← Quay lại trang sách

Phần II THÀNH PHỐ CỦA NHỮNG LỜI THÌ THẦM CHƯƠNG 3 Thứ Sáu, ngày 14 tháng 07 năm 1936

Cuối cùng, gã có thể thực hiện công việc mà gã tới đây để làm.

Đã 6 giờ sáng và con tàu S.S. Manhattan, với hành lang hạng ba tỏa mùi hăng hăng nơi gã đứng, đang thẳng tiến về bến cảng Hamburg, mười ngày sau khi rời New York.

Theo nghĩa đen, con tàu này mang cờ hiệu của hãng vận chuyển xuyên Đại Tây Dương ‘United States Lines’ - con tàu đầu tiên trong đội tàu của hãng được đóng dành riêng để chở khách. Con tàu to thật - diện tích rộng hơn hai sân bóng - tuy nhiên trên chuyến hải hành này, hành khách đặc biệt đông. Những chuyến đi xuyên Đại Tây Dương điển hình, tàu chỉ chở thêm sáu trăm hành khách hoặc hơn với thủy thủ đoàn năm trăm người. Nhưng chuyến đi này, có gần bốn trăm Vận động viên Olympic, các nhà quản lý và huấn luyện viên cùng tám trăm năm mươi hành khách. Hầu hết bao gồm gia đình, bạn bè, phóng viên báo chí và các thành viên của AOC*, chiếm trọn gian ăn ở trên tàu chia thành ba hạng.

Số lượng hành khách cùng những yêu cầu bất thường của Vận động viên và phóng viên trên tàu Manhattan khiến cuộc sống của đám thủy thủ mẫn cán, lịch thiệp trở nên sôi động, nhưng điều này đặc biệt đúng đối với người đàn ông béo tròn, hói đầu tên là Albert Heinsler. Chắc chắn công việc khuân vác của y đồng nghĩa với hàng giờ liền mệt nhọc dai dẳng và căng thẳng. Tuy nhiên, khía cạnh nặng nhọc nhất là vai trò thực sự của y trên tàu, vai trò mà không một ai biết gì về nó. Heinsler hay tự xưng mình với mật danh A, đó là cách cơ quan tình báo Phát xít gọi các mật vụ của chúng tại Đức - Agentent.

Thực ra tên cử nhân 34 tuổi lánh đời này chỉ đơn thuần là một thành viên của German American Bund - một nhóm những người Mỹ nghèo kiết xác ủng hộ Hitler, kết đồng minh với tổ chức Christian Front bài Do Thái, Người Cộng sản và Người Da đen. Heinsler không căm ghét nước Mỹ. Tuy nhiên, y không bao giờ quên được những ngày tháng khủng khiếp ở tuổi vị thành niên, khi gia đình y bị đày đọa đến khánh kiệt vì thành kiến chống Đức, bản thân y bị mắng nhiếc, chửi bới không thương tiếc - “Thằng phát xít chó đẻ” - và bị đánh cho bầm dập trên sân trường, hay trong những con hẻm.

Không, y không căm ghét đất nước mình. Nhưng y yêu nước Đức Phát xít bằng cả trái tim, vô cùng ngưỡng mộ Đấng Cứu Thế Adolf Hitler. Y sẽ hy sinh cả bản thân mình vì con người này - sẵn sàng ngồi tù, kể cả chết nếu cần.

Heinsler không tin nổi vào vận may đến với y khi một thành viên SA chỉ huy ở tổng hành dinh của tổ chức tại New Jersey đã để ý người đồng chí trung thành này từng làm nhân viên kế toán trên các tàu chở khách. Họ đã thu xếp cho y vào làm việc trên tàu Manhattan. Tay sĩ quan chỉ huy mặc đồng phục nâu gặp y trên lối đi lát ván dọc bờ biển tại Thành phố Atlantic. Ông ta giải thích trong khi Phát xít rộng lượng đón chào mọi người đến từ khắp nơi trên thế giới, họ cũng rất lo lắng trước những xâm phạm an ninh có thể phát sinh khi đám Vận động viên và du khách tràn vào Đức. Trách nhiệm của Heinsler là trở thành một đại diện bí mật của Phát xít trên tàu này. Cho dù y sẽ không làm công việc trước kia của mình - trông coi sổ sách kế toán. Điều quan trọng là y được tự do đi lại khắp nơi trên thuyền mà không bị nghi ngờ, với tư cách một nhân viên khuân vác.

Ôi, đây đúng là cơ hội đổi đời của y! Ngay lập tức y vĩnh biệt công việc kế toán công được chứng nhận ở quận Lower Broadway. Trong khi chờ tàu ra khơi vài ngày sau đó, y dương dương tự đắc lắm, chăm chỉ chuẩn bị cho nhiệm vụ khi suốt đêm nghiên cứu các sơ đồ của con tàu, luyện tập vai diễn nhân viên khuân vác, luyện lại tiếng Đức và học hỏi biến thể của mã Morse, còn được gọi là mã quốc tế sử dụng để truyền thông điệp đến và đi từ Châu Âu.

Khi tàu rời bến cảng, y luôn tự nhắc mình không ngừng quan sát, lắng nghe và trở thành mật vụ A hoàn hảo. Nhưng khi tàu Manhattan ra biển, y không thể liên lạc với nước Đức, tín hiệu vô tuyến điện báo di động của y quá yếu. Dĩ nhiên bản thân con tàu có hệ thống điện báo vô tuyến rất mạnh, cũng như vô tuyến điện sóng ngắn lẫn sóng dài, nhưng y hầu như không thể truyền tín hiệu bằng các thiết bị này, sẽ cần đến một người vận hành vô tuyến điện trong đám thủy thủ. Trong khi một điều thiết yếu là không ai được phép nghe hoặc nhìn thấy những thông điệp được truyền đi.

Lúc này, qua ô cửa sổ mạn tàu, Hiensler liếc nhìn dải đất xám xịt của nước Đức. Phải, y tin mình đã đến đủ gần bờ biển để truyền tin. Y bước vào trong cabin nhỏ, lôi ra bộ máy điện báo vô tuyến hiệu Allochio Bacchini nằm dưới võng. Y quay ra cầu thang dẫn lên boong cao nhất, nơi y hy vọng sóng yếu sẽ truyền được tín hiệu vào bờ biển.

Khi bước xuống hành lang hẹp, trong đầu y soạn lại thông điệp lần nữa. Một điều duy nhất khiến y hối tiếc, đó là không thể viết thêm vào họ tên và tư cách của mình cho dù y muốn. Ngay cả Hitler cũng kín đáo ngưỡng mộ thành quả của German-American Bund - nhóm Do thái cuồng bạo và ác liệt - đến nỗi đích thân Quốc trưởng phải công khai phủ nhận điều đó. Những lời nói của Heinsler sẽ chẳng được chú ý nếu y thêm bất kỳ ám chỉ nào đến nhóm người Mỹ này.

Như thế, thông điệp đặc biệt này chắc chắn sẽ không bị làm ngơ.

Gửi Trung úy SS, Hamburg: Tôi là người trung thành với Chủ nghĩa Phát xít. Được tin một tên có liên hệ với Nga âm mưu gây ra thiệt hại ở cấp cao tại Berlin trong vài ngày tới. Vẫn chưa rõ thân phận hắn, nhưng sẽ tiếp tục tìm hiểu vấn đề, hy vọng sớm gửi tin.

Gã đã sống sót khi tập đối kháng.

