← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 2

Gã nhìn vào mắt Gordon một lúc lâu, rồi chuyển sang mấy bức tranh vẽ hình những con tàu trên tường. Phòng Thẩm vấn… Trong phòng này có bầu không khí quân sự. Giống câu lạc bộ các sĩ quan. Paul thích quãng thời gian gã phục vụ trong quân ngũ. Ở đó, gã cảm thấy như đang ở nhà, có bạn bè, có mục đích sống. Đó là quãng thời gian vui vẻ đối với gã, một quãng thời gian đơn giản - trước khi gã quay về nhà và cuộc sống trở nên phức tạp. Khi cuộc sống trở nên phức tạp, những điều xấu xa có thể xảy đến.

“Ông đang nói thật với tôi đấy à?” “Ồ, tất nhiên.”

Khi Manielli đang liếc mắt cảnh cáo chậm rãi, Paul thọc hai tay vào túi rút ra một bao Chesterfields. Gã châm một điếu. “Tiếp đi.”

Gordon nói, “Cậu ta sở hữu một phòng gym tại Đại lộ 9. Nơi ấy khá khiêm tốn nhỉ?” Câu này ông ta hỏi Avery.

“Ông đã tới đó à?” Paul hỏi.

Avery đáp, “Không quá phô trương.”

Manielli phá lên cười. “Tôi đồng ý, nó thực sự khuất nẻo.”

Tư lệnh nói tiếp, “Nhưng trước khi làm ngành này, cậu đã từng là một thợ in. Cậu thích nghề in không, Paul?”

Thấy tò mò, Paul đáp. “Có.”

“Cậu in có giỏi không?”

“Có, tôi giỏi lắm. Nhưng chuyện này thì có liên quan quái gì?”

“Cậu muốn quên đi quá khứ, bắt đầu lại, trở về làm một thợ in không? Chúng tôi sẽ thu xếp để không ai có thể kiện cậu về bất kỳ điều gì cậu từng làm trong quá khứ.”

“Và,” Thượng Nghị sĩ nói thêm, “chúng tôi sẽ lo liệu một ít tiền nữa. Năm ngàn. Cậu có thể sống một cuộc đời mới.”

Năm ngàn? Paul chớp mắt. Phải làm việc quần quật trong hai năm để kiếm được số tiền đó. Gã hỏi, “Các ông tẩy sạch hồ sơ của tôi như thế nào?”

Thượng Nghị sĩ phá lên cười. “Cậu biết trò chơi mới Cờ Tỷ Phú không? Chơi bao giờ chưa?”

“Mấy đứa cháu của tôi có. Nhưng tôi không chơi.”

Thượng Nghị sĩ tiếp tục, “Thi thoảng khi cậu gieo xúc xắc, kết cục của cậu sẽ là vào tù. Nhưng có một lá bài trên đó viết ‘Thả Tự Do’ Chúng tôi thực sự có một lá tặng cậu. Đó là tất cả những gì cậu cần biết.”

“Các ông muốn tôi giết một người? Chuyện này thật lạ lùng. Dewey sẽ không bao giờ đồng ý.”

Thượng Nghị sĩ nói, “Tay công tố viên đặc biệt đó không bao giờ được biết lý do chúng tôi cần cậu.”

Ngừng một lúc, gã hỏi, “Kẻ nào? Phải Siegel không?” Trong số tất cả đám kẻ cướp, thì Bugsy Siegel là kẻ nguy hiểm nhất. Thực sự là thằng tâm thần. Paul đã chứng kiến những hậu quả đẫm máu và sự tàn bạo của hắn, những cơn thịnh nộ trở thành huyền thoại của hắn.

“Vào lúc này, Paul ạ,” Gordon đáp, sự khinh bỉ hiện trên nét mặt. “Giết một công dân Mỹ đối với cậu sẽ là hành vi phạm pháp. Chúng tôi không bao giờ đề nghị cậu làm bất kỳ điều gì như thế.”

