CHƯƠNG 6
“Cái gì cơ?” Paul Schumann hỏi.
Morgan thở dài. “Sturmabteilung. Đội Xung Kích Bão Tố. Hoặc Áo Nâu. Một kiểu quân đội của riêng Đảng này. Hãy nghĩ về chúng như những kẻ sát nhân của Hitler.” Ông lắc đầu. “Thế này thì tệ cho chúng ta rồi. Hắn không mặc đồng phục. Như thế có nghĩa hắn là Kẻ Ưu Tú Áo Nâu. Một trong những cấp trên của chúng.”
“Làm thế nào hắn tìm ra tôi?”
“Tôi không chắc hắn làm thế, cụ thể là không phải với cậu. Hắn đã ở trong bốt điện thoại kiểm tra mọi người qua lại trên phố.”
“Tôi không trông thấy hắn,” Paul nói, giận dữ với chính mình vì bỏ sót một tên theo dõi như thế. Mọi thứ ở đây đều chẳng có thứ tự gì hết, gã chẳng hiểu mình phải chú ý cái gì và không chú ý cái gì.
Morgan nói tiếp “Ngay sau khi cậu bắt đầu bước vào ngõ, hắn đã bám theo cậu. Tôi sẽ nói rằng đích thân hắn muốn đi tìm hiểu xem cậu định làm gì - một kẻ xa lạ trong khu vực. Những kẻ Áo Nâu đều sở hữu những lãnh địa của riêng mình. Chắc đây là lãnh địa của riêng hắn.” Ông nhăn nhó. “Nhưng dù sao việc chúng cảnh giác như vậy là điều bất thường. Câu hỏi là tại sao một tên SA cấp cao lại đi theo dõi một công dân bình thường? Lẽ ra chúng nên để việc này cho cấp dưới. Có thể một báo động nào đó được ban ra.” Ông nhìn chằm chằm cái xác. “Trong bất kỳ trường hợp nào, đây là một rắc rối. Nếu những kẻ Áo Nâu phát hiện một trong số thành viên của chúng bị giết, chúng sẽ không ngừng truy đuổi cho đến khi tìm được kẻ sát nhân. Phải, chúng sẽ làm đấy. Có đến hàng chục nghìn tên trong thành phố. Như bầy gián vậy.”
Cú sốc ban đầu vì bị bắn đã tan đi. Những bản năng của Paul đang quay trở lại. Gã bước khỏi con ngõ cụt vào phần không gian chính của ngõ Dresden. Ngõ vẫn vắng tanh. Những ô cửa sổ đen ngòm. Không một chiếc cửa ra vào nào mở. Gã giơ một ngón tay về phía Morgan rồi quay ra lối vào ngõ, nhìn xung quanh ngõ, về phía Nhà Bia. Có vẻ không có ai trong số vài người trên phố nghe thấy tiếng súng.
Gã quay lại nói với Morgan rằng mọi thứ có vẻ an toàn, rồi bảo. “Vỏ đạn.”
“Cái gì?”
“Vỏ đạn. Từ khẩu súng của ông.” Họ nhìn xuống đất, Paul để ý thấy cái ống nhỏ màu vàng. Gã nhặt nó lên bằng khăn tay, lau sạch phòng trường hợp có dấu tay Morgan trên đó, rồi thả vào trong đường ống thoát nước. Gã nghe tiếng lanh canh một lúc cho đến khi nghe tiếng nước bắn tóe.
Morgan gật đầu. “Họ nói cậu là tay giỏi đấy.”
Không đủ giỏi để tránh khỏi bị bắt quay về Mỹ, vì một chuyện nhỏ giống như chuyện này.
Morgan mở con dao bỏ túi đã mòn xơ. “Chúng ta sẽ cắt hết các huy hiệu ra khỏi quần áo của hắn. Lấy đi hết đồ tùy thân.
Sau đó chuồn khỏi đây càng nhanh càng tốt. Trước khi chúng tìm ra hắn.”
“Thế ‘chúng’ là ai?” Paul hỏi.
Một tiếng cười gượng gạo nở trên môi Morgan. “Bây giờ nói theo tiếng Đức, ‘chúng’ nghĩa là tất cả mọi người.”
“Tên Xung kích này có hình xăm không? Có thể là dấu thập ngoặc đó? Hay các chữ cái ‘SA’?”
“Phải, có khả năng.”
“Tìm xem có không. Trên hai cánh tay và ngực.”
“Và nếu tôi tìm ra một hình?” Morgan nhíu mày hỏi “Chúng ta có thể làm gì với nó?”
Paul hất đầu về phía con dao.
“Cậu đùa tôi à?”
Nhưng nét mặt Paul cho thấy gã không đùa.
“Tôi không làm thế được,” Morgan thì thầm.
“Vậy thì tôi sẽ làm. Điều quan trọng là để hắn không nhận diện được. Chúng ta phải làm.” Paul cúi xuống mặt đường đá cuội, cởi áo vest và áo sơ mi của tên kia. Gã có thể hiểu được Morgan thấy khó chịu, nhưng với một sát thủ đây cũng là một công việc như mọi công việc khác. Bạn dành trăm phần trăm sức lực cho nó, hoặc bạn tốt hơn nên đi tìm việc khác. Và một hình xăm bé nhỏ cũng có thể tạo ra sự khác biệt sinh tử.
Nhưng hóa ra gã không tiến hành được việc lột da này, cơ thể hắn ta không hề có hình xăm.
Một tiếng quát bất ngờ vang lên.
