← Quay lại trang sách

- 10 - 4 giờ 19 phút

Đáng ra lần này sẽ phải dễ dàng hơn, song anh cảm thấy ngờ vực về việc cuộc tìm kiếm sẽ diễn ra như thế. Lần này anh có một cái tên và một công việc... Tất cả những gì anh phải làm là khớp chúng lại để tìm ra một địa điểm. Lần trước, anh chỉ có trong tay một cái khuy áo vỡ và một đặc điểm – thuận tay trái – và thậm chí anh còn không chắc về điều đó. Khi nghĩ tới lòng dũng cảm mà anh đã phải trông đợi vào để đạt được một kết quả nào đó vào lần trước... Phải, không lạ khi cuộc tìm kiếm đó đã công cốc. Nhưng rồi khi nghĩ đến chuyện lần này anh có ít thời gian tới mức nào, nó gần như đã khiến cuộc tìm kiếm thứ hai trở nên vô vọng tương tự.

Có ba cái tên như thế trong danh bạ điện thoại. Đó là việc đầu tiên anh làm. Song điều đó chẳng có ý nghĩa gì. Mới chỉ là một khu, Manhattan. Như thế nghĩa là vẫn còn Brooklyn, Queens, Bronx, Staten Island. Như thế nghĩa là còn khu vực đất liền, tới tận Croton, có khi còn xa hơn nữa, có Chúa mới biết tới tận đâu. Như thế nghĩa là vẫn còn Long Island, tới tận Port Washington. Và đây là một tay môi giới... anh không biết nhiều lắm về bọn họ, nhưng anh nghĩ về họ như những người chủ yếu sống ở bên ngoài, trên vành đai ngoại ô, anh cũng không biết tại sao nữa.

Một địa chỉ tọa lạc trên phố Mười Chín, một trên phố Sáu Mươi, cái còn lại nằm trên một con phố có cái tên anh chưa từng nghe trước đây. Anh gọi đến những nơi này theo thứ tự trong danh bạ.

Chuông điện thoại đổ mãi không ngừng, và anh vẫn không gác ống nghe. Chẳng ai hối hả trả lời một cuộc điện thoại vào cái giờ trái khoáy thế này cả.

Cuối cùng cũng có tiếng nhấc máy và một giọng nữ ngái ngủ vang lên. Đây là phố Mười Chín.

“... ái... ì... ế?” Giọng nói gắt gỏng.

“Tôi muốn nói chuyện với Holmes, Arthur Holmes.”

“Ồ, thế hả?” Giọng nói vang lên khó chịu. “À, ông hơi chậm một chút rồi. Ông đã lỡ mất ông ta chừng hai mươi phút.”

Người phụ nữ sắp sửa gác máy, anh dám chắc như vậy từ câu trả lời cáu bẳn, gay gắt và cộc cằn này.

“Bà có thể cho tôi biết tôi có thể tìm gặp ông ấy ở đâu không?” Anh thiếu chút nữa nuốt phải lưỡi khi cố nói đủ nhanh, trước khi người phụ nữ kịp gác máy.

“Ông ta ở đồn cảnh sát. Ông có thể đến đó mà tìm. Ông gọi đến đây để làm gì chứ?”

Hắn đã đầu thú. Hắn đã tình nguyện tới đó... Có khi mọi chuyện đã kết thúc rồi. Có khi tất cả chuyện này đều không cần thiết; có khi họ đã tự giày vò bản thân cả nửa buổi tối dài tựa cuộc đời mà chẳng để...

Nhưng anh cần phải biết. Làm cách nào anh biết được đây? Có khi ngay cả người phụ nữ này cũng không biết. Bà ta nghe không có vẻ gì là... Bà ta nghe có vẻ như một người giúp việc hay quản gia ở đó.

“Ông ấy... ông ấy là một người môi giới phải không? Một người môi giới chứng khoán... Bà biết đấy, thị trường...”