“Thế thì tôi không hiểu.”

Thượng Nghị sĩ nói, “Việc này giống với một tình huống thời chiến hơn. Cậu đã từng đi lính…” Liếc mắt sang Avery, cậu ta nhắc lại, “Sư đoàn 1 Bộ binh. Quân đoàn 1 của Mỹ. Lực lượng Quân đội Viễn chinh Mỹ, Chiến dịch tấn công St Mihiel, Meuse-Argonne. Anh đã đánh đấm thực sự nghiêm túc đấy. Được tặng vài huân chương vì tài thiện xạ trên chiến trường. Cả đánh giáp lá cà nữa, đúng không?”

Paul nhún vai. Lão béo mặc vest trắng ngồi im trong góc, hai bàn tay gập lại trên tay cầm nạm vàng của chiếc gậy chống. Paul nhìn chằm chằm lão một lúc rồi quay lại với Tư lệnh. “Tỷ lệ cược tôi sống sót đủ lâu để tận dụng lá bài ấy là bao nhiêu?”

“Hợp lý,” Tư lệnh đáp. “Không nhiều nhưng hợp lý.”

Paul kết bạn với một tay nhà văn kiêm phóng viên thể thao, Damon Runyon. Họ đi uống cùng nhau tại một số quán rượu gần Broadway, đi ẩu đả rồi chơi đá banh. Hai năm trước, Runyon có mời Paul đến dự tiệc sau khi New York lần đầu tiên trình chiếu phim Little MiSS Marker, mà ban đầu Paul nghĩ rằng đây là một phim rất hay. Tại bữa tiệc đó, sau khi gã bị tống cổ ra ngoài mà không được gặp Shirley Temple, gã đã đề nghị Runyon xin một cuốn sách có chữ ký của tác giả. Lời đề tặng tay nhà văn đã viết: Tặng anh bạn của tôi, Paul - Hãy nhớ rằng, trong cuộc đua không phải lúc nào kẻ nhanh nhất sẽ về đích trước tiên.

Avery nói, “Thế những gì chúng tôi vừa nói thì sao? Rằng những cơ hội của anh sẽ tốt hơn nhiều, nếu anh đến khám Sing Sing.”

Ngừng một lúc Paul hỏi, “Sao lại là tôi? Ở New York này có hàng tá thằng sát thủ sẵn sàng làm thế chỉ vì tiền đấy thôi.”

“À. Nhưng cậu thì khác, Paul. Cậu là một thằng không xoàng đâu. Cậu khá đấy. Hoover và Dewey nói cậu đã khử mười bảy thằng.”

Paul chế giễu, “Tin vịt, tôi vẫn nói thế đấy.”

Thực ra con số ấy là mười ba.

“Chúng tôi nghe nói rằng cậu luôn kiểm tra mọi thứ hai, ba lần trước khi thực hiện công việc. Cậu phải chắc chắn rằng những khẩu súng của mình luôn ở trạng thái tốt nhất, cậu nghiên cứu tài liệu về các nạn nhân, cậu thăm thú từ trước những nơi chúng ở, tìm hiểu lịch sinh hoạt của chúng mà cậu chắc chắn chúng tuân thủ. Cậu biết khi nào chúng ở một mình, khi nào chúng gọi điện thoại hoặc chúng đi ăn ở đâu.”

Thượng Nghị sĩ nói thêm, “Và cậu là kẻ thông minh. Như tôi đã nói. Trong vụ này chúng tôi cần kẻ thông minh.”

“Thông minh ư?”

Manielli đáp. “Chúng tôi đã tới nhà anh, Paul. Anh có trữ sách, chết tiệt, lắm sách thật đấy. Thậm chí còn ghi danh vào cả Câu lạc bộ Sách Của Tháng.”

“Không phải những cuốn sách thông minh đâu. Không phải tất cả.”

“Nhưng chúng là sách,” Avery chỉ rõ. “Và tôi dám cá rằng nhiều thằng trong nghề của anh không đọc sách nhiều.”