Cả hai cứng người lại. Morgan nhìn lên con ngõ. Bàn tay ông lại lan đến khẩu súng ngắn. Paul cũng nắm chắc vũ khí gã lấy trộm của tên Xung kích.
Giọng nói lại cất lên. Sau đó là im lặng, ngoại trừ tiếng xe đi lại. nhưng một lúc sau, Paul có thể phát hiện tiêng còi báo động kỳ lạ, lên cao rồi xuống thấp, đang tiến đến ngày càng gần.
“Cậu nên đi ngay đi,” Morgan gấp gáp nói. “Tôi sẽ giải quyết hắn.” Ông suy nghĩ một lát. “Gặp tôi trong vòng bốn mươi lăm phút nữa. Có một nhà hàng tên là Khu Vườn Mùa Hạ trên phố Rosenthalet, phía Tây bắc Alexander Plaza. Tôi có người liên lạc nắm được thông tin về Reinhard Ernst. Tôi sẽ thu xếp để anh ta gặp chúng ta tại đó. Quay lại con phố phía trước nhà bia. Cậu phải bắt một taxi để tới đó. Trên tàu điện ngầm và xe buýt luôn có cảnh sát đi theo. Hoặc bắt taxi hoặc đi bộ tùy cậu chọn. Nhìn thẳng phía trước mà đi, không được quay sang nhìn bất kỳ ai.”
“Khu Vườn Mùa Hạ,” Paul nhắc lại, nhấc va li lên, phủi bụi bám trên lớp da. Gã bỏ khẩu súng của tên Xung kích vào trong. “Từ giờ trở đi, tôi sẽ chỉ dùng tiếng Đức. Sẽ ít bị nghi ngờ hơn.”
“Ý hay,” Morgan nói bằng tiếng bản xứ. “Cậu nói chuẩn lắm, tốt hơn tôi tưởng đấy. nhưng nhớ phát âm chữ G nhẹ thôi. Như thế giọng cậu sẽ nghe giống một người Berlin.”
Một tiếng quát nữa. Tiếng còi ngày một gần. “Ôi, Schumann - nếu tôi không có mặt tại đó trong một giờ nữa? Chiếc vô tuyến điện mà Bull Gordon đã nói với cậu, trong tòa nhà đại sứ còn hoạt động được chứ?”
Paul gật đầu.
“Cậu gọi cho họ, bảo họ rằng cậu cần những chỉ dẫn mới.” Một tiếng cười buồn. “Và cậu có thể thông báo luôn với họ về cái chết của tôi. Giờ ra khỏi đây ngay đi. Không ngừng nhìn thẳng về phía trước, cứ tỏ ra thật bình thường. Và cho dù có xảy ra chuyện gì, không được chạy.” ‘
‘Không được chạy? Tại sao?1
“Bởi vì có quá nhiều người trong đất nước này sẽ đuổi theo cậu, đơn giản chỉ vì cậu đang chạy. Giờ thì nhanh lên!” Morgan quay lại làm tiếp nhiệm vụ của mình, với sự chính xác nhanh nhạy của một thợ may.
Chiếc xe màu đen, bóng loáng tấp vào vỉa hè gần con ngõ, nơi ba tay sĩ quan Cảnh sát đô thị đứng, mặc đồng phục xanh sạch tinh tươm với phù hiệu trên ve áo màu cam tươi, đầu đội mũ sa-cô màu xanh đen.
Một người đàn ông có ria mép tuổi trung niên, mặc bộ vest ba lớp bằng vải lanh trắng nhạt xuống xe, với ghế hành khách được nâng lên cao vài phân khiến ông đỡ mệt vì tấm thân to béo. Ông đội chiếc mũ Panama lên mái tóc thưa màu muối tiêu được chải mượt về phía sau, tay búng vào đám thuốc đang cháy âm ỉ từ cái tẩu bằng đất sét trắng.
Động cơ xe khục khặc một hồi rồi cuối cùng im lặng. Bỏ vào túi cái tẩu màu vàng, Thanh tra Willi Kohl liếc nhìn xe của họ với sự tức giận. Các nhà điều tra Gestapo và SS hàng đầu đều đi Mercedes và BMW, nhưng các thanh tra của Cảnh sát Hình sự, thậm chí cả những thanh tra cấp cao như Kohl vẫn chỉ được cấp loại xe Auto Union. Và với bốn vòng khóa liên động đại diện cho bốn công ty hợp tác - Audi, Horch, Wanderer và DKW - vốn dĩ, chiếc xe này là mẫu cũ đã hai năm tuổi của loại xe khiêm tốn nhất thuộc dòng này được dành cho Kohl (nói dễ nghe, trong khi xe ông chạy xăng nên ba chữ cái đầu này nên được hiểu là “xe chạy bằng hơi nước”).
Konrad Janssen, mày râu nhẵn nhụi, không đội mũ như nhiều ứng cử viên thanh tra trẻ ngày nay, xuất hiện từ ghế lái, hai tay cài lại cúc chiếc áo choàng lụa màu xanh, hai lớp lót ngực. Cậu ta mang theo một va li cùng một hộp máy ảnh Leica từ trong cốp xe.Vỗ vỗ vào túi để chắc chắn mình mang theo sổ tay và các phong bì đựng bằng chứng, Kohl thả bộ đến chỗ các Cảnh sát.
“Hail Hitler, Thanh tra,” người lớn tuổi nhất trong bộ ba nói, có nét quen thuộc trong giọng cậu ta. Kohl không nhận ra cậu ta và tự hỏi họ đã gặp nhau hay chưa. Cảnh sát - những con người tuần tra thành phố - có thể đôi khi hỗ trợ các thanh tra, nhưng theo nghĩa đen họ thuộc quyền chỉ huy của lực lượng Cảnh sát Hình sự. Kohl hiếm khi có liên hệ đều đặn với bất kỳ ai trong số này.
