- 14 - 6 giờ kém 15 phút
Đó là thứ cuối cùng mà cô nhìn thấy. Cô nhắm mắt lại, chờ đợi, như một tử tù đứng trước đội xử bắn.
Tiếng súng nổ làm đôi mắt cô bừng mở trở lại. Cô nghĩ đó là âm thanh lớn nhất mình từng nghe thấy. Còn lớn hơn cả vụ cháy nổ đinh tai nhất, lớn hơn cả một cái lốp xe nổ toác ngay trước mặt. Cô tự hỏi tại sao nó không làm cô bị đau nhiều hơn. Cô tự hỏi liệu có phải cái chết luôn như thế, chỉ là cảm giác choáng váng, điếc tai đó...
Griff đang loạng choạng lảo đảo ngay trước mặt cô, chỉ cách hai, ba bước chân. Hắn đã làm việc đó, hay là cô đã làm nhỉ? Hắn có quá nhiều cánh tay, quá nhiều chân, có quá nhiều hắn...
Khẩu súng vẫn tỏa ra các vệt khói sau phát đạn, đang lắc lư dữ dội, chĩa lên trần trong tay hắn. Một bàn tay khác đã tóm chặt lấy cổ tay hắn. Phần hõm khuỷu của một cánh tay khác đang chẹn quanh cổ hắn, khuỷu tay hướng về phía cô. Ở phía trên, khuôn mặt hắn méo mó, đỏ lựng bởi máu bị dồn lại. Và đằng sau, một khuôn mặt khác ló ra, cũng căng thẳng cực độ, cũng đỏ lựng vì máu dồn lên, nhưng vẫn đủ để có thể nhận ra khuôn mặt đó.
Chàng trai nhà bên đang chiến đấu vì cô. Chiến đấu vì cô... theo cách các chàng trai nhà bên phải làm.
Đột nhiên có một tiếng đổ sập xuống làm cả sàn nhà rung lên. Không còn Griff, không còn những cánh tay, những cái chân và cái đầu nhân đôi trước mặt cô nữa, không còn thứ gì nữa. Hai thân người lăn tròn trên sàn.
Joan Bristol từ trong góc phòng lao vụt qua bên cạnh cô, giơ cao quá đầu một thanh gác lò mà ả rút ra từ lò sưởi.
Hai tay Bricky đang bị trói; cô không thể với tới và tóm lấy ả. Nhưng nếu chàng trai nhà bên có thể tay không xông vào một khẩu súng thì cô cũng có thể xông tới một thanh gác lò mà không cần đến hai bàn tay.
Cô duỗi một bên chân ra, cho tới khi nó gần như áp sát xuống sàn, khéo léo lao chân vào giữa hai bàn chân đang chạy vùn vụt của Bristol.
Joan Bristol ngã sấp mặt xuống như bị ngã từ trên ngựa bập bênh, thanh gác lò văng đi quay tròn vô vọng trong không khí, rồi va rầm vào tường.
Bricky nhao người ập xuống đè lên cô ả trước khi cô ta kịp nhổm dậy, dùng cả hai đầu gối đè lên, ấn cô ta nằm bẹp xuống. Mỗi lần Bristol cố vùng ra và hất ngã cô, cô lại nâng một bên đầu gối lên rồi lấy hết sức nện xuống cô ta.
Cô không có thời gian để liếc sang chỗ hai người đàn ông. Một cánh tay đang vung lên đằng đó, đấm liên hồi vào một cái đầu như một cái chày. Hai lần, rồi ba lần. Đột nhiên họ tách ra làm hai, một người nằm ngay đơ. Một người nhổm dậy cầm theo khẩu súng.
“Anh đến giúp em ngay đây, Bricky.” Một giọng nói hổn hển khó nhọc vang lên.
Cô liền quay sang nhìn. Griff đang nằm úp mặt xuống sàn. Hắn cựa quậy một chút, đưa một bàn tay đờ đẫn áp bên cạnh đầu, nhưng vẫn nằm bẹp như cũ. Quinn đứng đó cảnh giác quan sát hắn. Anh giữ khẩu súng trong tay.
“Em không giữ được cô ta nữa...” Cô hổn hển.
Anh tới chỗ bàn làm việc của Graves, cầm thứ gì đó lên, rồi vòng ra sau cắt đứt sợi dây trói tay cô. Cả hai người đều đang thở lấy hơi quá gấp gáp để có thể nói được nhiều.