“Hoặc không biết đọc,” Manielli nói, tự phá lên cười với câu đùa của mình.

Paul nhìn người mặc bộ vest nhăn nhúm, “Ông là ai?”

“Cậu không cần phải lo…” Gordon bắt đầu.

“Tôi đang hỏi ông ta.”

“Nghe này,” Thượng Nghị sĩ làu bàu. “ở đây chúng tôi là người hỏi, anh bạn ạ.”

Nhưng lão béo xua tay phản đối, rồi nói với Paul, “Cậu có biết một cuốn truyện tranh, Little Orphan Annie không? Kể về cô bé trong mắt không có con ngươi?”

“À có.”

“Vậy thì hãy nghĩ về ta như Doanh nhân Daddy Warbucks.”

“Nghĩa là sao?”

Nhưng lão chỉ cười rồi quay sang Thượng Nghị sĩ. “Tiếp tục vụ của anh đi. Tôi thích cậu ta đấy.”

Tay chính trị gia gầy như que củi nói với Paul, “Điều quan trọng nhất, không giết người vô tội.”

Gordon nói thêm, “Jimmy Coughlin từng bảo chúng tôi rằng, cậu chỉ giết những kẻ giết người. Cậu đã nói gì nhi? À, ‘Chỉnh lại sai lầm của Chúa’? Đó là điều chúng tôi cần.”

“Sai lầm của Chúa!” Thượng Nghị sĩ lặp lại, trên môi có nét cười nhưng không thực tâm.

“Rồi. Thế thì là ai?”

Gordon nhìn Thượng Nghị sĩ, ông ta đánh lạc hướng câu hỏi. “Cậu có bà con nào ở Đức không?”

“Chẳng còn ai cả. Gia đình tôi dọn về đây từ rất lâu rồi.”

Thượng Nghị sĩ hỏi, “Cậu biết gì về Phát xít?”

“Adolf Hitler đang điều hành đất nước. Nghe nói chẳng ai thực sự ủng hộ chuyện đó. Đã có một cuộc mít tinh lớn phản đối y tại Quảng trường Madison Square Garden vào tháng Ba, khoảng vài năm trước. Tôi nói với các ông, giao thông kinh khủng lắm. Tôi đã bỏ lỡ mất ba trận ẩu đả trên khu Bronx. Tôi vẫn còn bực… Thế đấy.”

“Cậu có biết không, Paul,” Thượng Nghị sĩ chậm rãi nói. “Hitler đang lên kế hoạch một cuộc chiến khác?”

Bất ngờ, ông ngưng bặt.

“Các liên lạc của chúng tôi tại Đức vẫn đang gửi tin về từ khi Hitler lên nắm quyền năm 1933. Năm ngoái, một nguồn tin đã tiếp cận được bản thảo lá thư này, do Tướng Beck, một trong những quan chức cấp cao của chúng soạn thảo.”

Tư lệnh trao cho gã một tờ giấy đánh máy bằng tiếng Đức. Paul đọc nội dung trên tờ giấy. Tác giả bức thư kêu gọi tiến hành tái trang bị các lực lượng vũ trang của Đức, chậm nhưng chắc nhằm mục đích bảo vệ và mở rộng nơi Paul dịch là “khu sinh sống.” Quốc gia này phải sẵn sàng cho chiến tranh trong một vài năm.

Gã nhíu mày, bỏ tờ giấy xuống. “Chúng sắp triển khai à?”

“Năm ngoái,” Gordon nói. “Hitler đã bắt đầu lên bản dự thảo. Kể từ đó, y xây dựng quân đội còn cao hơn nhiều mức y nói trong thư. Bốn tháng trước, quân Đức đã chiếm Rhineland - vùng phi quân sự giáp biên giới Pháp.”

“Tôi có đọc qua rồi.”