Kohl giơ cánh tay lên tương tự cách chào trong Đảng. “Xác chết đâu?”
“Đằng kia, thưa sếp,” cậu ta đáp. “Ngõ Dresden.” Hai sĩ quan khác đứng nửa nghiêm nửa nghỉ. Họ thận trọng. Các sĩ quan này rất giỏi điều khiển giao thông, bắt những kẻ móc túi và giải tán đám đông khi Hitler đi xuống đại lộ rộng Under the Lindens, nhưng án mạng hôm nay đòi hỏi sự nhận thức của họ. Một vụ cướp của giết người yêu cầu họ bảo vệ hiện trường thật cẩn thận, một vụ giết các Thành viên Xung kích hoặc SS nghĩa là họ phải biến càng nhanh càng tốt, quên ngay những gì mình đã thấy.
Kohl nói với tay cảnh sát đô thị nhiều tuổi, “Kể tôi nghe những gì cậu biết đi.”
“Vâng, thưa sếp. Nhưng tôi e là không nhiều. Đồn cảnh sát Tiergaten nhận được một cuộc gọi nên tôi đến đây ngay lập tức. Tôi là người đầu tiên đến.”
“Ai gọi?” Kohl bước vào ngõ nhìn lại ba sĩ quan, nôn nóng ra hiệu họ vào theo.
“Bà ta không nói tên. Là một phụ nữ. Bà ta nghe thấy tiếng súng bắn quanh đây.”
“Bà ta gọi lúc mấy giờ?”
“Vào khoảng buổi trưa, thưa sếp.”
“Cậu đến đây khi nào?”
“Tôi đi ngay sau khi chỉ huy của tôi báo động cho tôi.”
“Và cậu đến đây khi nào?” Kohl hỏi lại.
“Có lẽ là hai mươi phút sau buổi trưa. Có lẽ là ba mươi phút.” Cậu ta chỉ xuống con ngách hẹp kết thúc bằng ngõ cụt.
Nằm ngửa trên mặt đường đá cuội là một người đàn ông tầm bốn mươi tuổi, phì nộn, vết thương một bên đầu cho thấy nguyên nhân chết do mất máu nhiều. Quần áo lộn xộn, các túi đêu bị lộn ra. Không nghi ngờ gì anh ta đã bị giết ở đây, nhìn vết máu là đủ để đưa ra kết luận này.
Thanh tra nói với hai cảnh sát đô thị trẻ hơn, “Hai cậu làm ơn đi xem có nhân chứng nào không, đặc biệt là bất kỳ ai ở trước lối vào con ngõ này. Và trong những tòa nhà ở đấy nữa.” Ông hất đầu về phía hai kết cấu bằng gạch xung quanh - cho dù ông để ý rằng chúng không có cửa sổ. “Và quán cà phê chúng tôi đã đi qua. Nhà Bia, nó được gọi như thế.”
“Rõ, thưa sếp.” Hai người quay bước đi lên.
“Cậu có khám xét anh ta không?”
“Không,” Tay Cảnh sát đô thị nhiều tuổi đáp, rồi nói thêm “Dĩ nhiên chỉ để xác minh rằng anh không phải người Do Thái thôi.”
“Vậy là cậu đã khám xét anh ta.”
“Tôi chỉ đơn giản cởi quần dài của anh ta thôi. Nhưng tôi đã mặc lại. Như ông có thể thấy.”
Kohl tự hỏi có hay không người ra quyết định dành mức ưu tiên rất thấp cho những cái chết của người bị cắt bao quy đầu, có cân nhắc chuyện đôi khi quy trình được thực hiện vì những lý do y tế, có lẽ ngay cả đối với những đứa trẻ Aryan ưu việt nhất.
Kohl tìm kiếm các túi, nhưng không thấy giấy tờ nhận dạng nào. Thực ra, chẳng có gì để nhận dạng cả. Tò mò thật.
“Cậu không lấy cái gì của anh ta đấy chứ? Không có tài liệu hay đồ đạc cá nhân nào à?””
“Không có, thưa sếp.”
Thanh tra thở nặng nhọc khi quỳ xuống, thanh tra xem xét thận trọng cái xác và thấy hai bàn tay người đàn ông mềm mại, không có vết chai. Ông lên tiếng, nửa nói với chính mình, nửa nói với Konrad Janssen, “Với đôi bàn tay này, móng tay và lông tay được cắt tỉa cẩn thận và mùi hương bột Talc còn vương lại trên da, cho thấy anh ta không làm việc chân tay. Tôi thấy dấu mực trên các ngón tay nhưng không nhiều, cho thấy anh ta không làm trong ngành in ấn. Thêm vào đó hoa văn cho thấy rằng mực này đến từ bản viết tay, có khả năng là những cuốn sổ cái và thư từ. Anh ta không phải là phóng viên, nếu thế hẳn anh ta sẽ mang những dấu vết than chì trên hai tay, nhưng tôi không thấy gì hết.” Kohl biết điều này vì ông từng điều tra cái chết của hàng tá phóng viên, ngay sau khi Chủ nghĩa Phát xít lên nắm quyền. Chưa vụ nào trong số này kết thúc, cũng như không vụ nào đang được tích cực điều tra. “Thương nhân, tay chuyên nghiệp, viên chức, nhân viên chính phủ…”
“Cả dưới các móng tay cũng không có gì, thưa sếp.”