Không có cảm giác nào giống thế này. Nhảy nhót trong đôi giày da, các cơ bắp nóng lên, làn da vừa mát lạnh vì mồ hôi vừa nóng rát vì máu chảy trong người, nguồn phát điện trong cơ thể không ngừng chuyển động. Cả cơn đau nữa. Paul Schumann tin rằng gã có thể học được rất nhiều từ cơn đau. Rốt cuộc, điều đó mới quan trọng.

Nhưng giống như bản thân môn quyền anh, gã thích tập đối kháng phần lớn vì thành bại chỉ dựa vào đôi vai rộng và mảnh khảnh, đôi chân lanh lợi, đôi tay mạnh mẽ và tư duy của gã. Trong đấm bốc, chỉ có bạn chống lại đối thủ, không có đồng đội hỗ trợ. Nếu bạn thất bại, thi tức là hắn ta giỏi hơn bạn. Đơn giản vậy thôi. Và nếu bạn thắng, công trạng là của bạn - bởi vì bạn đã nhảy dây, bạn từ bỏ rượu chè và thuốc lá, bạn dành hàng giờ, hàng giờ liền suy nghĩ cách phá lớp phòng thủ, tìm ra những điểm yếu của đối phương. Gã đã gặp may tại Ebbets Field và Sân vận động Yankee. Nhưng trên võ đài, sẽ không có may mắn như thế.

Lúc này gã đang nhảy nhót trên võ đài được dựng lên trên boong chính của tàu Manhattan, cả con tàu được biến thành một phòng tập thể dục bồng bềnh dành cho việc huấn luyện. Một trong số các võ sĩ quyền anh đã thấy gã từng đấm bao cát đêm qua, cậu ta hỏi gã sáng nay có muốn làm một cữ tập dượt trước khi tàu cập bến không. Ngay lập tức Paul đồng ý.

Giờ thì gã khéo léo tránh được vài cú móc trái kết hợp với cách di chuyển đặc trưng, khiến đối thủ của gã chớp mắt ngạc nhiên. Nhưng chưa kịp chuyển về thế thủ, gã ăn ngay một cú đấm mạnh vào bụng. Ban đầu gã cứng người lại - đã lâu lắm rồi gã không thượng đài - nhưng đi cùng gã trên tàu là một tay bác sĩ thể thao trẻ tuổi, thông minh tên là Joel Koslow, cậu ta nhìn gã chăm chú rồi bảo cậu ta có thể mặt đối mặt với một võ sĩ bằng nửa tuổi gã. “Cho dù tôi chỉ cầm cự được hai hoặc ba hiệp thôi,” cậu ta nói thêm kèm một nụ cười. “Những thằng nhóc này khỏe lắm. Tràn đầy năng lượng.”

Tất nhiên điều này đúng. Nhưng Paul không bận tâm. Thực ra, tập luyện càng khó khăn bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu - bởi vì khóa học này sẽ cho gã tâm thế tốt nhất đương đầu với những gì đang chờ đợi gã ở Berlin, như tập dượt với một đối thủ vô hình, hay nhảy dây trên tàu mà ngày nào gã cũng làm.

Paul tập hai hoặc ba lần một tuần. Gã rất thèm khát được tập cùng người khác, bất chấp việc gã đã bốn mươi mốt tuổi, vì gã chính là cuốn cẩm nang kỹ thuật đấm bốc biết đi. Gã tập ở bất kỳ đâu có thể, trong các phòng tập gym tại Brooklyn, trong các sàn đấu ngoài trời tại Coney Island và ngay trong những cuộc họp nghiêm túc. Damon Runyon là một trong những người sáng lập Câu lạc bộ Thể thao Thế Kỷ 20 - cùng nhà quảng bá huyền thoại Mike Jacobs và một số ký giả khác. Tự anh ta đưa Paul đến Trường Đua ngựa New York để tập luyện. Có đôi lần gã đã so găng với vài người trong số những huyền thoại. Gã còn tập trong cả các phòng gym, trong một tòa nhà nhỏ gần bến cảng West Side. Được rồi Avery, không quá phô trương nhưng cái nơi bẩn thỉu, dơ dáy và ẩm thấp này là một thánh đường chừng nào Paul còn quan tâm. Và Sorry Williams, người sống ở căn phòng sau luôn luôn giữ nơi này gọn gàng, lúc nào cũng có đá, khăn mặt và bia để xài.

Thằng nhóc giở trò nghi binh nhưng Paul biết ngay cú đấm mạnh sẽ đến từ đâu, gã khóa nó lại rồi giáng cho cậu ta một cú thật mạnh vào ngực. Tuy nhiên, gã cản trượt cú đấm tiếp theo, cảm thấy găng tay da giáng một cú vững chắc vào hàm. Gã di chuyển xa tầm tay của thằng nhóc, tránh cú đấm theo sau đó. Họ lại di chuyển vòng tròn.

Khi di chuyển trên tấm thảm, Paul để ý thằng bé rất khỏe và nhanh, nhưng gã không thể đứng cách đối thủ quá xa. Gã bị khao khát chiến thắng lấn át. Bạn cần có khao khát, dĩ nhiên, nhưng điều quan trọng là phải bình tĩnh quan sát cách thằng nhóc di chuyển, tìm kiếm những đầu mối cho biết cậu ta sẽ làm gì tiếp theo. Sự tỉnh táo này là điều tối quan trọng để trở thành một võ sĩ quyền anh vĩ đại.

Và nó cũng là điều thiết yếu đối với một sát thủ.

Gã gọi nó là chạm vào đá.

Bảy năm trước, ngồi trong một quán nhậu bình dân của Hanrahan trên phố 48, Paul đang chăm sóc một bên mắt tím bầm đau khôn tả. Nhờ cử chỉ nhã nhặn của Beavy Wayne, hắn không thể đấm vào đúng giữa để cứu mạng gã, nhưng lạy Chúa, hắn có thể đánh trúng mí mắt gã. Khi Paul áp miếng bít tết rẻ tiền lên mặt, một tay da đen to lớn đưa đá hàng ngày xô qua cửa. Hầu hết những người đưa đá đều dùng móc vác những khối đá trên lung, tuy nhiên tay này mang bằng hai tay không. Chẳng buồn đeo găng. Paul nhìn tay da đen bước đi phía sau quầy bar, đặt khối đá vào ngăn.

“Này,” Paul gọi anh ta. “Xẻ ít đá cho tôi được không?”

Tay da đen nhìn vết tím bầm quanh mắt Paul rồi phá lên cười. Anh ta rút cái dùi đập đá trên giá, sau đó xẻ ra một miếng, Paul bọc nó vào khăn tay rồi áp lên mặt. Gã nhét một hào cho tay đưa đá, anh ta nói, “Cảm ơn.”

“Cho tôi hỏi,” Paul nói. “Làm sao anh mang được đá như thế? Không đau à?”

“Ôi nhìn này,” Anh ta giơ lên hai bàn tay to bè. Hai gan bàn tay chi chít vết bỏng, đã thành sẹo và nhợt nhạt như tấm giấy da bố gã hay dùng để in những giấy mời đẹp mắt.

Anh ta giải thích, “Đá cũng có thể khiến anh bị bỏng, giống hệt lửa. Và để lại sẹo. Tôi đã chạm vào đá lâu đến mức tôi không còn cảm giác nữa.”

Chạm vào đá…

Câu nói này khiến Paul ấn tượng. Gã nhận ra chính xác điều này đã xảy ra trong công việc của gã. Gã tin rằng trong tất cả chúng ta đều có đá. Chúng ta có thể lựa chọn nắm chặt lấy hay không.