“Chúng đang đóng các tàu ngầm tại Helgoland, sắp giành lại quyền kiểm soát Kênh đào Wilhelm cho tàu chiến di chuyển từ Biển Bắc đến Biển Baltic. Kẻ đang phụ trách tài chính cho hoạt động này có chức danh mới. Hắn là người đi đầu trong “nền kinh tế chiến tranh.” Còn cuộc nội chiến tại Tây Ban Nha? Hitler đang gửi quân và trang thiết bị đến, được cho là hỗ trợ Franco. Thực tế là y đang dùng chiến tranh huấn luyện binh sĩ của mình.”

“Các ông muốn tôi… muốn tôi làm sát thủ giết Hitler à?”

“Chúa ơi, không.” Thượng Nghị sĩ đáp. “Hitler chỉ là một thằng lập dị thôi. Đầu óc khôi hài. Y muốn tái vũ trang đất nước của y nhưng không biết làm thế nào.”

“Và kẻ các ông đang nói đến làm chuyện này?”

“Tất nhiên là hắn làm,” Thượng Nghị sĩ đáp. “Tên hắn là Reinhard Ernst. Hắn vốn là đại tá trong Thế Chiến nhưng giờ là thường dân rồi. Chức danh này rất khó hiểu: đại diện toàn quyền về Ổn định trong nước. Nhưng chỉ

để che mắt. Hắn là bộ não đằng sau cuộc tái vũ trang này. Hắn mó tay vào mọi thứ: tài chính với Schacht, quân đội với Blomberg, hải quân với Raeder, không quân với Göring và đạn dược với Krupp.”

“Thế còn Hiệp ước Versailles? Tôi tưởng chúng không thể có quân đội?”

“Không phải là đội quân lớn… Tương tự như hải quân thôi… và không hề có không quân,” Thượng Nghị sĩ nói. “Nhưng người của chúng tôi nói rằng binh linh và thủy thủ đang tỏa ra khắp nước Đức, như rượu vang rót trên bánh cưới Canada.”

“Vậy quân Đồng minh không cản được chúng à? Ý tôi là, chúng ta đã thắng trong Thế Chiến thứ I?”

“Chẳng ma nào ở châu Âu chịu làm gì hết. Phía Pháp lẽ ra đã ngăn chặn được Hitler vào tháng Ba lạnh lẽo năm ngoái tại Rhineland. Nhưng họ không làm. Còn Anh? Tất cả những gì họ làm là la rầy một con chó tè bậy lên thảm.”

Một lúc sau Paul hỏi, “Và chúng ta đã làm gì để chặn chúng lại?”

Cái liếc mắt tinh tế của Gordon thể hiện sự tôn trọng. Thượng Nghị sĩ nhún vai. “Người Mỹ chỉ muốn hòa bình. Những kẻ theo chủ nghĩa biệt lập đang nắm Chính phủ. Họ không muốn dính líu vào hoạt động chính trị tại Châu Âu. Đàn ông muốn có việc làm, những bà mẹ không muốn mất con trai trên Chiến trường Flanders Field nữa.”

“Và tổng thống muốn được bầu lại vào tháng 11 này,” Paul nói, cảm thấy đôi mắt của Frank Lin D. Roosevelt đang dòm xuống gã từ phía trên bệ lò sưởi trang trí hoa văn.

Một khoảng im lặng vụng về. Gordon phá lên cười. Thượng Nghị sĩ thì không.

Paul dụi tắt điếu thuốc. “Được rồi. Chắc rồi. Giờ hiểu rồi. Nếu tôi có bị bắt sẽ chẳng có gì truy ngược về phía các ông. Hoặc ông ta.” Hất đầu lên bức tranh Roosevelt. “Chết tiệt. Tôi chỉ là một thường dân điên rồ, không phải là lính như hai tên này.” Liếc mắt về phía hai tay sĩ quan trẻ. Avery mỉm cười, Manielli cũng làm thế nhưng nụ cười của cậu ta rất khác.