Kohl gật đầu rồi xem xét hai chân nạn nhân. “Nhiều khả năng nhất nạn nhân là người trí thức, như tôi đã nói. nhưng hai chân anh ta rất cơ bắp. Và hãy nhìn đôi giày đã quá mòn này. Chà, chúng khiến đôi chân tôi bỏng rát khi tôi vừa nhìn thấy. Phán đoán của tôi đó là anh ta là người đi bộ và đó là đi bộ đường dài.” Thanh tra gầm gừ khi ông vất vả đứng lên.
“Ra ngoài đi dạo sau bữa ăn trưa sớm.”
“Phải, rất có khả hăng. Có một cái tăm ở đây, có thể là của anh ta.” Kohl rút cái tăm ra đưa lên mũi ngửi. Mùi tỏi. Ông cúi xuống ngửi mùi hương tương tự gần miệng nạn nhân. “Đúng, tôi tin là vậy.” Ông thả cái tăm vào một trong những chiếc phong bì giấy màu nâu nhỏ rồi niêm phong lại.
Tay sĩ quan trẻ nói tiếp. “Thế là nạn nhân một vụ cướp.”
“Chắc chắn đó là một khả năng,” Kohl chậm rãi nói. “Nhưng tôi không nghĩ vậy. Một tên cướp sẽ lấy đi mọi thứ người đàn ông này có trên người? Nhưng không hề có bất kỳ dấu vết bỏng thuốc súng nào trên cổ hoặc tai. Như thế có nghĩa là viên đạn được bắn từ khoảng cách nào đó. Tên cướp hẳn là sẽ đứng gần hơn, chạm trán anh ta mặt đối mặt. Người này bị bắn từ phía sau và bên cạnh.” Một cái liếm lên đầu cây bút chì mập mạp, Kohl ghi lại những quan sát này vào cuốn sổ tay có nếp gấp. “Phải, phải, tôi chắc chắn có những tên cướp sẽ chờ đợi, bắn chết nạn nhân rồi ra tay cướp. Nhưng điều đó không thích hợp với những gì chứng ta biết về hầu hết bọn trộm, đúng không?”
Vết thương cũng cho thấy rằng kẻ sát nhân không phải là Gestapo, SS hoặc đội Xung Kích. Trong những vụ thế này, viên đạn thường được bắn thẳng vào phía trước não hoặc vào lưng.
“Anh ta đang làm gì trong ngõ nhỉ?” cậu thanh tra học việc thích thú, nhìn xung quanh như thể câu trả lời đang nằm dưới đất.
“Câu hỏi không hấp dẫn chúng tôi đâu, Janssen. Đây là một lối tắt quen thuộc giữa phố Spener và phố Calvin. Mục đích của anh ta có thể là không hợp pháp, nhưng chúng ta sẽ phải biết về điều đó từ bằng chứng, hơn là căn cứ vào tuyến đường của anh ta.” Kohl xem xét lần nữa vết thương trên đầu, rồi bước đến bức tường của con ngõ trên đó có lượng lớn máu bắn lên.
“A.” Thanh tra vui sướng tìm thấy một viên đạn. Nó đang nằm nơi giao nhau giữa mặt đường đá cuội với tường gạch. Ông thận trọng nhặt nó lên bằng khăn giấy. Nó chỉ hơi lõm một chút. Ông nhận ra ngay lập tức đây là viên đạn nhỏ 9mm. Điều này có nghĩa nhiều khả năng nhất nó được bắn từ một khẩu súng ngắn tự động, vỏ đạn đồng tái sử dụng hẳn đã văng ra.
Ông nói với viên Cảnh sát đô thị thứ ba, “Sĩ quan, làm ơn nhìn quanh mặt đất chỗ này, nhìn kỹ từng cen-ti-met xem có vỏ đạn đồng không.”
“Rõ, thưa sếp.”
Rút ra chiếc kính lúp một mắt từ túi áo gi-lê và nhìn qua, Kohl xem xét đầu đạn. “Hình dáng viên đạn rất tốt. Rất đáng khích lệ. Chúng ta sẽ mang về Alex. Mấy cái khía nổi và khía chìm của rãnh xoắn, xem chúng cho ta biết điều gì. Rất sắc đấy.”
“Vậy là kẻ sát nhân có một khẩu mới,” Janssen gợi ý, rồi chuốt thêm nhận xét của mình. “Hoặc là một khẩu cũ nhưng hiếm khi sử dụng.”
“Rất tốt, Janssen. Đó chính là những từ tôi sắp nói.” Kohl bỏ viên đạn nhỏ vào một phong bì nâu khác rồi cũng niêm phong lại, bổ sung thêm các ghi chú.
Janssen nhìn lại cái xác. “Nếu anh ta không bị cướp, vậy thì tại sao chúng lại lộn ra làm gì?” Cậu ta hỏi. “Ý tôi là những cái túi.”
“À tôi không có ý nói anh ta không bị cướp. Tôi chỉ đơn giản không chắc chắn rằng cướp là động cơ ban đầu… À, cởi lại áo vest ra đi.”
Janssen cởi chiếc áo ra.
“Thấy những sợi chỉ không?”
“Ở đâu?”
“Ngay đây này?” Kohl chỉ.
“Rồi, thưa sếp.”
“Huy hiệu đã bị cắt đi. Toàn bộ trang phục của anh ta cũng thế, đúng chưa?”
“Dấu hiệu xác nhận/” tay thanh niên nói, gật đầu khi xem quần dài và áo sơ mi. “Kẻ sát nhân không muốn chúng ta biết hắn đã giết ai.”