Anh dùng chính những sợi dây trói vừa được tháo khỏi người cô, buộc nối chúng lại rồi cột chặt quanh hai bàn tay Joan Bristol, sau khi đã bẻ quặt chúng sau lưng cô ta.
“Hãy làm thế với cả hắn nữa.” Cô ráng nói trong khi thở dốc.
“Tất nhiên rồi.” Anh đi vào phòng ngủ, quay trở lại với tấm ga lột từ giường của Graves, xé ra rồi bắt tay vào việc.
“Anh thấy bọn họ và em đi vào từ ngoài phố. Khi đó anh đang quan sát từ một cửa sổ trên tầng này. Có gì đó trong cách em bước đi giữa hai kẻ đó, một vẻ cứng nhắc thiếu tự nhiên, cho anh biết chúng đang chĩa súng vào em. Anh liền lui vào trong phòng tắm và nấp kĩ...”
“Chúng đã giết người, Quinn. Cuối cùng chúng ta đã tìm ra đúng thủ phạm.”
“Anh biết, không phải là Holmes. Thế đấy, anh đã thoát nạn vào phút chót, cho dù...” Anh đứng dậy, xem xét thành quả. “Dù sao thì cái đó cũng sẽ giữ được chúng ít nhất vài phút. Không cần bịt miệng; cứ để chúng thu hút sự chú ý. Thực ra chúng ta muốn chúng làm thế, chúng ta sẽ làm điều đó hộ chúng.”
“Quinn, điều đó thì có ích gì cho chúng ta vào lúc này nữa? Chúng ở kia, nhưng có khác gì chứ? Nhìn xem.” Cô chỉ tay. “Sáu giờ hai phút.”
“Dù sao chúng ta hãy cứ thử. Chúng ta hãy tới đó. Nếu không phải là chiếc xe ấy, có thể vẫn còn một chuyến nữa muộn hơn...”
“Vô ích thôi, Quinn. Chúng ta đã nói về việc này rồi. Chúng ta sẽ không đủ mạnh mẽ để lên chuyến xe muộn hơn đâu. Anh sẽ thấy. Bây giờ thành phố đã thức dậy rồi.”
“Cảnh sát cũng đã thức dậy. Chúng ta sẽ mắc kẹt nếu cứ đứng đây... Đi nào, Bricky, hãy cứ thử, cố lên!” Anh nắm tay cô, kéo cô ra khỏi căn phòng và xuống cầu thang.
“Hãy lấy va li của em. Mở cửa ra và đứng cạnh nó. Anh sẽ dùng điện thoại ở dưới này, chỉ mất một phút thôi.”
Anh nhấc ống nghe lên. “Sẵn sàng chưa?” Cô đang đứng đó ngoài tiền sảnh, tay xách va li, sẵn sàng để chạy trốn ngay lập tức. “Chuẩn bị nhé, sẵn sàng, anh làm đây.”
Anh nói vào điện thoại, “Nối máy cho tôi với cảnh sát.” Rồi anh bảo cô, “Giữ cửa mở cho anh.” Cô kéo cánh cửa vào trong và giữ nó mở rộng.
“A lô, cảnh sát phải không? Tôi muốn báo cáo một vụ án mạng. Tại...”, anh đọc số nhà, “phố Bảy Mươi Đông. Các vị sẽ tìm thấy Stephen Graves chết trên lầu hai trong nhà anh ta. Trong cùng căn phòng với anh ta, các vị sẽ tìm thấy hai tên sát nhân. Các vị sẽ tìm thấy chúng bị trói và đợi các vị, nếu các vị không mất quá nhiều thời gian để tới đó. Trên bàn làm việc, các vị sẽ tìm thấy một lá thư đảm bảo. Nó sẽ cho các vị biết lý do của vụ giết người. À, và còn một việc nữa... các vị sẽ tìm thấy khẩu súng mà thủ phạm đã dùng để gây án, ở dưới nhà, ngoài tiền sảnh, dưới tấm thảm chùi chân ngoài cửa, chờ sẵn các vị. Hả? Không, đây không phải chuyện đùa. Tôi ước gì là vậy. Tôi hả? Ồ, chỉ là... chỉ là một người tình cờ đi qua.”
Anh buông ống nghe xuống và chẳng buồn bận tâm treo nó lên.
“Đi!” Anh hô lên và hối hả lao theo cô.
Anh cúi xuống trong tích tắc, nhét khẩu súng dưới tấm thảm chùi chân ngoài cửa, rồi lao ra ngoài, chạy xuống các bậc cấp theo cô.