Lúc này đây, trong căn phòng tập thể dục tạm bợ này, cách xa nhà hàng nghìn dặm, Paul cảm thấy một chút tê liệt tương tự khi gã đánh mất mình trong kế hoạch cho một trận đấu tập. Găng chạm găng và da chạm da. Ngay cả trong bầu không khí mát lạnh buổi bình minh ngoài biển, hai đấu thủ đều ướt đẫm mồ hôi khi phải di chuyển vòng tròn, tìm kiếm những điểm yếu, cảm nhận những điểm mạnh. Có lúc sát gần nhau, có lúc rời xa nhau. Nhưng luôn luôn cảnh giác.

Không có may mắn như thế trên võ đài…

Albert Heinsler đứng sau một ống khói trên các boong cao của tàu Manhattan, cắm giắc vào bộ vô tuyến điện. Y rút ra chiếc chìa khóa bé xíu màu nâu đen rồi tra vào mặt trên cùng của thiết bị.

Y gặp chút rắc rối khi sử dụng máy phát của Italia - y cho rằng MuSSolini tỏ ra thiếu tôn trọng Quốc trưởng - nhưng đây chỉ đơn thuần là cảm tính, y biết rằng Allocchio Bacchini là một trong số những máy phát tốt nhất thế giới.

Khi các ống đã nóng lên, y xoay chìa khóa, chấm gạch, chấm gạch. Do tính chất nhiệm vụ, y ép mình phải tập luyện liên tục hàng tiếng đồng hồ. Y tự định thời gian ra cho mình từ trước khi tàu nhổ neo, y có thể gửi một tin nhắn có độ dài như thế này trong chưa đầy hai phút.

Nhìn trừng trừng vào bờ biển sắp tới, Heinsler hít một hơi sâu. Lên trên boong cao nhất này, không khí thật dễ chịu. Trong khi y không phải nhốt mình trong cabin, nôn khan rồi rên rỉ như hàng trăm hành khách và thậm chí là thủy thủ đoàn, y căm ghét nỗi sợ không gian kín dưới kia. Sự nghiệp kế toán viên tàu biển trước kia của y danh giá hơn công việc khuân vác, y có cabin to hơn trên boong tàu cao hơn. Nhưng chẳng hề gì - vinh dự được giúp đỡ đất nước thứ hai của y đủ át đi sự khó chịu.

Cuối cùng, trên bề mặt thiết bị vô tuyến sáng ánh đèn. Y cúi xuống, điều chỉnh hai số trên mặt rồi lướt ngón tay trên khóa Bakelite nhỏ xíu. Y bắt đầu phát tin nhắn được y dịch sang tiếng Đức khi ấn khóa lên xuống:

Chấm chấm gạch chấm… chấm chấm gạch… chấm gạch chấm… gạch gạch gạch… gạch chấm chấm chấm… chấm… chấm gạch chấm…

Gửi Trung…

Y không thể gửi tiếp.

Heinsler thở hồng hộc khi một bàn tay túm lấy cổ áo y từ phía sau, lôi y lùi lại. Mất thăng bằng, y hét lên một tiếng rồi ngã oạch xuống boong tàu mềm mại bằng gỗ sồi.

“Không, không, đừng làm tôi đau!” Y vừa dợm đứng lên thì người đàn ông to lớn với gương mặt dữ tợn, mặc đồ đấm bốc, bàn tay nắm lại thành nắm đấm to tướng rút lại, rồi lắc đầu.

“Không được cử động.”

Heinsler lại nằm xuống, toàn thân run rẩy.

Thằng Phát xít chó chết…

Tay võ sĩ quyền anh vươn người về phía trước, tay rút dây ắc quy ra khỏi thiết bị. “Đi xuống,” gã nói, thu lại máy phát. “Ngay bây giờ.” Nói rồi gã kéo mật vụ A đứng dậy.

“Mày định âm mưu làm gì?”

“Cút đi,” tên đầu hói chửi, cho dù giọng nói run rẩy phản lại những lời của y.

Họ đang ở trong cabin của Paul. Chiếc máy phát, ắc quy và những thứ trong túi người đàn ông nằm vương vãi trên chiếc võng hẹp. Paul lặp lại câu hỏi, lần này thêm vào tiếng gầm gừ đáng sợ. “Nói cho tao biết…”

Một cú đập mạnh lên cửa ra vào. Paul bước lên phía trước, giơ nắm đấm lên mở cửa. Vince Manielli lao vào trong cabin.

“Tôi nhận được tin nhắn của anh rồi. Cái quái gì…?” Cậu ta chợt im bặt, nhìn chằm chằm tù nhân của họ.

Paul trao cho cậu ta cái ví. “Albert Heinsler. German - American Bund*.”

“Ôi Lạy Chúa… Không phải là con đê.”

“Hắn có cái kia kìa.” Hất đầu về phía máy điện báo vô tuyến.

“Hắn đang do thám chúng ta à?”

“Tôi không biết. Nhưng hắn ta đang phát đi thứ gì đó.”

“Làm sao anh phát hiện ra hắn?”

“Cứ cho là linh cảm đi.”

Paul không nói với Manielli rằng trong khi gã tin tưởng Gordon cùng nhóm của ông ta đến thời điểm này, gã không biết có thể họ đã sơ hở đến thế nào trong trò chơi này. Có thể họ đã để lại một vệt đầu mối kéo dài đến một dặm - những ghi chép về con tàu, những lời nói bất cẩn về Malone hay một vụ hóa kiếp khác, ngay cả những ám chỉ đến chính bản thân Paul. Gã không nghĩ rằng có rất nhiều nguy cơ từ phía Phát xít, điều gã lo lắng là tin tức gã đang đi trên tàu này có thể đã lan đến tai đám kẻ thù cũ của gã tại Brooklyn hay Jersey và gã muốn mình được chuẩn bị. Nên ngay khi tàu rời cảng, gã rút ra tờ 100 đô la giúi vào tay ông phó thuyền trưởng có thâm niên. Với lời dặn ông ta tìm hiểu xem có bất kỳ thành viên thủy thủ đoàn nào không quen biết, có vẻ khép kín và hỏi những câu hỏi bất thường không. Kể cả bất kỳ hành khách nào có biểu hiện đáng ngờ.

Một trăm đô la đổi lại là rất nhiều công tác thám tử, tuy nhiên trong suốt cuộc hải trình, tay phó thuyền trưởng chẳng tìm được gì - cho đến sáng nay khi gã bị ngắt quãng. Trận đấu tập dượt với một Vận động viên Olympic cho gã biết rằng một số thành viên thủy thủ đoàn đang nói đến tay nhân viên khuân vác: Heinsler. Rằng y lảng vảng khắp nơi, không bao giờ dành thời gian cho đám thủy thủ - và điều kỳ lạ nhất - y bắt đầu phun ra những lời phi lý về Phát xít và Hitler mà không hề suy nghĩ.

Giật mình, Paul theo dõi Heinsler và thấy y ở boong trên cùng, đang lúi húi bên máy vô tuyến điện.

“Hắn đã gửi đi được gì chưa?” Lúc này Manielli hỏi.

“Sáng nay thì chưa. Tôi bước lên cầu thang sau lưng hắn, thấy hắn đang đặt vô tuyến điện. Hắn chỉ vừa đủ thời gian gửi đi có vài chữ thôi. Nhưng có thể cả tuần này hắn đang gửi tín nhắn đi rồi.”