Thượng Nghị sĩ nói, “Đúng vậy đấy, Paul. Hoàn toàn chính xác.”

“Và tôi nói tiếng Đức.”

“Chúng tôi nghe nói rằng cậu thạo lắm.”

Ông nội Paul đã tự hào về đất nước của tổ tiên mình, giống như bố của gã. Ông một mực bắt lũ trẻ phải học tiếng Đức, phải nói thứ tiếng mẹ đẻ ấy trong nhà. Gã nhớ lại những giây phút dở khóc dở cười, mẹ gã quát lên bằng tiếng Ireland, bố gã quát lại bằng tiếng Đức khi họ cãi nhau. Paul cũng làm việc trong nhà máy của ông nội, đặt chữ in, đọc và sửa định dạng các bản in bằng tiếng Đức, trong những mùa hè khi gã còn học trung học.

“Chuyện này sẽ tiến hành thế nào? Tôi chưa nói đồng ý đâu. Chỉ tò mò thôi. Chuyện này sẽ tiến hành thế nào?”

“Có một con tàu đưa đội tuyển Olympic, gia đình họ cùng cánh phóng viên sang Đức, sẽ khởi hành vào ngày mai. Cậu sẽ đi bằng chuyến tàu đó.”

“Đội tuyến Olympic?”

“Chúng tôi đã cho rằng đó là cách hay nhất. Sẽ có hàng nghìn người nước ngoài trong thành phố. Berlin sẽ chật ních. Quân đội và cảnh sát của chúng sẽ bận tối mắt.”

Avery nói, “Cậu sẽ chẳng có liên quan chính thức gì đến các hoạt động Olympic - phải đến ngày mùng một tháng Tám, các môn thi đấu mới bắt đầu. ủy ban Olympic sẽ chỉ biết cậu là một ký giả.”

“Một phóng viên thể thao,” Gordon nói thêm. “Đó là vỏ bọc của cậu. Nhưng về cơ bản cậu phải giả ngu và biến thành người vô hình. Đến làng Olympic cùng mọi người khác, ở đấy một hai ngày rồi lẻn vào thành phố. Ở khách sạn sẽ không ổn đâu, Đảng Quốc Xã sẽ giám sát toàn bộ khách và ghi chép hộ chiếu. Người của chúng tôi sẽ thuê một phòng trong một nhà trọ tư nhân cho cậu.”

Như một tay lành nghề, những câu hỏi nhất định về công việc tràn vào óc gã. “Tôi sẽ dùng tên mình chứ?”

“Phải, cậu sẽ dùng tên mình. Nhưng chúng tôi cũng cung cấp cho cậu một hộ chiếu đào thoát - ảnh là ảnh cậu nhưng dùng tên khác. Do một quốc gia khác cấp.”

Thượng Nghị sĩ nói, “Cậu trông giống người Nga. To lớn và rắn chắc.” Ông ta gật đầu. “Chắc rồi, cậu sẽ là ‘người đến từ nước Nga’”.

“Tôi không nói được tiếng Nga.”

“Thì cũng có ai nói được đâu. Mà có khả năng cậu cũng chẳng bao giờ cần hộ chiếu. Chỉ để đưa cậu rời khỏi Đức, trong trường hợp khẩn cấp thôi.”

“Và,” Paul nói nhanh, “để chắc chắn không ai lần theo tôi đến chỗ các ngài nếu tôi thất bại, đúng không?”

Sự ngập ngừng của Thượng Nghị sĩ theo sau là cái liếc mắt nhìn Gordon, cho thấy gã nói đúng.

Paul nói tiếp, “Thế thì tôi sẽ làm việc cho ai đây? Mọi tòa báo ở đó đều có cộng tác viên đưa tin. Họ sẽ biết tôi không phải là nhà báo.”

“Chúng tôi đã nghĩ đến chuyện này. Cậu sẽ là người viết tin bài độc lập, đang cố gắng bán cho mấy tờ báo thể thao lá cải khi quay về.”