“Xe của chúng!” Cô ngoái lại nói, vừa dẫn đường vừa chỉ tay. “Hắn đã để lại chìa khóa trong xe.”
Anh chui vào xe sau cô và lái nó rời khỏi lề đường. Họ chỉ vừa kịp rẽ vào góc phố thì đã nghe thấy tiếng còi hú ai oán của một chiếc xe tuần cảnh có trang bị radio đang tới gần, vẫn chưa xuất hiện trong tầm mắt, phóng đến từ hướng đối diện.
“Ái chà, họ nhanh thật.” Anh nói. “Nếu chúng ta đi bộ thì chắc giờ họ đã tóm được chúng ta rồi.”
Họ lao vùn vụt xuống đại lộ Madison, gần như vắng bóng xe cộ vào giờ đó. Hai lần Quinn đánh liều phóng qua đèn đỏ với tốc độ giảm xuống đôi chút nhưng không dừng xe lại.
“Chúng ta sẽ không bao giờ kịp đâu, Quinn.” Cô la lên át qua tiếng gió rít.
“Ít nhất chúng ta cũng có thể thử.”
Bầu trời về phía Đông tiếp tục rạng dần. Một ngày nữa, một ngày New York nữa đang đến. Hãy nhìn nó mà xem. Ngay cả bình minh ở thành phố này cũng chẳng tốt lành gì.
Mày đã thắng, cô tiếp tục cay đắng nghĩ. Mày có hạnh phúc không? Mày có thấy vui không, khi biết rằng mày đã tóm được bọn ta, mày đã đánh bại được bọn ta, một cậu con trai và một cô gái bé nhỏ? Cơ may thật sòng phẳng và rõ ràng, phải không nào? Như chúng luôn vẫn thế mỗi khi mày dính vào, đồ bắt nạt to xác lấy thịt đè người. Một số cam chịu. Một số tranh đấu. Mày là đồ thối tha cố ra vẻ đẹp đẽ lúc sáng sớm; mày – New York.
Một giọt nước mắt chạy ngang qua thái dương cô, từ khóe mắt chạy xuống tai, bị mang đi theo hướng đó bởi luồng gió thổi ngược họ đang tạo nên.
Bàn tay anh rời khỏi vô lăng trong chốc lát, ôm chặt lấy cô, chặt tới mức làm da cô lõm xuống, rồi vội vàng đưa nó trở lại cái vành vô lăng đang giần giật để tránh cho sự sống không bị vỡ vụn. “Đừng khóc, Bricky.” Anh nói, mắt vẫn nhìn về đại lộ phía trước và nuốt khan khó nhọc.
“Em không khóc.” Cô nói với vẻ kiên cường nung nấu. “Em sẽ không để cho nó được hài lòng nhiều đến thế đâu. Nó cứ việc giở mọi trò nó muốn, em có thể chịu đựng được.”
Các tòa nhà vẫn tiếp tục vươn lên ngày càng cao phía trước họ. Cứ mỗi dãy nhà trôi qua, chúng dường như lại nhích lên thêm vài phân, dù cho thứ thay đổi là đường chân trời chứ không phải từng nóc nhà riêng lẻ. Từ tám và mười lên mười lăm tầng, từ mười lăm lên hai mươi, từ hai mươi lên ba mươi và hơn nữa. Cao hơn, cao hơn không ngừng, vươn tới tận bầu trời, để lại ngày càng ít khoảng trống, cho tới khi đôi lúc bầu trời chỉ như một cái miệng cống có rìa răng cưa nham nhở không đều mở ra trên đầu họ, với nắp cống đã được nhấc đi. Ở đó là những mảng màu xanh sáng. Và bên dưới là bóng tối mờ mịt, bóng tối thường trực và những mê cung bê tông không có lối ra.
Lúc này họ đang di chuyển, họ đang chạy xe dọc xuống phố Bảy Mươi, hướng tới phố Ba Mươi. Ở bên phải họ, Broadway ngày càng nhích lại gần hơn theo từng giao lộ mở ngang ra. Rồi đột nhiên, đúng tại nơi phố Bốn Mươi kết thúc, đại lộ này cắt thẳng qua lộ trình của họ, tạo thành hình chữ X, thành tam giác kép mà mọi người gọi là Quảng trường Thời đại, nhưng đó thực sự là hai quảng trường khác nhau, Duffy ở phía trên chỗ giao cắt và Longacre ở phía dưới.