Manielli nhìn xuống máy vô tuyến điện. “Có lẽ với cái máy này thì không đâu. Phạm vi của nó chỉ vài dặm thôi… hắn đã biết những gì?”

“Hỏi hắn đi,” Paul nói.

“Rồi, anh bạn, tên anh là gì?”

Tên hói im lặng.

Paul cúi người về phía trước. “Nói!”

Heinsler nở một nụ cười kỳ quái. Y quay sang Manielli. “Tôi nghe các người nói chuyện. Tôi biết các người đang âm mưu cái gì. Họ sẽ chặn đứng các người…”

“Ai sai mày làm chuyện này? Có phải tố chức không?”

Heinsler chế giễu. “Chẳng ai sai tôi làm gì hết.” Y không còn giữ thái độ xun xoe, hèn hạ, nói liền một hơi không nghỉ với sự trung thành. “Tao trung thành với nước Đức Mới. Tao yêu Quốc trưởng và tao sẽ làm bất cứ điều gì vì Đảng, vì ông ấy. Và những kẻ như chúng mày…”

“Ồ, vậy sao,” Manielli lẩm bẩm. “Ý mày bảo nghe thấy bọn tao nói chuyện, nghĩa là sao?”

Heinsler không đáp. Y mỉm cười tự mãn mắt nhìn ra ô cửa sổ.

Paul nói, “Hắn đã nghe cậu nói chuyện với Avery. Hai người đang nói cái gì?”

Tay trung úy nhìn xuống sàn. “Tôi không biết. Chúng tôi duyệt lại kế hoạch lần nữa. Chỉ là nói qua thôi. Tôi không nhớ chính xác.”

“Trời ạ, ai lại đi nói trong cabin hả?” Paul ngắt lời. “Muốn nói phải lên trên boong để còn xem có ai theo dõi hay không chứ.”

“Tôi không nghĩ có ai đang nghe lén,” tay trung úy bào chữa.

Một vệt dấu vết dài một dặm…

“Cậu định sẽ làm gì với hắn đây?”

“Tôi sẽ nói chuyện với Avery. Trên tàu này có khoang giam giữ. Tôi nghĩ chúng ta sẽ tống hắn xuống đó cho đến khi tôi nghĩ ra.”

“Chúng ta có thể trao hắn cho lãnh sự quán tại Hamburg không?”

“Có thể. Tôi không biết. Nhưng…” Cậu ta chợt im lặng, nhíu mày. “Mùi gì thế nhỉ?”

Paul cũng nhíu mày. Bất ngờ, một mùi hương có vị vừa đắng vừa ngọt tỏa đầy cabin.

“Không!”

Heinsler ngã vật xuống gối sau lưng, hai mắt trợn trừng trong hốc mắt, miệng y sùi bọt trắng. Cơ thể y đang co giật khủng khiếp.

Đó là mùi hạnh nhân.

“Cyanua!” Manielli thì thầm. Cậu ta chạy đến ô cửa sổ, mở tung ra.

Paul lấy cái vỏ gối thận trọng lau miệng cho y, thọc tay vào túi tìm thuốc. Nhưng gã chỉ lấy ra được những mảnh thủy tinh. Nó đã vỡ tan rồi.

Vào lúc Paul quay lại từ bồn với cốc nước nhằm rửa chất độc trong miệng thì y đã chết.

“Hắn đã tự sát,” Manielli thì thầm như điên dại, hai mắt trố ra nhìn trừng trừng. “Chỉ… Ngay đó. Hắn đã tự sát.”

Paul giận dữ nghĩ: Cơ hội tìm hiểu thêm thông tin thế là tiêu rồi.

Tay trung úy vẫn nhìn trừng trừng cái xác, run rẩy. “Hoàn toàn bế tắc rồi, trời ạ.”

“Báo cho Avery đi.”

Nhưng Manielli dường như bị tê liệt.

Paul nắm chặt lấy cánh tay cậu ta. “Vince… báo cho Avery. Có nghe tôi không?”

“Cái gì… À, tất nhiên rồi. Andy. Tôi sẽ báo cho cậu ấy. Phải rồi.” Tay trung úy bước ra ngoài.

Vài quả tạ từ phòng tập thể dục buộc vào eo lưng là đủ dìm xác xuống đáy đại dương. Nhưng cái ô cửa sổ kia bề ngang chỉ có tám phân. Hành khách cũng đang chuẩn bị túa ra đầy các hành lang tàu Manhattan, không có cách nào mang thi thể đi qua tàu được. Họ sẽ phải đợi. Paul nhét thi thể vào dưới tấm chăn, chỉnh đầu quay sang bên như thể Heinsler đang nằm ngủ. Sau đó, gã rửa tay thật cẩn thận dưới bồn rửa nhỏ xíu, để chắc chắn phi tang bằng hết dấu vết của chất độc.

Mười phút sau có tiếng gõ cửa. Paul mở cửa cho Manielli vào trong.

“Andy đang liên lạc với Gordon. Ở D.C giờ là nửa đêm rồi nhưng ông ta sẽ theo dõi chúng ta.” Cậu ta không thể ngăn mình ngó cái xác lần nữa. Cuối cùng tay trung úy hỏi Paul, “Anh gói ghém xong chưa? Sẵn sàng đi chưa?”

“Thay đồ xong tôi sẽ đi,” Gã liếc nhìn chiếc quần soóc và áo thun thể thao đang mặc trên người.

“Làm đi. Rồi đi lên trên. Andy nói chúng ta không muốn mọi thứ hỗn loạn. Anh biến mất, cả thằng cha kia cũng phải biến mất. Để giám sát không thể tìm được hắn. Chúng tôi sẽ gặp anh bên trái mạn tàu, boong chính, nửa giờ nữa.”

Liếc mắt lần cuối về phía xác Heinsler, Paul cầm theo va li và bộ đồ cạo râu bước vào phòng tắm.

Sau khi tắm rửa và cạo râu, gã mặc áo sơ mi trắng và quần dài bằng vải flannel xám, bỏ lại chiếc mũ cao bồi màu nâu vành ngắn. Ba, bốn người không thạo đi biển thường hay bỏ quên mũ rơm hoặc mũ nỉ mềm trên tàu. Mười phút sau, gã tản bộ dọc theo sàn boong bằng gỗ sồi cứng trong ánh nắng ban mai nhợt nhạt. Paul dừng chân, tựa người vào lan can châm một điếu Chesterfield.

Gã nghĩ đến người đàn ông vừa tự sát. Tự sát. Gã không bao giờ hiểu được điều này. Paul cho rằng cái nhìn trong đôi mắt của y cho thấy manh mối. Sự tỏa sáng của kẻ cuồng tín. Heinsler khiến gã nhớ đến cuốn sách gã đọc gần đây, sau một lúc gã đã nhớ ra: những kẻ mê muội đi theo một tên bộ trưởng là sứ giả phục hưng trong cuốn Elmer Gantry, tác phẩm nổi tiếng của Sinclair Lewis.

Tao yêu Quốc trưởng và tao sẽ làm bất cứ điều gì vì Đảng, vì ông ấy.