“Hở! Ông ta ấy à?” Trong câu hỏi là cả mười lăm năm bất bình bị dồn nén. Cả một đời oán hận chất chồng được gói ghém vào một câu nói. Thậm chí cả ống nghe của anh hẳn cũng đã mềm ra dưới sức nóng rừng rực của nó và từ từ chảy thành một thứ nhũ thạch mềm nhũn. “Hẳn ông ta cũng thích được thế lắm. Ông ta là viên thượng sĩ ngồi bàn giấy ở đồn cảnh sát số Mười, trên phố Hai Mươi, ông ta sẽ mãi mãi chỉ là như thế, và đó là tất cả những gì ông ta có đủ trí khôn để trở thành, và ông có thể nói luôn với ông ta rằng tôi đã nói như thế! Bảo ông ta rằng hãy thôi vác cái mồm béo phệ dối trá đi toe toe khắp nơi, ở mọi quán bia ông ta lê chân vào chỉ để xoáy lấy vài vại bia bẩn thỉu đi. Lần thì ông ta là vệ sĩ riêng của thống đốc, lần khác thì làm cho cơ quan mật vụ, giờ thì lại là môi giới chứng khoán. Tôi phát ốm vì đủ loại những kẻ say khướt gọi tới đánh thức tôi dậy vào bất cứ giờ nào trong đêm...”

Anh gác máy bằng một cú dằn mạnh bực bội.

Một người. Anh không muốn tới gần bất kỳ một người nào trong số họ hơn chút nào so với hiện tại, cách xa vài dặm ở đầu kia đường dây điện thoại. Anh thậm chí không muốn tiếp xúc gần ở mức như hiện tại với bất cứ ai trong số họ. Đó là lý do khiến anh đang làm tất cả việc này, tránh xa khỏi họ.

Anh mất một phút để giải quyết nó. Nhưng anh vẫn phải tiếp tục. Anh không muốn thử thêm lần nữa sau những gì vừa trải qua, nhưng anh buộc phải làm.

Phố Sáu Mươi.

Lần này thì không phải đợi. Ngay cả vào giờ này. Người được gọi hẳn đang ngồi ngay cạnh điện thoại, hoặc đang đợi chỉ cách đó vài bước.

Đó là một giọng nói trẻ trung. Nghe có vẻ khoảng hai mươi tuổi. Có thể là vẻ ngây thơ trong đó đem đến ấn tượng này. Một số giọng nói chẳng bao giờ trưởng thành lên. Giọng nói này vỡ ra với sự nóng ruột bị dồn nén thành sợ hãi. Như thể nó đang nghẹt thở. Như thể nó không thể chờ đợi được nữa, buộc phải giải tỏa ra.

Cuộc gọi do anh thực hiện, song người nhận ở đầu dây bên kia lại hết sức hoan nghênh nó. Như thể chỉ có thể có một cuộc gọi vào thời điểm này, và chắc chắn phải là cuộc gọi ấy. Nó nhấn chìm câu mào đầu của anh. Người ở đầu kia chỉ lắng nghe câu này một cách nửa vời, đủ để chắc chắn nó là từ một giọng nam giới, và chỉ cần thế, chỉ vậy là đủ.

Không hề có một quãng nghỉ lấy hơi nào trong dòng ngôn từ tuôn trào từ giọng nói ấy.

“Ôi, Bixy, em cứ nghĩ anh sẽ chẳng bao giờ gọi! Bixy, sao anh mất nhiều thời gian như thế mới gọi? Em đã khổ sở ở đây hàng tiếng đồng hồ rồi, em đã đóng gói mọi thứ và chờ đợi! Em đã cố gọi anh hai, ba lần và có chút lẫn lộn, họ dường như không biết em muốn gọi ai, thế có ngớ ngẩn không? Bixy, trong vài phút em đã lo đến phát điên, em không thể ngừng lại được.”

Giọng nói kia tự cười nhạo mình một cách thảm hại. “Tất cả đồ nữ trang của em và mọi thứ khác... Em có thể làm gì chứ? Chỉ sau đó em mới nghĩ đến chuyện ấy. Và em đã gửi điện tín cho anh ta rồi, ngay sau khi chia tay anh. Em biết anh đã bảo em đừng làm thế, nhưng dường như đó là việc đàng hoàng duy nhất em có thể làm. Vì vậy, bây giờ chúng ta cần làm và thực hiện nó...”

Dòng ngôn từ dừng lại. Giọng nói ở đầu kia đã biết. Anh không biết bằng cách nào, anh đã không nói dù chỉ một từ, nhưng đột nhiên giọng nói kia đã biết.

“Không phải...?”

Giọng nói lặng dần. Có thể không phải về mặt vật lý, nhưng đúng là nó đang ngừng bặt.

“Tôi xin lỗi đã chen vào. Tôi muốn... Tôi đang gọi cho Arthur Holmes.”