Đây là con đường nổi tiếng nhất trái đất, thế nhưng nó cũng thật tầm thường, thật chẳng giống thứ gì hết, khi bạn đang có mặt ở đó. Các tòa nhà Palace và State ở bên tay trái, tòa nhà chọc trời với các rìa sắc cạnh Times tọa lạc thẳng phía trước, và bên phải, nơi các tòa nhà đột nhiên gián đoạn và để lộ ra một khoảng trống, cái hình khối lạ kỳ như một tòa tháp đó nổi bật hiện lên trong màu xanh nhạt của buổi sáng.
Cô nắm lấy cánh tay anh thật đột ngột, thật mạnh, đến mức cả vô lăng bị xoay đi bởi cú nắm đó, và họ gần như đâm sầm vào bức tượng Cha Duffy. Bánh trước xe chồm một chút lên vỉa hè, rồi lại xuống lòng đường khi anh điên cuồng đánh lái sang phía đối diện. Anh phải mất nửa dãy nhà nữa để đưa chiếc xe chạy thẳng trở lại, để kiểm soát được nó.
Cô nhổm người quỳ gối trên đệm ghế, ngoảnh về phía sau, bàn tay vẫn nắm chặt lấy vai anh, đấm thùm thụp lên đó trong niềm vui và líu ríu nói không ngừng vào luồng gió đang tạt về phía sau.
“Quinn, nhìn xem! Ôi, Quinn, nhìn xem! Đồng hồ trên tháp Paramount nói rằng còn năm phút! Bây giờ mới là sáu giờ kém năm thôi! Cái đồng hồ trong căn phòng đó hẳn đã chạy quá nhanh...”
“Có thể cái đồng hồ này chậm... Đừng, em sẽ ngã ra ngoài đấy.”
Cô đang gửi một cái hôn gió về phía nó, cô gần như mất trí trong tâm trạng biết ơn cuồng nhiệt. “Không, nó đúng, nó đúng! Nó là người bạn duy nhất em từng có trong cả thành phố này. Em biết nó sẽ không bỏ rơi em. Như thế có nghĩa là chúng ta vẫn có thể bắt kịp chuyến xe, chúng ta vẫn còn cơ hội...”
Khối tháp Times che khuất cái đồng hồ, và giờ nó đã mất dạng. Cô sẽ không bao giờ thấy lại nó nữa. Nếu cô nghe theo trái tim mình, hẳn cô đã chẳng bao giờ ở nơi này, nơi nó tọa lạc. Nhưng trong lúc tựa cằm lên lưng ghế, cô nhìn lại về phía nó từng xuất hiện, gửi đi một lời chào tạm biệt đầy biết ơn từ đôi mắt ướt nhòa.
“Ngồi xuống ghế đi, anh sắp rẽ đây.”
Cú đánh lái ngoặt gấp làm hai bánh xe bốc lên khỏi mặt đường, và họ đã ở trên phố Ba Mươi Tư. Và kia, trên dãy nhà thứ hai phía trước, giữa phố Tám và Chín... Nó kia rồi, ngay phía trước họ, đã bắt đầu chuyển bánh, chiếc xe bus đường dài đồ sộ... Nó vừa rời khỏi bờ dốc của bến xe, rẽ và trả lái thẳng trở lại, lúc này đang bắt đầu tăng tốc, hướng về phía Tây, chạy tới đường hầm vượt sông ở phía Jersey... và về nhà.
Thật gần, nhưng cũng thật ngoài tầm với. Chỉ sớm hơn một phút thôi là họ đã có thể ở trên đó. Cô khẽ thút thít nức nở trong cổ họng, rồi nén âm thanh đó xuống. Cô không hỏi anh họ phải làm gì, anh cũng không hỏi cô; thay vào đó, anh lao tới và làm điều cần phải làm.
Anh không bỏ cuộc. Tay lái của anh trở nên nhẹ hơn, linh hoạt hơn, và họ vẫn tiếp tục đuổi theo chiếc xe bus. Họ thu hẹp khoảng cách, họ lại gần, họ bắt kịp nó. Chiếc xe nặng nề chậm lại khi tới gần phố Mười để rẽ sang lối vào đường hầm, và họ khéo léo vọt lên chạy dọc bên cạnh nó. Một đèn tín hiệu thân thiện chuyển đỏ đúng lúc làm nốt phần còn lại, dừng cả chiếc xe lớn lẫn chiếc xe nhỏ lại không phân biệt.
Chiếc xe bus rùng mình dừng lại như một con voi, còn chiếc xe của họ phanh kít lại nhổm lên như một con châu chấu.