Hẳn nhiên rồi, họa có điên mới mạo hiểm cả tính mạng mình như thế. Thế nhưng điều khó chịu hơn là những gì câu chuyện này kể cho Paul về dải đất xám gã đang nhìn chằm chằm. Ở đó còn bao nhiêu kẻ mang trong mình cảm xúc chết người này? Những kẻ như Dutch Schultz và Siegel rất nguy hiểm, nhưng bạn còn hiểu được chúng. Tuy nhiên việc người đàn ông đó đã làm, ánh mắt của y, sự trung thành đến nín thở của y… tất cả đều ngớ ngẩn, tất cả đều rất khác. Paul chưa bao giờ phải chống lại một kẻ như thế.

Dòng suy nghĩ của gã bị ngắt quãng khi gã nhìn sang bên, thấy một thanh niên da đen khổ người vạm vỡ đang bước về phía mình. Cậu ta mặc áo khoác của vận động viên Olympic màu xanh nhạt và quần soóc, phô ra đôi chân cơ bắp.

Hai bên gật đầu chào nhau.

“Xin lỗi ngài,” cậu ta nhẹ nhàng nói. “Ngài khỏe chứ?”

“Khỏe,” Paul đáp. “Còn cậu?”

“Hưởng thụ không khí ban mai. Trong lành hơn nhiều so với ở Cleveland hay New York.” Họ cùng nhìn ra mặt biển. “Lúc nãy có thấy ngài tập luyện. Ngài là dân chuyên nghiệp à?”

“Một lão già như tôi sao? Chỉ như tập thể dục thôi.”

“Tên tôi là Jesse.”

“Ồ vâng. Tôi biết cậu là ai.” Paul nói. “Viên đạn Buckeye từ bang Ohio.” Họ bắt tay nhau. Rồi Paul tự giới thiệu bản thân. Bất chấp cú sốc trước sự cố vừa xảy ra trong cabin của mình, gã vẫn không ngăn được mình cười toét. “Tôi có xem các bộ phim thời sự về Giải Vô địch Điền kinh Western Conference năm ngoái tại Ann Arbor. Cậu đã xô đổ ba kỷ lục thế giới. Và san bằng một kỷ lục khác, đúng không? Tôi xem đi xem lại phim đó chắc hàng tá lần rồi. Nhưng tôi dám cá rằng cậu mệt mỏi khi nghe người ta nhắc lại chuyện này.”

“Không, tôi không phiền một chút nào, thưa ngài.” Jesse Owens đáp. “Chi là tôi lúc nào cũng ngạc nhiên khi thấy người ta theo dõi sát sao việc tôi làm như thế. Chỉ chạy rồi nhảy thôi mà. Trong chuyến này tôi chưa được xem nhiều trận của ngài, Paul.”

“Tôi ở quanh đây mà,” Paul đáp, có ý lảng tránh. Gã tự hỏi liệu Owens có biết chuyện đã xảy ra với Heinsler không. Hay có nghe trộm không? Hay có thấy Paul túm cổ Heinsler trong boong cao nhất cạnh ống khói không? Nhưng gã cho rằng tay vận động viên này sẽ rắc rối hơn nhiều nếu mọi việc diễn ra như thế. Dường như trong tâm trí cậu ta có điều gì đó khác. Paul hất đầu về phía boong tàu sau lưng họ. “Đây là cái phòng tập gym to nhất tôi từng thấy. Cậu thích nó không?”

“Tôi mừng vì có cơ hội được tập luyện, nhưng đường đua phải đứng yên cơ. Mà nhất định cũng đừng rung lên rung xuống như chúng ta trải qua mấy ngày trước. Khiến tôi nằm đo đất có ngày đấy.”

Paul nói, “Ra là hôm qua tôi đấu với một vận động viên quyền anh.”

“Chính xác. Một anh chàng tốt bụng. Tôi đã nói chuyện một chút với anh ta.”

“Cậu ta khá đấy,” Paul đáp, không nhiệt tình lắm.

“Có vẻ thế,” tay vận động viên điền kinh nói. Rõ ràng cậu ta cũng biết đấm bốc không phải là thế mạnh của tuyển Mỹ, nhưng Owens không định chi trích anh bạn kia. Paul nghe nói rằng người da đen là những người Mỹ tốt bụng nhất, cậu ta xếp thứ hai sau cuộc thi đấu giữa những vận-động-viên-nổi-tiếng-nhất trên tàu tối qua, sau Glenn Cunningham.

“Làm một điế…”

Owens phá lên cười. “Tôi không hút đâu.”

“Chắc tôi phải vứt hết thuốc và rượu đi mất. Người như các cậu sống lành mạnh quá.”

Thêm một tràng cười nữa. Rồi rơi vào im lặng khi chàng da đen lực lưỡng hướng ánh nhìn ra biển. “Paul này. Tôi muốn hỏi anh một câu. Anh lên đây là chính thức à?”

“Chính thức?”

Ý tôi là với ủy ban? Có thể như kiểu một vệ sĩ?”

“Tôi ư? Sao cậu hỏi vậy?”

“Nhìn anh tôi thấy anh giống, à như một người lính hay sao đó. Rồi cách anh đánh đấm. Anh biết rõ mình đang làm gì.”

“Tôi từng chiến đấu trong Thế chiến thứ I. Có lẽ, cậu đã nhận ra điều đó.”

“Có thể.” Rồi Owens nói thêm. “Dĩ nhiên đã hai mươi năm trước rồi. Và hai chàng trai tôi thấy nói chuyện cùng anh. Họ là lính hải quân. Chúng tôi nghe thấy họ nói chuyện với một trong số thủy thủ đoàn.”

Chúa ơi, một vệt đâu mối nữa…

“Hai anh chàng đó hả? Chỉ vô tình va phải họ trên tàu thôi. Thì tôi đang đi cùng mấy người các cậu mà… Nói với họ một tí về thể thao, đấm bốc tại Berlin, Thế vận hội. Tôi là một ký giả.”

“À, tất nhiên rồi,” Owens chậm rãi gật đầu. Dường như cậu ta lưỡng lự một lúc. “À, mà nếu anh là phóng viên, có thể anh biết một chuyện tôi sắp hỏi anh. Chỉ là tự hỏi anh có biết điều gì về hai anh chàng kia không?” Cậu ta hất đầu về phía mấy anh chàng đứng trên boong gần đó, đang chạy song song với nhau vượt qua dùi cui chuyển tiếp. Họ chạy nhanh như chớp.

“Họ là ai thế?” Paul hỏi.

“Sam Stoller và Marty Glickman. Họ là những người chạy rất tốt, hai trong số những người giỏi nhất chúng tôi có. Nhưng tôi nghe đồn rằng họ có thể không chạy. Tôi đang tự hỏi anh có biết điều gì về họ không?”

“Không, chẳng biết gì cả. Ý cậu là về vấn đề chuyên môn? Chấn thương à?”

“Ý tôi là vì họ là người Do Thái.”

Paul lắc đầu. Gã nhớ lại có đợt tranh cãi cho rằng Hitler không thích người Do Thái. Có vài sự phản đối đòi dẹp bỏ Thế vận hội. Vài người còn muốn nước Mỹ tẩy chay Thế vận hội. Damon Runyon đã từng nộ khí xung thiên khi biết Mỹ vẫn tham gia. Nhưng tại sao ủy ban của Mỹ lại gây ảnh hưởng lên các vận động viên chỉ vì họ là người Do Thái? “Đó là một thỏa thuận dở. Sẽ rất khó giành chiến thắng.”

“Không, thưa ngài. Không đời nào. Tôi chỉ đang nghĩ có thể ngài biết điều gì đó.”

“Xin lỗi, không giúp được anh bạn rồi,” Paul đáp.