Paul hỏi, “Người của các ông ở đó là ai?”

Gordon đáp. “Lúc này không nói tên được.”

“Tôi không cần tên. Các ông có tin tưởng anh ta không? Và tại sao?”

Thượng Nghị sĩ đáp, “Anh ta đã sống ở đó được hai năm, đang cung cấp cho chúng tôi những thông tin chất lượng. Anh ta đã phục vụ cho tôi trong Thế Chiến thứ I. Riêng tôi biết anh ta.”

“Vỏ bọc của anh ta ở đó là gì?”

“Thương nhân, người trợ giúp tổ chức sự kiện, đại loại thế. Làm việc độc lập thôi.”

Gordon nói tiếp, “Anh ta sẽ cung cấp cho cậu vũ khí, bất kỳ điều gì cậu cần biết về mục tiêu.”

“Tôi không có hộ chiếu thật. Ý tôi là mang tên tôi.”

“Chúng tôi biết, Paul. Chúng tôi sẽ kiếm cho cậu một hộ chiếu.”

“Tôi có được lấy lại súng không?”

“Không,” Gordon nói và đó là dấu chấm hết cho vấn đề. “Và đó là kế hoạch tóm tắt của chúng tôi. Cậu nên biết rằng, nếu cậu nghĩ đến chuyện nhảy lên máy bay nào đó, rồi nằm ườn trong căn lều dành cho người vô gia cư ngoài phía Tây…”

Paul tuy rất bực mình, nhưng gã chỉ nhíu mày rồi lắc đầu.

“Hai thanh niên đẹp trai sẽ bám lấy cậu như đỉa cho đến khi tàu cập cảng Hamburg. Và nếu cậu có mong muốn thoát khỏi Berlin, liên lạc của chúng tôi sẽ để mắt đến cậu. Nếu cậu biến mất, anh ta sẽ gọi cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ gọi cho Phát xít nói rằng một sát thủ người Mỹ đào tẩu đang nhởn nhơ tại Berlin. Chúng tôi sẽ đưa cho chúng tên và ảnh của cậu.” Gordon nhìn thẳng vào mắt gã. “Nếu cậu nghĩ chúng tôi giỏi việc theo dõi cậu, Paul, thì cậu chưa từng thấy Phát xít giỏi việc đó thế nào. Và theo những gì chúng tôi biết, chúng sẽ không buồn mở phiên tòa và ký lệnh hành hình đâu. Giờ chúng ta rõ cả chưa?”

“Trăm phần trăm.”

“Tốt.” Tư lệnh liếc nhìn Avery. “Giờ nói cho cậu ta biết chuyện gì xảy ra khi xong việc.”

Tay trung úy nói, “Chúng tôi sẽ có một máy bay và một phi hành đoàn chờ anh tại Hà Lan. Có một chiếc máy bay cũ ở ngoài Berlin. Sau khi xong việc anh sẽ đi máy bay rời khỏi đó.”

“Đi bằng máy bay à?” Paul hỏi đầy ngạc nhiên. Đi máy bay khiến gã phấn khích. Khi lên chín tuổi gã bị ngã gãy tay – lần đầu tiên trong bao nhiêu lần gã không muốn nhớ - khi lắp một con tàu lượn, cất cánh từ trên mái xưởng in hai tầng của bố, rồi tan tành trên mặt đường đá cuội bẩn thỉu.

“Đúng vậy, Paul ạ.” Gordon đáp.

Avery nói, “Anh thích máy bay phải không? Trong căn hộ của anh có cả đống tạp chí về máy bay. Cả sách nữa. Tranh ảnh về máy bay. Rồi các mô hình. Anh tự làm hết à?”

Paul cảm thấy xấu hổ. Việc họ phát hiện các đồ chơi của gã khiến gã tức giận.

“Cậu là phi công à?” Thượng Nghị sĩ hỏi.