Họ lập tức ra khỏi xe, thậm chí trước cả khi chiếc xe kịp dừng hẳn và đấm thình thình cẩu khẩn vào ô kính cửa lên xuống của xe bus. Và cô thì không ngừng nhảy lên nhảy xuống trong lúc cầu khẩn cuống cuồng.
“Mở cửa ra, cho chúng tôi vào! Hãy cho chúng tôi đi cùng! Chúng tôi đi cùng tuyến với các vị! Ôi, hãy cho chúng tôi lên xe! Đừng bỏ chúng tôi ở đây, đừng bỏ chúng tôi lại... Cho ông ấy thấy tiền đi, Quinn; nhanh lên, lấy tiền ra...”
Người lái xe lắc đầu, quát tháo và chửi rủa họ bằng màn kịch câm qua ô kính. Và đèn đỏ cứ kéo dài mãi, anh ta không thể chạy xe rời đi, cứ phải ngồi đó nhìn khuôn mặt khổ sở của họ. Bất cứ ai có trái tim hẳn cũng phải mủi lòng chịu thua. Và rõ ràng người lái xe cũng có thứ như thế trong lồng ngực. Anh ta nhìn họ lần cuối với đôi mắt tối sầm, và liếc nhìn quanh để xem liệu có ai nhận ra không, rồi miễn cưỡng kéo cần điều khiển và cánh cửa mở ra.
“Tại sao không lên xe ở nơi đáng lẽ các người phải lên hả?” Anh ta quát tháo nhặng xị. “Các người nghĩ đây là cái gì, một cái xe điện nội đô dừng lại ở mọi xó xỉnh chắc?” Và những điều cánh tài xế vẫn nói khi họ sợ bị nghĩ là mềm lòng.
Cô lảo đảo bước dọc theo lối đi giữa xe, tìm thấy một ghế đôi còn trống ở gần cuối. Một lát sau, Quinn nặng nề ngồi phịch xuống bên cạnh cô, chiếc xe họ mượn tạm dừng bên lề đường và bị bỏ lại đó, hai chiếc vé được anh cầm khư khư trong tay. Đôi vé cho cả chặng đường, đôi vé để về nhà.
Chiếc xe bus lại chuyển bánh.
Họ đã hoàn toàn rời bỏ thành phố, chạy qua giữa các đồng cỏ vùng Jersey, đường hầm đã ở lại phía sau họ; New York đã bị bỏ lại phía sau, trước khi cô đủ hơi sức để có thể nói.
“Quinn”, cô nói thật khẽ, để không bị những người ngồi xung quanh nghe thấy, “em không biết liệu chúng ta có làm đúng hay không? Điều chúng ta vừa làm ở đó. Anh có nghĩ chúng có thể thoát khỏi vụ này không? Nói gì thì nói, chúng ta cũng sẽ không có mặt để đưa ra lý lẽ của mình.”
“Chúng ta không cần phải làm vậy. Sẽ có những người khác có thể luận tội chúng hiệu quả tới mức chúng sẽ không bao giờ thoát nổi.”
“Những người khác? Ý anh là những nhân chứng khác sao?”
“Không phải nhân chứng của vụ giết người. Không ai trông thấy nó diễn ra cả. Nhưng có một thành viên trong gia đình nạn nhân mà lời chứng sẽ là đủ để kết tội chúng.”
“Làm thế nào anh biết được?”
“Có một lá thư từ cậu em trai, Roger, nằm trên bàn làm việc của Graves, nơi anh bảo họ tìm nó. Chính là cậu con trai học đại học ở đâu đó mà anh đã kể với em. Lá thư được gửi bảo đảm, nạn nhân chắc đã nhận được nó vào ngày hôm qua. Anh tìm thấy lá thư trong lúc đợi em quay về. Trong thư, cậu em cố gắng cảnh báo ông anh để anh ta không đồng ý nếu cô ả Bristol kia tìm cách moi tiền.”
“Làm sao cậu em biết?”
“Cậu ta đã kết hôn với cô ả.”
Cô há miệng ra một lát. “Điều đó giúp giải thích những từ đã khiến chúng ta khó hiểu đến thế trong lời nhắn. ‘Ông không biết tôi, nhưng tôi cảm thấy mình giống như một thành viên trong gia đình rồi.’ ”
“Đúng thế. Một đám cưới sinh viên trong cơn say bốc đồng. Chỉ có điều, thậm chí đó không phải là một cuộc hôn nhân thực sự; nó chỉ là dàn cảnh, vô giá trị. Cô ả vẫn còn một người chồng ở đâu đó, vậy nên, để tránh tội đa hôn, cô ta đã thực hiện một buổi lễ giả với anh chàng kia. Đây là điều bẩn thỉu nhất anh từng nghe được trong nhiều năm qua.”