“Những dấu hiệu trong đôi giày thì sao?”
Janssen cởi giày ra và xem xét. “Không có gì, thưa sếp.”
Kohl liếc nhìn chúng, rồi sờ vào áo vest của người quá cố. “Bộ vest này được làm bằng… sợi thế phẩm.” Thanh tra đã suýt phạm sai lầm khi dùng từ “sợi Hitler,” một từ ám chỉ vải giả mạo được làm bằng thớ gỗ. (Một trò đùa nổi tiếng: Nếu bộ vest của bạn bị rách, đổ nước vào nó rồi phơi dưới nắng, vải sẽ chuyển sang màu đen). Lãnh tụ đã tuyên bố những kế hoạch để đất nước mình không phụ thuộc vào hàng ngoại nhập. Dây chun, bơ thực vật, gas, dầu máy, cao su, vải vóc - tất cả đều được sản xuất từ các nguyên liệu thay thế được tìm thấy tại Đức. Dĩ nhiên vấn đề cũng tương tự với những đồ thay thế ở khắp nơi - đơn giản là chúng không tốt và đôi khi người ta gọi chúng một cách khinh miệt là “hàng Hitler.” nhưng sẽ là thiếu khôn ngoan khi nói bô bô điều đó ở nơi công cộng, vì có thể bị tố cáo.
Phát hiện quan trọng đó là nạn nhân có khả năng là người Đức. Hâu hết người nước ngoài trong nước ngày nay đều có tiền tệ để chuyển đổi. Đồng nghĩa với việc sức mua của họ rất mạnh, nên không ai còn thèm mua trang phục rẻ tiền như thế này nữa.
Nhưng tại sao kẻ sát nhân muốn che giấu bí mật thân phận nạn nhân? Bộ trang phục thế phẩm chẳng cung cấp thông tin quan trọng gì về anh ta. Nhưng rồi Kohl tự nhủ, nhiều nhân vật cao cấp trong Đảng Phát xít được trả lương bèo bọt và thậm chí cả những người được trả lương hậu cũng thường mặc quần áo thế phẩm để tỏ lòng trung thành với Lãnh tụ. Có thể nào công việc của nạn nhân trong Đảng, hoặc cho Chính phủ, mới là động cơ cho cái chết của anh ta?
“Thú vị,” Kohl nói, khó nhọc đứng lên. “Kẻ sát nhân bắn chết một người đàn ông tại một nơi đông đúc trong thành phố. Hắn ta biết ai đấy có thể nghe thấy tiếng súng, thế nhưng vẫn bất chấp rủi ro bị phát hiện để tước hết các huy hiệu trên quần áo nạn nhân. Điều này khiến tôi càng háo hức muốn được biết quý ông bất hạnh này là ai. Lấy dấu vân tay anh ta đi, Janssen. Nếu đợi nhân viên điều tra cái chết bất thường làm việc đó, sẽ phải đợi đến thiên thu đấy.”
“Rõ, thưa sếp.” Tay sĩ quan mở va li của mình, lấy thiết bị ra rồi bắt đầu làm việc.
Kohl nhìn chằm chằm mặt đường đá cuội. “Tôi đang nói ‘kẻ sát nhân,’ ngôi số ít, Janssen ạ. Nhưng có thể là mười hai tên. Nhưng tôi không thấy được dấu tích của sự kiện này trên mặt đất.” Tại các hiện trường tội ác rộng lớn hơn, cơn gió mạnh mẽ trứ danh của Berlin hẳn sẽ trải lớp bụi tố cáo trên mặt đất. Nhưng trong con ngõ kín đáo này thì không.
“Thưa Ngài… Thanh tra,” viên sĩ quan Cảnh sát đô thị gọi. “Tôi không thể tìm thấy vỏ đạn ở đây. Tôi đã tìm khắp cả chỗ này rồi.”
Thông tin này khiến Kohl buồn lòng, Janssen nắm bắt được biếu hiện của ông.
“Đó là vì,” thanh tra giải thích, “hắn ta không chỉ cắt bỏ hết huy hiệu trên người nạn nhân này, mà còn có thời gian tìm ra vỏ đạn nữa.”
“Vậy thì hắn là tay chuyên nghiệp.”
“Như tôi đã nói, Janssen. Khi tiến hành những phép loại trừ, đừng bao giờ tuyên bố các kết luận của cậu như thể những kết luận chắc chắn. Khi cậu làm thế, tư duy của cậu theo bản năng sẽ loại trừ hết những khả năng khác. Thay vào đó hãy nói rằng nghi phạm của chúng ta có thể có trí thông minh cao, hay chú ý đến tiểu tiết. Có thể là tội phạm chuyên nghiệp, có thể không. Cũng có thể do chuột hay chim đã tha mẩu kim loại ấy đi, hoặc một thằng nhóc học sinh nào đó nhặt nó lên, rồi chuồn thẳng khi nhìn thấy một người chết. Hoặc thậm chí kẻ sát nhân là một người nghèo mong muốn tái sử dụng kim loại đồng.”
“Dĩ nhiên, thưa Thanh tra,” Janssen nói, gật đầu như thể đang ghi nhớ những lời của Kohl.
Trong thời gian ngắn họ làm việc cùng nhau, Thanh tra đã biết được hai điều về Janssen: một, chàng thanh niên này không có khả năng giả vờ ngu và hai, cậu ta học hỏi khá nhanh. Phẩm chất thứ hai này chính là năng lực cần thiết đối với một thanh tra thiếu kiên nhẫn. Cho dù đối với phẩm chất thứ nhất, ông mong chàng trai này phải biết đùa thường xuyên hơn, làm cảnh sát sẽ là một công việc rất tệ nếu thiếu chất hài hước.