Lúc này giọng nói đã chết hẳn. Giọng nói chết lên tiếng, “Anh ta đang ở Canada, đi câu cá. Anh ta đi từ thứ Ba tuần trước. Ông có thể liên lạc với anh ta ở...”

“Từ thứ Ba tuần trước à? Vậy thôi bỏ đi.”

“Làm ơn dập máy đi. Tôi đang chờ một cuộc gọi.”

Anh gác máy.

Tiếp theo là địa chỉ trên con phố tên gì đó.

Cuối cùng nhân viên tổng đài nói, “Họ không nhấc máy.”

“Cứ tiếp tục thử đi.”

Cô ta liền tiếp tục.

Cuối cùng tín hiệu ngừng bặt. Anh nghĩ cô nhân viên tổng đài đã bỏ cuộc. Phải mất một phút anh mới hiểu ra. Cô ta không bỏ cuộc, mà là đầu dây bên kia đã nhấc máy; đầu dây bên kia đã thông, thế nhưng không hề có âm thanh nào chứng tỏ điều đó. Nếu không phải vậy mà là cô nhân viên tổng đài bỏ cuộc thì đồng nickel của anh đã rơi trở ra rồi. Ai đó đang nghe mà không nói sao? Ai đó đang có chút sợ hãi chăng?

Vậy là địa chỉ này bắt đầu đáng ngờ, dù chỉ với dấu hiệu này.

Không đầu dây nào lên tiếng. Anh đợi. Sẽ có một người hết kiên nhẫn trước. Và đó là anh.

“A lô”, anh khẽ nói.

Một tiếng hắng giọng vang lên ở đầu dây bên kia. “Vâng?” Một giọng nói dè dặt lên tiếng.

Khởi đầu tốt đấy, khởi đầu như một đầu mối thực sự. Anh vẫn sợ chưa dám hy vọng, anh đã bị thất vọng quá nhiều lần trước đó rồi.

Giọng nói là của đàn ông. Nó rất khẽ, và rất cảnh giác. Thậm chí cả tiếng “vâng” cũng đầy dè chừng.

“Có phải ông Arthur Holmes đấy không?”

Trước hết anh phải tóm chặt lấy người này; phải chắc chắn đó là ông ta, rồi giữ ông ta ở đó. Rồi một khi anh đã làm điều đó... Trước hết chính anh phải tỏ ra thoải mái đã.

“Ai đó?”

Người này không thừa nhận rằng ông ta là Arthur Holmes; Quinn cố bỏ qua điều này bằng cách coi như ông ta đúng là Holmes.

“À, ông Holmes, ông không biết tôi...”

Giọng nói không cắn câu. “Ai muốn nói chuyện với ông Holmes vậy?”

Anh thử lần nữa. “Cái tên này không quen với ông đâu, ông Holmes.”

Một lần nữa giọng nói ở đầu kia lẩn tránh. “Tôi không nói đây là Holmes. Tôi đã hỏi họ tên anh là gì. Trừ khi anh nói cho tôi biết anh là ai, tôi không thể cho anh biết liệu anh có thể nói chuyện với ông ấy hay không. Nhiều khả năng là anh không thể, nhất là vào giờ này. Giờ thì đừng làm mất thêm thời gian của tôi nữa, trừ khi anh nói cho tôi biết anh là ai và anh cần gì từ ông Holmes.”

Mấy từ “anh cần gì” chính là thứ anh chờ đợi. Nó cho anh một khe hở để lách vào.

“Được rồi.” Anh nói với vẻ ngoan ngoãn giả tạo. “Tôi sẽ cho ông biết. Tên của tôi là Quinn; tên của một người lạ. Một người mà ông Holmes không biết. Điều tôi muốn là... Tôi muốn trả lại một tấm séc thuộc về ông Holmes.”

“Cái gì?” Giọng nói vội hỏi. “Cái đó là sao?”

“Tôi nói là tôi có một tấm séc thuộc về ông Holmes. Nhưng tôi phải biết liệu tôi có tìm đúng ông Holmes hay không. Có phải đây là tư gia của ông Arthur Holmes, người có liên quan tới công ty môi giới chứng khoán Weatherby và Dodd không?”

“Phải”, giọng nói hối hả xác nhận, “phải, đúng rồi.”

“À, vậy thì bây giờ ông sẽ để tôi nói chuyện với ông ấy chứ?”

Giọng nói ở đầu kia do dự giây lát. Nó đã cắn câu. “Được.” Nó khẽ nói.