“Làm thế nào mà cậu em lại dính dáng với một người đàn bà như vậy chứ?”
“Cô ta mở một nhà hàng gần trường cậu ta học, cậu ta thường tới đó vào các tối thứ Bảy với đám bạn, và cậu ta đã gặp cô ả này. Cậu ta mới chỉ là một cậu nhóc, em trông đợi gì đây? Cậu nhóc đổ gục trước cô ta, cậu nhóc mê mẩn, và cậu nhóc cầu hôn. Cô ta và gã bạn trai tay chơi đã tìm hiểu về cậu nhóc, và chúng phát hiện ra rằng cậu ta thuộc một gia đình danh giá, có nghĩa là một cái mỏ béo bở. Điều đó khiến tình hình thay đổi hoàn toàn. Vậy là chúng dàn dựng ra trò này và lôi cậu ta vào tròng.”
“Nhưng đó là trò cũ rích rồi, đó là chuyện của những năm 1900.”
“Chúng đã thành công với nó. Đôi khi những thứ cũ kĩ nhất lại hoạt động một cách trôi chảy nhất. Hãy nghe đã. Gã đồng bọn từng diễn một màn kịch, trong đó hắn vào vai thẩm phán tòa hòa giải. Vậy nên tất cả những gì hắn phải làm là diễn lại vai cũ để phục vụ cậu nhóc, và cậu nhóc tin là mình đã thực sự kết hôn với cô ả. Hắn ta phục sẵn ở gần đó, cô ả cùng cậu nhóc và các nhân chứng tới đó vào một tối thứ Bảy, và một lễ thành hôn giả được thực hiện. Anh đoán là rượu gin cũng góp phần không nhỏ.”
“Và ý anh là cậu ta đã không ngã ngửa ra...?”
“Trong hai tháng sau đó thì không, theo như lá thư của chính cậu ta. Chuyện này được giữ bí mật với sự đồng ý của cả hai bên. Cậu nhóc tiếp tục chuyện học hành, cô ả tiếp tục công việc mua vui. Và tất nhiên là gã đồng bọn thì trở về thành phố và nằm im. Đó là hai tháng rất lợi lộc cho hai kẻ đó.”
“Thế gian này thật nhiều chấy rận.”
“Về cơ bản thì họ, cậu nhóc và cô ả, là vợ chồng bán thời gian, và các dịp cuối tuần, thời gian duy nhất cậu ta có thể gặp gỡ cô ả, là thời điểm mà những khoản tiền bị vòi vĩnh từ cậu ta. Hai kẻ đó hút cạn máu cậu nhóc, moi từ cậu ta mọi thứ có thể.”
“Và sau đó, em đoán là gàu đã được thả xuống giếng quá thường xuyên.”
“Đại loại là thế. Trước hết, tất cả tiền đều tới từ Stephen Graves chứ không phải từ cậu nhóc, tất nhiên rồi. Vậy nên, khi tiền chi tiêu bắt đầu leo cao hơi quá mức, ông anh liền cắt quỹ của cậu em.”
“Điều đó đã mở toang tấm màn che.”
“Cô ả và gã đồng bọn không tin tưởng nhau. Khi món tiền dễ kiếm đột nhiên dừng lại, gã kia chắc hẳn đã nghĩ cô ả tìm cách qua mặt hắn, chơi khăm hắn hay gì đó. Dù thế nào đi nữa, hắn đã làm điều cuối cùng nên làm; hối hả quay lại đó và chường mặt ra khắp nơi, cố tìm hiểu cho ra lẽ. Phần còn lại thì hẳn em có thể tự hình dung.”
“Cũng dễ hiểu.”
“Cậu nhóc trông thấy hắn ta quanh quẩn gần phòng thay đồ của cô ta, nhận ra hắn, và sau hồi lâu cũng vỡ lẽ về trò lừa đảo mà bọn chúng đang diễn với mình. Anh nghĩ cậu ta hẳn đã giết cả hai nếu tìm được chúng, song chúng đã chuồn lẹ trước một bước.”
“Em dám cược là vậy.”