Janssen đã hoàn tất lấy dấu vân tay, cậu ta thực hiện rất chuyên nghiệp.
“Giờ thì phủi bụi các mặt đường đá cuội xung quanh anh ta, chụp lại bất kỳ dấu vết nào cậu tìm thấy. Kẻ sát nhân có thể đủ thông minh cắt hết huy hiệu đi, nhưng không thông minh đến mức tránh chạm mặt đất khi hắn làm thế.”
Sau năm phút rải thứ bột mịn quanh xác chết, Janssen nói, “Tôi tin rằng có vài dấu vết ở đây, thưa sếp. Nhìn này.”
“Đúng. Chúng tốt lắm đấy. Ghi lại đi.”
Sau khi chụp ảnh những dấu vết, chàng thanh niên đứng lùi lại chụp thêm vài tấm xác chết và hiện trường. Thanh tra chậm rãi bước vòng quanh cái xác. Ông lại rút ra chiếc kính lúp từ trong túi để đồng hồ trên áo vest, quàng vào cổ sợi dây màu xanh của kính lúp được Hanna trẻ trung tết cho ông như món quà Giáng Sinh. Ông xem xét một điểm trên mặt đường đá cuội gần xác chết. “Có vẻ như những mảnh đồ da.” Ông nhìn chúng thật kỹ. “Cũ và khô. Có màu nâu. Quá cứng, không thể là găng tay. Có thể là giày hoặc một dây đai, hoặc ba lô hay va li cũ mà kẻ sát nhân hoặc nạn nhân mang theo.”
Ông móc những mảnh đồ da này lên, bỏ vào một phong bì nâu khác nữa, làm ẩm bằng keo dính rồi dán lại.
“Chúng ta có một nhân chứng, thưa sếp,” một trong số hai sĩ quan Cảnh sát đô thị trẻ tuổi gọi. “Cho dù anh ta không hợp tác lắm.”
Nhân chứng. Tuyệt vời! Kohl đi theo cậu ta quay ra đầu ngõ. Ở đó, tay sĩ quan Cảnh sát đô thị khác đang đe dọa một ngưòi đàn ông khoảng bốn mươi tuổi, Kohl thầm đoán. Anh ta ăn mặc quần áo công nhân. Mắt trái anh ta lắp kính, cánh tay phải buông thõng vô dụng một bên người. Một trong số bốn triệu người sống sót qua Thế Chiến thứ I, nhưng cơ thể họ mãi mãi bị thay đổi do trải nghiệm không thể hiểu nổi.
Viên sĩ quan đẩy anh ta về phía Kohl.
“Thế được rồi, Sĩ quan,” thanh tra nghiêm khắc nói. “Cảm ơn.” Quay về phía nhân chứng, ông hỏi, “Cho tôi xem thẻ của anh.”
Người đàn ông trình chứng minh thư, Kohl liếc nhìn. Ngay khi trả lại, ông đã quên toàn bộ nội dung của nó, nhưng việc xem xét chiếu lệ giấy tờ của viên sĩ quan cảnh sát, lại khiến nhân chứng tỏ ra cực kỳ hợp tác.
Cho dù không phải trường hợp nào cũng thế.
“Tôi muốn trở nên có ích. Nhưng như tôi đã nói với cậu sĩ quan, thưa sếp. Thực sự tôi không thấy nhiều chi tiết đâu.” Nói rồi anh ta im lặng.
“Rồi, rồi, nói tôi nghe anh đã thực sự thấy gì.” Một cử chi sốt ruột từ bàn tay mập mạp của Kohl.
“Vâng, Thanh tra. Tôi đang cọ rửa các cầu thang tầng hầm trên phố 48. Đằng kia.” Anh ta chỉ ra ngoài con ngõ đến một ngôi nhà trên phố. “Như ông có thể thấy. Tôi đang đứng thấp hơn vỉa hè, thì nghe thấy âm thanh mà tôi cho là tiếng nổ sớm.”
Kohl càu nhàu. Kể từ năm 1933 chẳng còn ai, ngoại trừ những thằng ngu mới cho đó là tiếng nổ sớm, họ phải giả sử đó là những viên đạn.
“Tôi không nghĩ đến nó và tiếp tục cọ rửa.” Anh ta chứng minh điều này bằng cách chỉ tay vào áo sơ mi và quần dài ẩm ướt. “Rồi mười phút sau tôi nghe thấy một tiếng huýt sáo.”
“Huýt sáo? Tiếng huýt sáo của cảnh sát à?”
“Không, thưa sếp. Ý tôi là như ai đó thổi qua kẽ răng vậy. Nghe to lắm. Tôi ngước mắt lên thấy một người đàn ông bước ra từ con ngõ. Tiếng huýt sáo là để gọi taxi. Nó dừng lại ngay trước tòa nhà của tôi. Tôi nghe thấy người đàn ông đề nghị tài xế đưa anh ta đến nhà hàng Khu Vườn Mùa Hạ.”
Huýt sáo? Kohl tự nhủ. Chuyện này không bình thường. Nhưng gọi taxi theo cách này sẽ là thiếu tôn trọng tài xế. Tại Đức, tất cả các nghề nghiệp, ngành kinh doanh đều xứng đáng được tôn trọng như nhau. Phải chăng điều này cho thấy nghi phạm là người nước ngoài? Hay đơn thuần chỉ là kẻ thô bạo? Ông ghi chép thông tin này vào sổ tay.