Thêm một người da đen khác đến nhập bọn với họ. Ralph Metcalfe tự giới thiệu mình. Paul cũng biết người này. Cậu ta đã giành nhiều huy chương tại Thế vận hội Los Angeles năm 1932.

Owens để ý thấy Vince Manielli đang nhìn xuống họ từ boong cao hơn. Tay trung úy gật đầu và bước về phía cầu thang.

“Anh ta đây rồi. Người ngài vừa mới gặp trên tàu.” Owens nở nụ cười ranh mãnh trên gương mặt, không hoàn toàn tin rằng Paul là người thật thà. Đôi mắt tay da đen nhìn về phía trước đến vùng đất đang lớn dần. “Tưởng tượng xem. Chúng ta sắp đến Đức rồi. Không bao giờ nghĩ rằng tôi sẽ du lịch theo kiểu này. Cuộc sống có thể trở nên cực kỳ thú vị, ngài có nghĩ vậy không?”

“Có thể,” Paul đồng tình.

Hai vận động viên điền kinh tạm biệt rồi chạy chậm bỏ đi.

“Phải Owens không?” Manielli hỏi, bước lên trước tựa người vào lan can. Cậu ta xoay lưng lại với hướng gió, cuốn một điếu thuốc.

“Ừ,” Paul rút một điếu Chếtrfield ra khỏi bao, hai bàn tay khum lại khi châm rồi đưa que diêm đang cháy sẵn về phía Manielli. Cậu ta cũng châm thuốc. “Một người tốt.”

Dù hơi sắc sảo, Paul nghĩ.

“Chết tiệt, mấy tay này chạy được đấy. Cậu ta đã nói gì thế?”

“Bọn tôi chém gió thôi,” Gã thì thầm. “Tình hình anh bạn chúng ta dưới kia sao rồi?”

“Avery đang xử lý,” Manielli mơ hồ đáp. “Cậu ấy đang ở trong phòng vô tuyến. Sẽ qua đây trong một phút nữa.” Một chiếc máy bay lướt qua đầu họ ở tầm thấp. Hai người cùng đứng xem trong im lặng.

Thằng nhóc có vẻ vẫn còn khiếp đảm vì vụ tự sát. Tuy nhiên, không phải theo kiểu của Paul, vì cái chết nhắc nhở gã về những kẻ khó chịu gã sắp đối đầu. Không, tay thủy thủ này bối rối vì cậu ta đã chứng kiến cái chết quá gần - hơn nữa lại là lần đầu tiên, điều này quá rõ ràng. Paul biết những thằng nhóc kiểu này có hai dạng. Cả hai loại cùng to mồm, cùng khoe khoang khoác lác, sở hữu những cánh tay vạm vỡ và nắm đấm mạnh mẽ. Nhưng một loại sẽ nhảy vào, bẻ ngón tay răng rắc và nắm lấy cơ hội -chạm vào đá - còn loại kia thì không. Vince Manielli rơi vào loại thứ hai. Cậu ta thực sự là thằng khờ nhà hàng xóm. Cậu ta thích nói những câu như “sát thủ” hay “hóa kiếp” để tỏ ra mình hiểu chúng nghĩa là gì, nhưng cậu ta quá xa rời với thế giới của Paul, giống như Marion - cô nàng ngoan hiền đã tán tình một kẻ tồi tệ. Nhưng giống như lão trùm du thủ du thực Lucky Luciano đã từng nói với gã, “Tán tỉnh chẳng được cái quái gì đâu.”

Manielli dường như đang chờ đợi Paul bình luận về gã khờ mới chết. Điều gì đó như kiểu thằng cha này đáng chết. Hoặc giả thằng đấy óc bã đậu. Người ta ai cũng muốn nghe điều gì đó về người vừa mới chết. Rằng đó là lỗi của họ, rằng họ đáng chết hay đó là điều không thể tránh khỏi. Nhưng cái chết chẳng bao giờ cân đối hay gọn gàng, tay sát thủ chẳng có gì để nói cả. Không khí im lặng đặc quánh lấp đầy không gian giữa họ. Một lúc sau, Andrew Avery đến nhập bọn. Tay cậu ta xách theo một tập tài liệu và một va li cũ đã mòn xác xơ. Cậu ta nhìn quanh. Chẳng có ai đang trong tầm nghe hết. “Kéo một cái ghế qua đây.”

Paul tìm thấy một cái ghế xếp màu trắng bằng gỗ và mang đến cho hai thủy thủ. Gã không cần phải mang ghế bằng một tay, dùng cả hai tay sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nhưng gã thấy thích thú khi thấy Manielli nháy mắt nhìn gã nhấc bổng cái ghế rồi đung đưa, mặt không hề biến sắc. Paul ngồi xuống ghế.

“Đây là điện tín,” tay trung úy thì thầm. “Gordon không lo lắng về tay Heinsler này. Máy vô tuyến Allocchio Bacchini chỉ là máy vô tuyến điện nhỏ, được sử dụng ở công sự tạm thời hay trên máy bay, phạm vi ngắn. Kể cả dù hắn có gửi được tin nhắn đi, Berlin có khả năng sẽ không chú ý nhiều. Đối với chúng, tổ chức ấy là một nỗi ô nhục. Nhưng Gordon nói tất cả tùy thuộc ở anh. Nếu anh muốn rút ra, cũng không sao.”

“Nhưng không có tấm-thẻ-thả-tự-do,” Paul đáp.

“Không có thẻ nào cả,” Avery nói.

“Thỏa thuận này càng ngày càng ngọt ngào,” tay sát thủ bật lên tiếng cười chua chát.

“Anh vẫn tham gia chứ?”

“Phải, tôi tham gia.” Hất đầu về phía boong dưới. “Xử lý cái xác sao rồi?”

“Sau khi mọi người xuống tàu, các tàu ngầm từ lãnh sự quán Hamburg sẽ đến giải quyết nó.” Avery vươn người sang bên, nói bằng giọng thấp, “Được rồi, đây là những gì sẽ xảy ra cho nhiệm vụ của anh, Paul. Sau khi tàu cập cảng, anh sẽ xuống tàu, còn tôi cùng Vince sẽ lo chuyện ở đây với Heinsler. Sau đó, chúng tôi sẽ đến Amsterdam. Anh ở lại với các đội tuyển. Sẽ có một buổi lễ chào mừng ngắn tại Hamburg, sau đó mọi người lên tàu hỏa tới Berlin. Các vận động viên sẽ có một buổi lễ nữa vào tối nay nhưng anh phải đi thẳng đến Làng Olympic, rồi ẩn náu cho kỹ. Sáng ngày mai, anh hãy bắt xe buýt đến Tiergaten - đó là Công viên Trung tâm của Berlin.”

Cậu ta trao cho Paul một va li. “Nhớ mang cái này theo.”

“Gì thế này?”

“Một phần trong vỏ bọc của anh. Thẻ báo chí, rồi giấy bút. Rất nhiều thông tin cơ bản về Thế vận hội và thành phố. Một hướng dẫn đến Làng Olympic. Những bài báo, những bức ảnh cắt ra từ báo và các thống kê thể thao. Rồi những thứ một ký giả phải có. Anh không cần phải xem bây giờ đâu.”

Nhưng Paul vẫn mở va li và xem xét cẩn thận trong vài phút, ngó qua các nội dung. Avery bảo đảm với gã thẻ báo chí là thực, và gã không thể nhận ra bất kỳ điều gì đáng ngờ ở các nội dung khác.

“Anh không tin tưởng ai, đúng không?” Manielli hỏi.