“Có điều, cặp đôi mèo mả gà đồng này vẫn chưa thỏa mãn. Có lẽ thành công đến quá dễ dàng đã khiến chúng mất trí hay gì đó. Chúng cho rằng trò lừa bịp có lẽ vẫn đủ để moi thêm một mẻ to nữa trước khi hạ màn, trước khi Roger kịp liên lạc với ông anh trai và cảnh báo mọi chuyện. Nói cho cùng, nhà kia vẫn còn một cô em gái vừa đến tuổi bước vào xã hội thượng lưu cần lo lắng, và những chuyện tai tiếng như vậy chẳng có lợi cho ai cả, ngay cả khi đó là những người không hề liên quan. Và đó chính là bối cảnh dẫn tới vụ nổ súng. Lá thư gửi bảo đảm từ cậu nhóc đã tới tay Stephen trước lời nhắn của chúng chỉ vài giờ; ông anh đã sẵn sàng tiếp đón khi chúng xuất hiện.”
“Phần còn lại thì em có thể tự bổ sung nốt; em đã nghe được một phần câu chuyện từ chúng. Thay vì dễ dàng bị dọa dẫm và phát hoảng, Graves đã lật ngược tình thế. Cô ả vào nhà trước để thỏa thuận, để gã đàn ông chờ bên ngoài ngôi nhà. Graves bảo cô ta cuốn xéo đi, và nói với ả rằng anh ta sẽ gọi cảnh sát. Cô ta mất bình tĩnh, chạy xuống và mở cửa cho gã đồng bọn vào. Hắn chĩa súng vào Graves. Graves giằng lấy súng, và thiệt mạng.”
“Và anh cũng suýt mất đi tính mạng của mình. Còn em cũng gần mất đi mạng sống của em.”
“Ý anh là lúc anh nhảy vào chúng ư?”
“Không. Holmes. Từ trước đó.”
“Tại sao? Chuyện gì đã xảy ra vậy?”
“Holmes. Ông ta không phải thủ phạm. Nhưng ông ta đã quá sợ hãi về tấm séc, đến mức khi biết rằng Graves đã chết và bản thân có thể bị buộc tội gây ra cái chết đó, ông ta đã mất hết sáng suốt và gần như biến mình thành kẻ mà ông ta đã cố hết sức để không bị nghi ngờ. Một kẻ sát nhân, với mục tiêu là anh.”
“Ông ta đã thử...?”
“Ông ta làm nhiều hơn thử. Ông ta kỳ thực đã hoàn tất việc đó. Ông ta cho thứ gì đó vào whisky của anh, và đã sắp sửa ném anh xuống sông. Anh nghĩ ông ta vốn đã lôi anh ra khỏi xe rồi; anh không biết nữa, lúc đó anh đã nửa tỉnh nửa mê. Tên của em đã cứu anh. Tình cờ lúc đó anh lại lẩm bẩm rằng dù sao em cũng đã biết ông ta làm việc đó, và thủ tiêu anh sẽ không thể cứu được ông ta. Điều đó đã khiến ông ta lùi lại. Nó khiến ông ta hoảng gấp đôi, nhưng ít nhất cũng khiến ông ta bỏ ý định trước đó. Thay vì đẩy anh xuống sông, ông ta dành ra mười lăm phút vã nước lạnh lên mặt anh và dìu anh đi vòng quanh chiếc xe để tác dụng của thuốc ngủ hết dần. Rồi ông ta vội vã đưa anh về nhà mình và tọng đầy cà phê đen đặc sánh vào miệng anh.
Khi tác dụng của thuốc đã hết – anh không biết nữa – ông ta và anh ít nhiều trở nên tin tưởng nhau. Đừng hỏi anh tại sao. Anh đoán là vì cả hai đã quá kiệt sức để có thể hoài nghi. Anh tin rằng ông ta đã không giết Graves, còn ông ta tin anh không phải đang tìm cách tống tiền dựa vào tấm séc.
Ông ta nói mình không hề có ý định làm thế. Về chuyện này, anh đoán người ta chẳng bao giờ cố ý làm vậy. Chỉ đơn giản là ông ta đang lâm vào thế kẹt, và để trang trải nợ nần ông ta đã viết tấm séc khống với tên Graves. Nhưng sau đó, ông ta đã thu xếp được đủ tiền để thanh toán tấm séc này, thậm chí từ trước khi ông ta tới gặp Graves tối qua. Thế rồi ông ta phát hiện ra mình không thể lấy lại tấm séc, vì Graves không thể tìm thấy tờ giấy quái quỷ đó. Nó đã rơi ra khỏi ngăn đựng của cái két khi anh phá nó lần đầu trên, chắc em còn nhớ.