“Biển số xe taxi là gì?” Dĩ nhiên Kohl phải hỏi, nhưng lại nhận được câu trả lời như dự kiến.
“Ồ, tôi không biết, thưa ngài.”
“Khu Vườn Mùa Hạ.” Cái tên này chung chung quá. “Là chỗ nào?”
“Tôi tin rằng mình nghe thấy cái tên: Phố Rosenthaler.”
Kohl gật đầu, phấn chấn khi tìm thấy đầu mối tốt sớm thế này trong cuộc điều ra. “Mô tả nhanh - người đó trông thế nào?”
“Tôi đứng dưới cầu thang như đã nói. Tôi chỉ thấy lưng anh ta khi anh ta gọi xe. Có khổ người to cao, khoảng hơn hai mét. Cao lớn nhưng không mập. Nhưng anh ta có trọng âm khi nói.”
“Loại nào? Từ một vùng khác tại Đức à? Hay từ quốc gia khác?”
“Giống như người đến từ phía Nam, nếu có thể nói được thế. Nhưng tôi có một người anh em tại Munich và nghe vẫn khác hẳn.”
“Có lẽ người nước ngoài chăng? Giờ ở đây nhiều người nước ngoài lắm, Thế vận hội mà.”
“Tôi không biết, thưa sếp. Tôi sống cả đời mình ở Berlin. Và tôi mới chỉ một lân đi xa khỏi Tổ quốc thôi.” Anh ta nhìn xuống cánh tay vô dụng.
“Hắn có mang theo va li bằng da không?”
“Có, tôi tin là vậy.”
Quay sang Janssen, Kohl nói, “Đây có khả năng là nguồn gốc những mảnh da.” Rồi ông quay lại. “Anh không thấy được mặt hắn à?”
“Không, thưa sếp. Như tôi đã nói.”
Kohl hạ giọng xuống, “Nếu tôi bảo rằng tôi sẽ không nói ra tên anh, vậy thì anh sẽ không còn liên quan gì nữa. Anh có thể nhớ được gì hơn về ngoại hình của hắn không?”
“Thành thật mà nói, thưa sếp, tôi không nhìn thấy mặt anh ta.”
“Còn tuổi?”
Người đàn ông lắc đầu. “Tôi chỉ biết rằng trông anh ta cao lớn, mặc bộ quần áo sáng màu… Tôi e là mình không nói được về màu sắc. À trên đầu anh ta đội mũ giống mũ của Bộ trưởng Không quân Göring.”
“Kiểu mũ gì thế?” Kohl hỏi.
“Với vành mũ hẹp. Màu nâu.”
“À, cái này có ích đấy.” Kohl nhìn tay gác cửa từ đầu xuống chân. “Rất tốt, giờ anh đi được rồi.”
“Hail Hitler,” anh ta nói với sự nhiệt tình xúc động, đứng chào nghiêm chỉnh, có lẽ để đền bù cho thực tế rằng anh ta phải dùng tay trái để chào.
Thanh tra chỉ nói ngắn gọn “Chào” rồi quay lại với cái xác. Họ nhanh chóng thu thập dụng cụ. “Phải nhanh lên. Đến ngay Khu Vườn Mùa Hạ.”
Họ bắt đầu quay ra xe. Willi Kohl nhăn mặt nhìn xuống chân ông. Ngay cả có đi đôi giày da đắt cắt cổ được đệm bằng thứ lông cừu mềm mại nhất, cũng không thể cứu những ngón chân của ông không đau nhức. Mặt đường đá cuội đặc biệt tàn nhẫn.
Bất ngờ ông thấy Janssen, đi bên cạnh ông, bước chậm lại. “Gestapo,” tay thanh niên thì thầm.
Lo lắng, Kohl ngước mắt lên và thấy Peter Krauss, trong bộ vest nâu xấu xí, chiếc mũ nỉ mềm tiến đến gần. Hai trong số những trợ lý của anh ta, trông trẻ hơn, tầm bằng tuổi Janssen, đi phía sau.
Ôi, không phải bây giờ! Nghi phạm đúng lúc này có thể đang ở nhà hàng, không hề nghi ngờ rằng hắn đã bị phát hiện.
Krauss bước về phía hai tay Thanh tra Cảnh sát một cách ung dung. Bộ trưởng Truyền thông Goebbels luôn luôn cử thợ ảnh của Đảng, đi bố trí chụp ảnh những người Aryan lý tưởng cùng gia đình họ để sử dụng trong chiến dịch tuyên truyền. Peter Krauss có thể đã dễ dàng trở thành hình mẫu cho hàng trăm bức ảnh như thế. Anh ta là người có vóc dáng cao, mảnh khảnh, tóc vàng. Một đồng nghiệp cũ của Kohl. Krauss được nhận lời mời tham gia Gestapo vì kinh nghiệm trước kia của anh ta tại Phòng 1A cũ của Cảnh sát, chuyên điều tra các tội ác chính trị. Ngay sau khi Đảng Phát xít lên nắm quyền, phòng này được giải tán và trở thành Gestapo. Krauss cũng như nhiều người Đức gốc Phổ khác: Người Bắc Âu với một ít dòng máu Slavơ trong huyết mạch, nhưng văn phòng đồn thổi rằng anh ta được mời rời bỏ hàng ngũ Cảnh sát, đến nhận việc trên phố Prince Albrecht, ngay sau khi không mang cái họ Pietr nữa, vì nó mang đậm chất Slavơ.
Kohl từng nghe nói Krauss là một nhà điều tra có phương pháp dù họ chưa từng làm việc cùng nhau. Kohl luôn luôn từ chối xử lý những tội ác chính trị và giờ Cảnh sát cũng bị cấm tham gia luôn.