Anh đã thắng hiệp đầu. Anh đã khiến gã kia mắc câu. Từ giờ anh sẽ không phải lo lắng sợ để tuột mất gã nữa. Bây giờ tất cả những gì anh phải làm là kéo gã lại gần hơn.

Anh nhắc lại điều đã nói. “Tôi có một tấm séc thuộc về ông.” Anh để yên miếng mồi cho gã kia rỉa.

Giọng nói kia thận trọng thăm dò. “Tôi không hiểu. Nếu anh nói tôi không biết anh, làm thế nào anh có được nó chứ?” Rồi giọng nói dần tăng tốc. “Tôi e là anh đã nhầm.”

“Tôi đang cầm tấm séc đó ngay trên tay tôi đây, thưa ông Holmes.”

Giọng nói ở đầu kia lạc đi, chậm xuống. “Nó được viết cho ai?”

“Đợi một giây nhé.” Quinn ngừng lại một, hai giây vờ như đang xem kĩ tấm séc. “Stephen Graves.” Anh nói, với ngữ điệu cứng nhắc đi kèm những lúc đọc to thành tiếng, tương phản với cách nói ngẫu hứng. Anh đang diễn một cách có chủ ý; vào thời điểm này anh muốn thể hiện rằng việc mình sở hữu tấm séc hoàn toàn là tình cờ, chứ không phải đang nắm trong tay một điều gì nguy hiểm. Giữa họ vẫn còn quá nhiều khoảng cách.

Giọng nói ở đầu kia sững lại; như thể âm thanh đột nhiên tắc nghẽn lại trong cổ họng người nói. Giọng nói ấy không nói gì, song âm thanh mà nó tạo ra khi cố giải phóng những lời đó đã truyền qua đường dây.

Rõ ràng là hắn ta có tội, Quinn không thể ngăn suy nghĩ ấy lại. Rõ ràng là hắn ta có tội. Nếu hắn ta tự thú như thế này khi vẫn chưa lộ diện, thật khó tưởng tượng liệu...?

Thoáng sững lại trôi qua, giọng nói kia đột ngột cất lên. “Vớ vẩn, tôi chẳng viết tấm séc nào cho người có tên như thế cả. Nghe này, anh bạn, tôi không biết anh bạn đang toan tính chuyện gì, nhưng tôi khuyên anh bạn chớ nên...”

Quinn vẫn giữ âm điệu đều đều, vô cảm. “Nếu ông chịu khó so sánh nó với quyển séc của mình thì ông sẽ thấy tôi đang nói thật. Con số ở góc phải là 20. Nó là tấm séc thứ hai mươi trong quyển séc đó. Được viết để rút tiền tại ngân hàng Case National. Ghi ngày hai mươi tư tháng Tám. Và số tiền là mười hai ng...”

Nghe như thể kẻ ở đầu kia vừa vỡ tan tành. Thứ gì đó va đập phát ra âm thanh ngân vang, như thể ống nghe đã tuột khỏi tay, khiến hắn phải cầm nó lên.

Mình tóm được hắn rồi, Quinn thích thú. Ồ, lần này thì chắc chắn mình làm được rồi.

Anh có thể đợi. Điều anh phải làm từ thời điểm này trở đi là ứng biến, làm sao để các câu trả lời của anh khớp với tình huống khi chúng xuất hiện.

“Làm thế nào anh... Làm thế nào anh lại có một tấm séc như thế?”

“Tôi tìm thấy nó.” Quinn dửng dưng.

“Anh có thể... Anh có thể làm ơn nói cho tôi biết ở đâu không?”

Kẻ ở đầu kia đang hoảng sợ. Hắn chỉ thở một nhịp, gấp gáp. Rồi hắn quên mất việc thực hiện hai hay ba nhịp hô hấp đáng lẽ phải diễn ra kế tiếp. Sau đó hắn lại chỉ thở một nhịp nữa, gấp gáp. Quinn có thể nghe thấy toàn bộ quá trình này rõ mồn một, như thể anh đang đeo ống nghe y tế chứ không phải ống nghe điện thoại.

“Tôi tìm thấy nó trên băng ghế taxi. Có vẻ ai đó từng ngồi trong xe trước tôi đã mở ví ra và làm tấm séc rơi ra ngoài.” Cứ để hắn nghĩ đó là Graves.