Nghĩ rằng nện thằng nhóc này một cú thật mạnh thực sự rất vui. Paul đóng nắp va li lại, ngước mắt lên. “Thế còn hộ chiếu kia, hộ chiếu Nga của tôi?”

“Người của chúng tôi sẽ trao cho anh khi đến đó. Anh ta là tay giả mạo chuyên làm các giấy tờ Châu Âu. Bây giờ và ngày mai phải chắc chắn rằng anh luôn mang va li theo người. Đó là cách anh ta sẽ nhận ra anh.” Cậu ta trải ra một bản đồ Berlin nhiều màu, lần theo tuyến đường. “Xuống ở đây, rồi đi theo đường này. Anh tìm đường đến quán cà phê có tên là Bierhaus.”

Avery nhìn Paul đang chăm chú xem bản đồ. “Anh có thể mang nó theo, không cần phải ghi nhớ đâu.”

Nhưng Paul lắc đầu. “Các bản đồ cho người khác biết anh đang ở đâu và sẽ đi đâu. Đứng xem một bản đồ trên phố sẽ gây sự chú ý. Nếu anh bị lạc, tốt nhất là nên hỏi đường. Đó là người duy nhất biết anh là người lạ, không phải là cả một đám đông.”

Avery nhướn mày, ngay cả Manielli cũng không thể chế giễu gã về điểm này.

“Gân quán cà phê có một con ngõ nhỏ. Ngõ Dresden.”

“Nó có tên à?”

“Tại Đức, các con ngõ đều có tên. Một con ngõ trong số đó là Dresden. Đó là một lối tắt. Không cần biết nó sẽ dẫn đến đâu. Vào buổi trưa, anh cứ bước vào trong hẻm rồi dừng lại. Như kiểu anh bị lạc. Người của chúng tôi sẽ tiến đến chỗ anh. Anh ta là người mà Thượng Nghị sĩ đã nói với anh. Reginald Morgan. Reggie.”

“Mô tả anh ta đi.”

“Lùn. Có ria mép. Tóc hơi đen. Anh ta sẽ nói tiếng Đức và là người lên tiếng trước. Một lúc sau anh hỏi, “Chuyến tàu nào tốt nhất đến Alexanderplatz?” Và anh ta sẽ đáp, “Chuyến tàu số 138” Rồi anh ta sẽ ngừng lại, cân nhắc và nói, “Không, chuyến tàu 254 sẽ tốt hơn.” Anh sẽ biết đó là anh ta vì đó không phải là những số hiệu tàu thật.”

“Trông anh có vẻ vui nhỉ,” Manielli nói.

“Cứ như từ phim The Continental Op của Dashiell Hammett bước ra vậy.”

“Đây không phải là trò chơi đâu.”

Đúng, nó không phải trò chơi, những mật khẩu cũng không phải để đùa. Nhưng nó khiến gã thấy khó chịu, tất cả cái thuyết âm mưu này. Và gã hiểu tại sao: Chính là vì gã đang phải phụ thuộc vào người khác. Paul ghét phải làm thế.

“Được rồi. Alexanderplatz! Các chuyến tàu 138 và 254. Thế nếu hắn làm rối tung câu chuyện thì sao? Nếu không phải là hắn?”

“Tôi tính tới chuyện đó rồi. Nếu thấy bất kỳ điều gì đáng ngờ, anh không được phép đánh hắn, không được tạo hiện trường. Chỉ việc mỉm cười rồi bước đi thật bình thường khi anh có thể, rồi đến địa chỉ này.”

Avery đưa cho anh một mẩu giấy, trên đó viết số nhà và tên phố. Paul ghi nhớ rồi trả mẩu giấy lại. Tay trung úy đưa cho gã một chìa khóa, gã bỏ tọt vào túi.

“Có một cung điện cũ ngay phía Nam cổng Brandeburg. Đó sẽ là Đại sứ quán Mỹ mới nhưng năm năm trước đã xảy ra một trận hỏa hoạn tồi tệ, nên vẫn đang phải tu sửa, các nhà ngoại giao vẫn chưa dọn sang đó. Thế nên người Pháp, người Đức hay người Anh cũng sẽ không lảng vảng quanh đó. Nhưng chúng ta, còn hai phòng thi thoảng vẫn dùng được. Có một máy vô tuyến điện trong phòng chứa đồ cạnh bếp. Anh có thể đánh điện cho chúng tôi ở Amsterdam và chúng tôi sẽ gọi cho Tư lệnh Gordon. Ông ấy và Thượng Nghị sĩ sẽ quyết định nên làm gì tiếp theo. Nhưng nếu mọi thứ ổn thỏa, Morgan sẽ quan tâm đến anh. Dẫn anh vào căn nhà trọ, tìm vũ khí cho anh và cung cấp cho anh tất cả mọi thông tin anh cần về… người anh sẽ ghé thăm.”

Bọn chúng tôi hay dùng từ hóa kiếp…

“Và nhớ này,” Manielli rất vui sướng được tuyên bố. “nếu ngày mai anh không xuất hiện tại Dresden, hoặc nếu anh trốn thoát khỏi Morgan sau đó, ông ta sẽ gọi cho bọn tôi và cảnh sát sẽ túa ra săn anh như săn thú đấy.”

Paul không nói gì, mặc kệ cho thằng nhóc khoe khoang. Gã nghĩ rằng Manielli vẫn thấy xấu hổ về phản ứng của mình trước vụ tự sát của Heinsler, nên cậu ta muốn gỡ gạc. Thực ra không có khả năng Paul đi làm cái trò đấy. Nhưng Gordon nói đúng: những kẻ sát thủ như gã chẳng bao giờ có được một cơ hội thứ hai - chưa kể một khoản tiền để gã tận dụng hiệt đế cơ hội ấy.

Rồi cả ba chìm trong im lặng. Chẳng còn gì nhiều mà nói nữa. Những âm thanh lấp đầy bầu không khí ẩm ướt, cay cay xung quanh họ: tiếng gió, tiếng ì oạp của những con sóng, tiếng các động cơ đang xoay của tàu Manhattan nghe trầm đục - sự pha trộn những âm thanh này mang lại cho gã cảm giác dễ chịu đến lạ lùng, bất chấp vụ tự sát của Heinsler và nhiệm vụ gian nan trước mắt. Cuối cùng, hai tay thủy thủ cùng xuống dưới.

Paul đứng dậy, châm một điếu thuốc rồi lại tựa vào lan can khi con tàu to lớn nhẹ nhàng cập cảng Hamburg. Mọi suy nghĩ hoàn toàn tập trung vào Đại tá Reinhard Ernst, một kẻ có vai trò quan họng căn bản đối với Paul Schumann, kẻ chẳng buồn quan tâm đến mối đe dọa tiềm năng của hắn đến hòa bình ở Châu Âu, cũng như đối với bao mạng người vô tội, ngoại trừ thực tế rằng, hắn là người cuối cùng tay sát thủ này sẽ giết.

Vài tiếng đồng hồ sau khi tàu Manhattan cập bến, các vận động viên cùng đoàn tùy tùng của họ lên bờ, một chàng thủy thủ trẻ tuổi từ con tàu đi qua cửa kiểm soát hộ chiếu của Đức, bắt đầu tản bộ qua các con phố ở Hamburg.