Tất nhiên là ông ta cảm thấy bất an, và trên thực tế đã rất bồn chồn vì chuyện đó; nhưng ông ta nhận ra Graves là một người đàng hoàng, không thể có chuyện anh ta giữ lại tấm séc nhằm mục đích buộc Holmes phải trả tiền chuộc hay điều gì tương tự. Graves lạnh nhạt với ông ta sau khi chuyện đó xảy ra, song họ không có cãi cọ thẳng thừng hay xung khắc gì. Ông ta ra về, tin rằng Graves sẽ không kiện cáo, và ông ta sẽ liên lạc lại vào hôm nay, khi Graves có thêm thời gian để tìm tấm séc. Khi đó Graves đang chờ cô ả Bristol; chuyến thăm không báo trước của Holmes đã diễn ra ngay trước khi cô ta tới.
Dù sao thì, anh cũng đã trả lại tấm séc cho ông ta. Nó chỉ khiến ông ta bị liên đới đến vụ án mạng nếu đột nhiên xuất hiện sau đó... và đến lúc ấy anh đã chắc chắn ông ta không phải thủ phạm. Ông ta đã viết một tấm séc mới ngay trước mặt anh, lùi thời gian ghi trên đó lại cho khớp với tấm séc cũ, rồi gửi bưu điện tới địa chỉ của Graves trong một chiếc phong bì; bên quản lý tài sản có thể dùng nó rút lấy tiền mặt.”
Anh lấy một thứ ra khỏi túi và chìa cho cô xem.
Khuôn mặt cô tái đi chút ít khi trông thấy nhiều tiền đến vậy; trong khoảnh khắc cô thầm nghĩ...
“Không, đừng sợ.” Anh trấn an cô. “Lần này là tiền chính đáng. Holmes đã đưa cho anh. Ông ta nhất định bắt anh phải cầm, sau khi đã nghe anh kể câu chuyện của chúng ta, của em và của anh. Anh đã kể với ông ta về chúng ta, về việc chúng ta mong muốn được trở về nhà đến mức nào. Ông ta nói cảm thấy đồng cảm với anh; cả ông ta và anh đều đã phạm phải sai lầm, vào cùng một buổi tối, những sai lầm đã có thể dẫn tới hậu quả rất nghiêm trọng – anh với việc phá chiếc két đó, và ông ta với tấm séc không thanh toán được – nhưng cả ông ta lẫn anh đều đã được trao một cơ hội thứ hai, và có lẽ cả hai đều đã học được một bài học. Và bởi ông ta cảm thấy hết sức biết ơn và nhẹ nhõm khi thoát khỏi rắc rối, thế nên ông ta dành chỗ này cho anh như một món quà. Hai trăm đô la tiền mặt. Ông ta nói nó sẽ là một khoản dành dụm có ích, để chúng ta khởi đầu khi trở về nhà. Ông ta nói là sau này, nếu anh muốn, anh có thể gửi trả dần cho ông ta.”
“Chỗ này đủ để chúng ta có được một khởi đầu mới. Người ta có thể làm được nhiều điều với hai trăm đô la ở thị trấn của chúng ta. Chúng ta có thể trả tiền đặt cọc lần đầu cho một ngôi nhà nho nhỏ của riêng mình, và...”
Cô không nghe anh nói. Cô không còn lắng nghe nữa. Đầu cô đã ngả lên vai anh và đang lắc lư nhè nhẹ theo nhịp chuyển động của chiếc xe bus. Đôi mắt cô bình yên nhắm lại. Chúng mình đang về nhà, cô nghĩ trong khi chìm vào giấc ngủ. Mình và chàng trai nhà bên, chúng mình cuối cùng cũng được trở về nhà.
6 giờ 15 phút
Chú thích:
[1]Đồng quarter có thành phần chính là bạc và đồng. Đồng quarter bằng chì là đồng tiền giả.
[2]Bricky: Cục gạch
[3]1 inch = 2,54 cm.
[4]Một nhãn hiệu nước tẩy rửa - ND.
[5]Còn gọi là “xương ước” (wishbone). Theo phong tục ở Mỹ, vào lễ Tạ ơn, hai người sẽ kéo hai nhánh chạc của cái xương này ra cho tới khi nó gãy, ai được phần mảnh xương lớn hơn sẽ nhận được điều ước (ND).
[6]Grover Cleveland (1837–1908): Tổng thống Hoa Kỳ, tại vị trong hai nhiệm kỳ 1885–1889 và 1893–1897.