“Có ai ở bên cạnh khi anh tìm thấy nó không?”

“Không ai cả. Tôi chỉ có một mình.”

Giọng nói ở đầu kia cố dùng vẻ hoài nghi như một biện pháp thăm dò để moi ra lời thừa nhận mà chủ nhân của nó tin là hiện hữu, chỉ là đang lẩn khuất dưới bề mặt. “Nào, đừng nói kiểu đó với tôi. Luôn có hai cái đầu trong những chuyện kiểu này. Thôi nào, ai đã ở đó cùng anh?”

“Không ai cả, tôi có thể khẳng định. Ông đã bao giờ nghe đến chuyện ai đó chỉ có một mình chưa? Chà, là tôi đó.”

Giọng nói ở đầu kia muốn nghe mấy lời này. Nó thích câu trả lời đó. Anh dám chắc là vậy.

“Anh đã cho ai xem tấm séc chưa? Anh đã nói chuyện với ai từ lúc tìm thấy tấm séc chưa?”

“Không ai cả.”

“Điều gì khiến anh nảy ra ý định gọi điện cho tôi lúc bốn giờ rưỡi sáng để nói về nó vậy?”

“Tôi nghĩ có thể ông sẽ muốn lấy lại nó.” Quinn nói để xoa dịu người đối thoại.

Giọng nói ở đầu kia cân nhắc câu trả lời nhận được.

Không phải chủ nhân của nó định qua mặt anh, mà hắn đang cố làm ra vẻ ngẫm nghĩ, đánh giá vấn đề. Như thể hắn có nhiều hơn một câu trả lời cho đề nghị mà anh đưa ra. “Trước hết để tôi hỏi anh một chuyện đã. Giả sử – chỉ là giả sử thôi nhé – tôi nói là tôi không muốn nhận lại tấm séc, nó không có chút giá trị nào với tôi, khi đó anh định làm gì? Vứt nó đi chăng?”

“Không.” Quinn nói với giọng đều đều. “Khi đó nhiều khả năng tôi sẽ giữ tấm séc lại và đi tìm người được thụ hưởng, Stephen Graves. Để xem tôi có thể tìm được nơi ông ta sống hay không.”

Câu trả lời ấy đã khiến hắn cắn câu, nếu cho đến lúc này chưa có điều gì anh nói làm được chuyện đó. Quinn gần như có thể nghe tiếng quả tim kẻ kia xoay vòng, bật lộn nhào; bật lên tới tận cổ họng hắn và phát ra tiếng động qua suốt cả đường dây.

Có gián đoạn tín hiệu; một người chen vào giữa họ. Nhân viên tổng đài nói, “Năm phút của ông đã hết. Làm ơn cho thêm một nickel nữa.” Cô ta đang nói Quinn.

Anh liếc nhìn xuống đồng xu đã cầm sẵn trên tay, phòng khi cuộc nói chuyện không thành công như nó đã xảy ra.

Anh giữ đồng xu lại một khoảnh khắc, cố moi thêm gì đó.

Giọng nói ở đầu kia hốt hoảng la lên. “Đợi một phút. Đừng ngắt liên lạc, dù có chuyện gì đi nữa!”

Quinn thả đồng xu vào máy. Tách một cái, rồi tín hiệu giữa họ lại thông suốt.

Mình sợ để tuột mất hắn ư? Quinn thầm nghĩ. Hắn mới là kẻ sợ tuột mất mình.

Giọng nói ở đầu kia đã được một phen hoảng hốt khổ sở. Nó quyết định không giả bộ nữa.

“À, được rồi, tôi... tôi muốn xem tấm séc anh đang giữ.” Nó đầu hàng vô điều kiện. “Nó chẳng có giá trị với bất cứ ai. Đó là một sự nhầm lẫn, và...”

Quinn giáng cho hắn một nhát búa bổ. “Nó bị ngân hàng trả lại.” Anh thản nhiên nói.

Giọng nói ở đầu kia nuốt ực lấy câu này; theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

“Cho phép tôi hỏi... Anh đã nói tên anh là Flynn?”

“Quinn. Nhưng cũng có gì khác nhau đâu.”

“Hãy cho tôi biết ít nhiều về anh. Anh là ai? Anh làm nghề gì?”

“Tôi không thấy những chuyện đó có liên quan gì đến tấm séc cả.”

Giọng nói kia lại thăm dò. “Anh kết hôn chưa? Anh có gia đình phải chăm lo không?”