Cậu không có nhiều thời gian ở trên bờ - vì vẫn còn trẻ tuổi, cậu chi được phép vắng mặt trong 6 giờ - nhưng gần như cả cuộc đời cậu đã ở Mỹ, nên cảm thấy bị cuồng chân, cậu quyết tâm phải tận hưởng chuyến du lịch đầu tiên đến một đất nước xa lạ.

Anh chàng trợ lý nhà bếp có gương mặt nhẵn bóng, hai má đỏ hồng nghĩ rằng có thể có một số viện bảo tàng tuyệt đẹp trong thành phố. Biết đâu còn cả mấy nhà thờ trong tình trạng tốt nữa. Cậu mang theo chiếc máy ảnh Kodak, định bụng nhờ người dân địa phưong chụp cho mình mấy tấm lấy cảnh những chỗ này gửi về cho bố mẹ cậu luyện lại câu nói: (“Làm ơn, chụp cho tôi”*. Đó là chưa kể đến những quán bia hay quán nhậu… ai biết cậu có thể tìm được trò giải trí gì nữa trong thành phố cảng xô bồ này?

Nhưng trước khi có thể trải nghiệm một ít văn hóa thành phố, cậu vẫn còn mục tiêu phải hoàn thành. Cậu thấy lo lắng việc này có thể nuốt trọn thời gian quý giá của mình trên bờ, nhưng hóa ra cậu đã nhầm. Chỉ vài phút sau khi rời khỏi tòa nhà hải quan, cậu đã tìm đúng ngay thứ mình cần.

Anh chàng tiến đến gần một người đàn ông trung niên mặc đồng phục xanh dương và đội mũ màu xanh đen. Cậu cố gắng nói bằng tiếng Đức, “Làm ơn…”

“Vâng, thưa Ngài.”

Nheo mắt lại, chàng thanh niên hỏi một tràng, “Bitte, du bist ein Polizist, ờ, hay là Soldat?”

Tay sĩ quan mỉm cười, nói bằng tiếng Anh, “Đúng, đúng, tôi là Cảnh sát và tôi là một người lính. Tôi giúp được gì cho cậu?”

Hất đầu xuống con phố, tay đầu bếp nói, “Tôi tìm thấy cái này dưới đất,” Cậu trao cho người đàn ông một phong bì. “Có phải cái từ này nghĩa là “quan trọng” không?” Cậu đưa tay chỉ vào mấy chữ trên bìa: Bedeutend. “Tôi muốn chắc chắn mình phải giao nộp cái này.”

Nhìn chằm chằm mặt trước phong bì, trong một lúc, tay cảnh sát viên không nói câu nào. Rồi anh ta lên tiếng, “Đúng, đúng rồi. ‘Quan trọng.’ ” Những chữ khác được viết lên trên phong bì là Für Obersturmführer - SS, Hamburg. Tay thanh niên chẳng hiểu chúng có nghĩa là gì, nhưng có vẻ khiến tay cảnh sát bối rối.

“Cái này rơi ở đâu?” cảnh sát viên hỏi.

“Rơi trên vỉa hè đằng kia.”

“Tốt. Rất biết ơn cậu,” Tay sĩ quan tiếp tục nhìn phong bì được niêm phong. Anh ta lật lật nó trong tay mình. “Cậu có thấy được ai đánh rơi nó không?”

“Không. Tôi chi thấy nó nằm đó và nghĩ rằng tôi sẽ làm một Người tốt.”

“Ối chà, đúng rồi, Người tốt.”

“À tốt hơn tôi nên đi thôi,” anh chàng người Mỹ nói, “Tạm biệt.”

“Cảm ơn,” tay cảnh sát lơ đãng nói.

Khi thẳng tiến đến một trong những điểm du lịch hấp dẫn nhất từng đi qua, chàng thanh niên tự hỏi chính xác trong lá thư ấy viết gì. Và tại sao người đàn ông cậu gặp trên tàu Manhattan hôm qua, tay nhân viên khuân vác AI Heinsler, lại đề nghị cậu chuyển nó đến tay một cảnh sát, hay một người lính địa phương sau khi tàu cập bến. Ai cũng đồng ý rằng thằng cha đó hơi ngớ ngẩn, ở cái cách mọi thứ trong cabin của y được sắp xếp ngăn nắp đâu ra đấy, không hề lộn xộn, quần áo của y lúc nào cũng là lượt cẩn thận. Ở cá tính khép kín của y và cái cách khi nói chuyện về nước Đức với đôi mắt lúc nào cũng long lanh.

“Tất nhiên rồi, là gì thế?” Tay thanh niên hỏi.

“Có một người lạ trên tàu, có vẻ hơi đáng ngờ. Tôi muốn người Đức biết về hắn. Tôi đang cố gắng gửi một tin nhắn vô tuyến điện nhưng có lúc chúng không hoạt động. Tôi muốn chắc chắn nhà cầm quyền nhận được nó.”

“Người lạ là ai cơ? À, chờ chút, tôi biết - có phải thằng cha béo mặc áo kẻ ca rô vừa say bí tỉ trên bàn của thuyền trưởng không?”

“Không phải, là người khác.”

“Thế sao không đi báo cho cảnh vệ trên tàu?”

“Đó là vấn đề của người Đức.”

“Ồ. Và anh không thể chuyển nó đi?”

Hai bàn tay chuối mắn của Heinsler xoắn vào nhau một cách đáng sợ, y lắc đầu. “Tôi không biết mình sẽ bận rộn thế nào. Tôi nghe nói cậu được ra ngoài. Điều thực sự quan trọng là những người Đức phải nhận được nó.”

“Được rồi, tôi nghĩ vậy. Chắc rồi.”

Heinsler nói thêm bằng giọng mềm mại, “Một điều nữa: Tốt hơn là nên nói rằng cậu đã tìm được lá thư này. Nếu không họ có thể bắt cậu về đồn và tra hỏi cậu. Việc đó có thể mất đến hàng giờ. Mất hết thời gian được nghỉ phép của cậu đấy.”

Tay thanh niên cảm thấy hơi khó chịu trước âm mưu này.

Heinsler tận dụng thời cơ, nói thêm thật nhanh, “Đây là 20 đô.

Lạy Chúa, tay thanh niên nghĩ, rồi nói với tay khuân vác, “Anh vừa tự mua một chuyến giao nhận đặc biệt đấy.”

Lúc này khi bước xa khỏi tay cảnh sát viên, thẳng tiến quay về bến cảng, cậu lơ đãng tự hỏi đã xảy ra chuyện gì với Heinsler. Từ đêm qua tới giờ cậu chưa hề gặp anh ta. Tuy nhiên, những ý nghĩ về tay khuân vác biến đi nhanh chóng khi cậu đến gần nơi mình đã nhận ra, có vẻ như là một lựa chọn hoàn hảo để cậu thưởng thức lần đầu nền văn hóa nước Đức. Tuy nhiên, cậu thất vọng khi thấy Câu lạc bộ Mèo Con Nóng bỏng của Rosa - cái tên mỹ miều được dịch hoàn hảo sang tiếng Anh - đã đóng cửa lâu dài, giống hệt mọi tụ điểm hấp dẫn khác trên bến cảng.

Rốt cuộc, nơi này sẽ lại biến thành nhà thờ hay bảo tàng thôi, tay thanh niên nghĩ kèm tiếng thở dài tiếc nuối.

AOC: Ủy ban Olympic Australia.

American Bund: Từ “Bund” trong câu này mang nghĩa là con đê, đập.

cậu luyện lại câu nói: (“Làm ơn, chụp cho tôi”: Nguyên văn văn tiếng Đức: Bitte, das Foto?