn là một tấm séc không thanh toán được như thế này nữa.”
“Đó có thể là lý do của chuyện này. Biết đâu Holmes đã biển thủ một số cổ phiếu hắn đang nắm giữ, hoặc quản lý cho Graves, thế rồi Graves yêu cầu thanh toán sớm hơn dự kiến, vậy là hắn tìm cách hoãn binh bằng việc viết ra một tấm séc vô giá trị. Khi tấm séc bị gửi trả lại, Graves đe dọa sẽ tố giác hắn...”
“Có địa chỉ nào trên danh thiếp không?”
“Không, chỉ có tên công ty môi giới ở góc.”
“À, anh có thể đến tìm hắn.” Anh kéo thắt lưng lên. “Anh đi đây”, anh quả quyết nói. “Đi nào, em có thể tới chỗ bến xe bus và đợi anh ở đó...” Rồi, khi anh thấy rằng cô không cử động chút nào. “Bây giờ em đồng ý với anh rằng kẻ đó là Holmes rồi chứ?”
“Không.” Cô nói trước sự ngạc nhiên của anh. “Không, em không nghĩ thế. Kỳ thực, nếu có suy nghĩ nào đó, thì em vẫn nghĩ thủ phạm là cô ả tham gia nhảy conga line.”
Anh vung vẩy tấm séc về phía cô. “Nhưng vì sao, khi chúng ta vừa tìm thấy thứ này?”
“Vì vài điều nhỏ nhặt mà anh sẽ không để tâm tới. Trước hết, nếu Holmes thực sự đã giết anh ta, thì lý do hẳn là để che đậy tấm séc này, phải vậy không? Nếu thế hắn sẽ không bao giờ rời khỏi đây mà không có nó. Một khi đã đi xa tới mức giết Graves vì nó, chắc chắn hắn sẽ tìm kiếm tấm séc cho tới khi tìm ra, bởi hắn biết nó sẽ chỉ thẳng tới mình khi nó được tìm thấy. Đúng như điều đang xảy ra lúc này.”
“Giả sử hắn đã tìm nó nhưng không ra thì sao?”
“Anh đã tìm ra nó”, là câu trả lời của cô. “Và còn một điều nữa khiến em nghĩ chính người phụ nữ đã có mặt ở đây sau cùng... Em biết anh sẽ cười trước chi tiết này, nhưng... Graves đang mặc áo khoác trên người khi anh ta chết.&rd