Quinn dè dặt một chút, cân nhắc câu hỏi này. Hắn hỏi thế để làm gì? Để xem cần trả khoản tiền lớn chừng nào để bịt miệng anh chăng? Không, đằng sau câu hỏi đó dứt khoát phải có một mục đích ám muội hơn. Để thử dò hỏi xem liệu có ai nhận ra sự biến mất của anh không, nếu... nếu có chuyện gì đó xảy ra.

Anh có thể cảm thấy tóc sau gáy mình hơi dựng lên. “Tôi còn độc thân.” Anh nói. “Tôi sống một mình.”

“Thậm chí cả bạn cùng phòng cũng không sao?” Giọng nói kia hỏi đều đều.

“Chẳng có ai hết. Đúng kiểu sói cô độc.”

Giọng nói kia có vẻ đang ngẫm nghĩ những gì nghe được. Nó đánh hơi cái bẫy. Nó nhích lại gần hơn. Nó với tới miếng mồi nhử. Và miếng mồi, Quinn cảm thấy vậy, không còn là bản thân tấm séc nữa. Đó là tính mạng của anh.

“Xem nào, Quinn. Tôi muốn nhìn qua tấm séc và... biết đâu tôi có thể làm gì đó cho anh.”

“Cũng công bằng đấy.”

“Anh đang ở đâu?”

Anh tự hỏi liệu có nên nói cho hắn sự thật hay không. Anh nói với hắn. “Tôi đang ở phố Năm Mươi Chín. Ông biết tiệm ăn Baltimore trên phố Năm Mươi Chín chứ? Tôi đang gọi điện cho ông từ đó.”

“Tôi sẽ cho anh hay điều tôi sẽ làm. Anh cần cho tôi chút thời gian thay đồ... Anh biết đấy, tôi đang ngủ khi anh gọi điện. Tôi sẽ mặc đồ và ra khỏi nhà. Anh hãy tới... để xem nào...” Giọng nói ở đầu kia đang cố nghĩ ra điều gì đó. Nhưng nó không chỉ đơn thuần là lựa chọn một điểm hẹn cho hai người bọn họ. Quinn chờ đợi, để nó quyết định. “Nghe này. Anh hãy tới chỗ bùng binh Columbus. Anh biết đó, chỗ Broadway tách khỏi Đại lộ Tây Công viên Trung tâm, tạo thành một dãy nhà nhỏ hình tam giác hẹp. Ở đó có một tiệm cà phê tự phục vụ có hai lối vào, mở cửa suốt đêm. Anh vào trong đó và... Anh không sẵn tiền trong người, phải vậy không?”

“Không.”

“Được rồi, cứ vào đi; họ sẽ không làm phiền anh đâu. Cứ nói anh đang đợi một người. Hãy ngồi gần cửa sổ, gần sát bên cửa sổ phía Broadway. Tôi sẽ liên lạc với anh sau mười lăm phút nữa.”

Tại sao hắn lại muốn mình tới một nơi khác? Quinn thầm nghĩ. Tại sao không gặp luôn mình ở nơi mình đang có mặt đi? Có lẽ hắn sợ có gì đó được dàn xếp tại đây; sợ rằng anh đã bố trí ai đó khuất ngoài tầm mắt. Anh cũng để ý tới cách diễn đạt của hắn; hắn đã không nói “tôi sẽ gặp anh”, mà nói “tôi sẽ liên lạc với anh”. Hắn sẽ nhốt mình lại trước, nhốt thật chắc, trước khi tiếp cận mình, anh tự nhủ. Hắn muốn chơi khôn đây. Nhưng bất chấp hắn chơi khôn đến đâu đi nữa, điều đó cũng không cứu nổi hắn. Mình có tấm séc, và hắn phải lấy lại nó. Cho dù có phải mất cả đêm và dù ở giữa hắn và mình là cả New York.

Về phần mình, anh diễn vai ngớ ngẩn. Diễn vai ngớ ngẩn và không chút ngờ vực. “Được.” Anh nói.

“Sau mười lăm phút.” Giọng nói nhắc lại.

Cuộc nói chuyện kết thúc.

Quinn rời khỏi máy điện thoại. Anh đi vào buồng vệ sinh nam, đặt chân chống lên tường rồi cởi giày ra. Sau đó, anh lấy tấm séc ra, bọc một tờ giấy bên ngoài để bảo vệ nó, rồi đặt nó duỗi phẳng dưới lòng giày. Rồi anh xỏ giày lại. Anh bắt chước điều mà Graves đã làm với tờ giấy ghi lời nhắn anh ta nhận được ở hộp đêm.