“Đã bao giờ tôi trèo lên máy bay đâu.” Rồi gã lắc đầu. “Tôi không biết.” Toàn bộ chuyện này vô cùng ngớ ngẩn. Sự im lặng bao trùm lấy căn phòng.

Chính ngưòi mặc bộ vest nhăn nhúm phá vỡ sự im lặng. “Tôi cũng là đại tá trong Thế Chiến thứ I. Giống như Reinhard Ernst. Tôi cũng ở Argonne Woods. Giống như cậu.”

Paul gật đầu.

“Cậu biết tổng cộng là bao nhiêu không?”

“Tổng cộng cái gì cơ?”

“Chúng ta đã mất bao nhiêu người?”

Paul nhớ lại một biển xác chết, lính Mỹ, Lính Pháp và lính Đức. Những binh sĩ bị thương trông còn khủng khiếp hơn theo nhiều cách. Họ la hét, gào khóc, rên rỉ rồi kêu cha gọi mẹ. Bạn sẽ không bao giờ quên được âm thanh đó. Không bao giờ.

Lão già nói bằng một giọng tôn kính, “Quân Viễn chinh Mỹ mất hơn hai mươi lăm nghìn người. Gần một trăm người bị thương. Phân nửa đoàn quân dưới trướng của tôi chết hết. Trong một tháng, chúng tôi tiến quân bảy dặm tấn công kẻ thù. Mỗi ngày trôi qua trong đời mình, tôi đều nghĩ đến những con số ấy. Phân nửa lính của tôi và bảy dặm. Và trận Meuse-Argonne là chiến thắng ngoạn mục nhất của chúng ta trong Thế Chiến thứ I… Tôi không muốn tái diễn chuyện đó nữa.”

Paul nhìn ông ta chăm chú. “Ông là ai?” gã lại hỏi.

Thượng Nghị sĩ tỏ vẻ khó chịu vừa định nói, thì lão già đáp, “Ta là Cyrus Clayborn.”

Phải, thế thì đúng rồi. Trời ạ… Lão già này là người đứng đầu Công ty Điện thoại và Điện báo - một triệu phú thực sự, cho đến tận bây giờ, trong bóng đen cuộc Đại Suy thoái.

Lão nói tiếp, “Daddy Warbucks, như ta đã nói. Ta là chủ ngân hàng. Vì thử hình dung xem, thông thường những kế hoạch như thế này tốt hơn không nên lấy tiền của dân. Ta đã quá già để ra trận vì Tổ quốc. Nhưng ta sẽ làm việc ta có thể làm được. Thỏa mãn chưa nhóc?”

“Rồi.”

“Tốt,” Claybom quan sát gã. “Ta chỉ nói một điều nữa thôi. Số tiền? Lúc nãy đã nói đến tiền rồi phải không?”

Paul gật đầu.

“Gấp đôi lên đi.”

Paul cảm thấy làn da gã nhồn nhột. Mười ngàn đô la? Gã không thể tưởng tượng được.

Gordon chậm rãi quay sang phía Thượng Nghị sĩ. Paul hiểu điều này không nằm trong kịch bản.

“Các ông trả bằng tiền mặt được không? Không trả bằng séc.”

Vì lý do nào đó, cả Thượng Nghị sĩ lẫn Claybom nghe xong cùng phá lên cười. “Bất kỳ điều gì cậu muốn, tất nhiên rồi,” nhà công nghiệp nói.

Thượng Nghị sĩ đẩy chiếc điện thoại cố định gần hơn về phía gã, gõ gõ lên ống nghe. “Quyết định thế nào hả con trai? Bọn ta có phải gọi cho Dewey hay không đây?”

Tiếng quẹt diêm phá tan bầu không khí im lặng khi Gordon châm thuốc. “Suy nghĩ cho kỹ đi, Paul. Bọn ta đang cho cậu một cơ hội xóa đi quá khứ. Bắt đầu lại tất cả. Làm gì có tên sát thủ nào được ân huệ như thế?”