Anh lại quay ra ngoài, và trên đường ra phố, anh dừng lại giây lát bên giá xếp khay ăn và dao dĩa.

Ở đây không có ai ngoài anh, và người phục vụ sau quầy hiện đang không quan sát. Anh nhặt một con dao mạ crom lên và lén lấy ngón tay thử lưỡi của nó. Mấy con dao ăn này chẳng có ích gì mấy; chúng khá cùn. Nhưng anh cần phải có gì đó, cho dù chỉ để lấy tinh thần hơn là để sử dụng. Anh gói nó vào một chiếc khăn ăn bằng giấy và nhẹ nhàng thả nó vào túi trong của áo khoác.

Anh đi bộ ngang qua công viên tới bùng binh Columbus, mất chừng mười hai trong số mười lăm phút anh đã được trao. Anh ngồi bên chiếc bàn kê sát bên cửa sổ phía Broadway và chờ đợi.

Người ta có thể nhìn thấu qua chỗ này. Chẳng hạn, từ phía Đại lộ Tây Công viên Trung tâm, nếu ta ở ngoài đó trong bóng tối, ở trên vỉa hè hoặc trong một chiếc xe đỗ sát lề đường, ta có thể nhìn qua cửa sổ, xuyên thấu toàn bộ chiều sâu không gian được chiếu sáng bên trong, tới chỗ anh đang ngồi, mà anh hoàn toàn không biết gì.

Quinn biết điều đó, biết rằng đó là lý do hắn chọn nơi này.

Anh liếc sang phía đó, tới bên đối diện vị trí của mình, một hay hai lần. Một lần, anh nghĩ mình đã thấy hình bóng đen sẫm, lờ mờ của một chiếc ô tô – chiếc xe vốn đậu im lìm cho tới khi mắt anh bắt gặp nó – và nó lập tức chầm chậm lăn bánh đi trong màn đêm. Nhưng đó có thể chỉ là một chiếc xe nào đó chạy qua hoàn toàn chính đáng, đang dừng trước đèn tín hiệu giao thông khi tới gần bùng binh.

Mười lăm phút trôi qua, rồi mười tám, rồi hai mươi.

Anh bắt đầu cảm thấy bất an. Có thể anh đã đánh giá sai; có thể hắn chỉ cần thời gian để chuồn. Có thể hắn sợ phải tới gần anh còn hơn cả sợ không lấy lại được tấm séc.

Chính là hắn, phải rồi, chính là hắn, và lúc này rất có thể mình đã làm hỏng việc, đã để tuột mất hắn lần nữa. Trán anh bắt đầu ướt đẫm, và cứ mỗi lần anh lau khô trán, nó lại ướt đẫm trở lại.

Điện thoại đột ngột đổ chuông ở chỗ bàn thu ngân. Anh ngoảnh lại nhìn, rồi lại nhìn đi chỗ khác.

Ai đó bắt đầu gõ lên kính. Anh lại ngoảnh lại, và người thu ngân đang ra hiệu cho anh.

Anh bước tới, và người thu ngân nói, “Có người trên đường dây muốn nói chuyện với một người đàn ông ngồi một mình cạnh cửa sổ. Nghe này, thường thì người ta không được nhận các cuộc gọi ở đây, tại bàn của tôi...” Dù vậy, anh ta vẫn chuyển ống nghe cho Quinn.

Là hắn. “Xin chào, Quinn phải không?”

“Phải, có chuyện gì với ông vậy?”

“Tôi đợi anh ở quán Owen’s. Tôi ngồi tại quầy bar ở đó. Nó nằm cuối phố Năm Mươi Mốt.”

“Làm thế là ý gì vậy? Đầu tiên ông bảo tôi đến đây. Ông đang định làm gì thế, cho tôi chạy lòng vòng chắc?”

“Tôi biết, nhưng... Anh hãy đến nơi tôi đang có mặt. Hãy gọi một chiếc taxi, tôi sẽ trả tiền khi anh tới.”

“Ông có chắc là lần này ông không bỡn tôi nữa không?”

“Tôi không bỡn. Tôi đã ở đây rồi, đang chờ anh.”

“Được, tôi sẽ xem liệu ông có ở đó hay không.”