Krauss nói, “Chào Willi..”
“Chào. Cơn gió nào mang anh đến đây thế, Peter?”
Janssen gật đầu chào, nhà điều tra Gestapo cũng làm tương tự. Anh ta nói với Kohl. “Tôi nhận được một cuộc gọi từ sếp của chúng ta.”
Có phải ý anh ta nói đến chính Heinrich Himmler không nhỉ? Kohl tự hỏi. Một tháng trước, người đứng đầu SS đã kết hợp từng đơn vị cảnh sát tại Đức vào dưới trướng của ông ta, rồi tạo ra SIPO, đơn vị cảnh sát mặc thường phục có bao gồm Gestapo, Cảnh sát và SD khét tiếng, một bộ phận phản gián của SS. Himmler vừa được nhận chức chỉ huy trưởng cảnh sát. Một mô tả khá khiêm tốn đối với một nhà thực thi luật pháp quyền lực nhất quả đất, Kohl đã nghĩ thế vào thời điểm tuyên bố.
Krauss nói tiếp, “Ông ấy được Lãnh tụ hướng dẫn phải giữ gìn sự trong sạch cho thành phố trong kỳ Thế vận hội. Chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ tất cả các tội ác nghiêm trọng gần, Làng Thế vận hội và trung tâm thành phố, đảm bảo rằng hung thủ phải bị bắt ngay lập tức. Và ở đây, một án mạng cách không xa Tiergaten.” Krauss tặc lưỡi lo lắng.
Kohl liếc nhìn lộ liễu đồng hồ đeo tay, chỉ muốn đến ngay Khu Vườn Mùa Hạ. “Tôi e rằng tôi phải đi rồi, Peter.”
Đang xem xét thật kỹ cái xác, đầu cúi thấp, tay Gestapo nói, “Thật không may, với tất cả những phóng viên nước ngoài trong thành phố… Thật khó để kiểm soát họ, theo dõi họ.”
“Phải, phải, nhưng…”
“Chúng ta cần chắc chắn việc này được giải quyết trước khi họ biết về cái chết,” Nói rồi, Krauss bước chậm rãi thành một vòng tròn quanh người chết. “Chúng ta có biết anh ta là ai không?”
“Vẫn chưa. Chứng minh thư của anh ta bị mất. Cho tôi biết, Peter, vụ này sẽ chẳng liên quan gì đến một tay SS hay SA nào phải không?”
“Chuyện đó thì tôi không biết,” Krauss nhíu mày đáp. “Sao thế?”
“Trên đường tới đây, Janssen và tôi để ý thấy nhiều lính tuần tra. Những chốt chặn ngẫu hứng kiểm soát giấy tờ. Nhưng chúng tôi vẫn chưa nghe tin gì về hoạt động này.”
“Ôi dào, chẳng có gì đâu,” thanh tra Gestapo, xua tay nói. “Một vấn đề an ninh nhỏ thôi. Cảnh sát chẳng cần phải quan tâm đâu.”
Kohl lại nhìn đồng hồ đeo tay. “Mà tôi thực sự phải đi rồi, Peter.”
Sĩ quan Gestapo đứng dậy. “Anh ta có bị cướp không?”
“Mọi thứ trong túi anh ta bị mất,” Kohl sốt ruột đáp.
Krauss nhìn chằm chằm cái xác một lúc lâu, tất cả những gì Kohl có thể nghĩ đến là nghi phạm có thể đang ngồi tại nhà hàng Khu Vườn Mùa Hạ, đang dùng dở bữa trưa với thịt tẩm bột chiên hoặc xúc xích Đức. “Tôi phải quay về,” Kohl nói.
“Một lúc thôi.” Krauss tiếp tục nghiên cứu cái xác. Cuối cùng, không nguớc mắt lên, anh ta nói, “Sẽ có lý hơn nếu kẻ sát nhân là một người nuớc ngoài.”
“Một người nuớc ngoài à? Ồ…” Janssen nói nhanh, đôi lông mày nhướn lên trên khuôn mặt trẻ trung, nhưng Kohl liếc xéo bằng ánh mắt sắc lạnh, cậu ta liền im bặt.
“Chuyện gì thế?” Krauss hỏi cậu ta.
Tay thanh tra học việc phục hồi lại nhanh chóng. “Tôi thấy tò mò tại sao anh lại nghĩ rằng điều đó có lý.”
“Con ngõ vắng vẻ, giấy tờ nhận dạng bị mất, một phát súng tàn bạo… Khi cậu đã làm trong ngành này một thời gian, cậu sẽ có cảm giác đối với hung thủ trong các án mạng như thế này, Thanh tra học việc ạ.”
“Một án mạng như cái gì cơ?” Kohl không kìm được phải hỏi. Một người đàn ông bị bắn chết trong một con ngõ ở Berlin, hầu như chẳng phải là điều đặc biệt gì trong những ngày này.
Nhưng Krauss không đáp. “Nhiều khả năng là người Roma hoặc Ba Lan. Nhũng con người bạo lực, chắc chắn rồi. Cùng rất nhiều những động cơ giết một người Đức vô tội. Hoặc kẻ sát nhân có thể là người Séc, dĩ nhiên là đến từ phía Đông, không phải Sudetenland*. Chúng nổi tiếng chuyên bắn người từ đằng sau.”
Kohl suýt nữa nói thêm: như Đội Xung kích đấy thôi. Nhưng ông chỉ nói, “Vậy thì chúng ta có thể hy vọng rằng hung thủ hóa ra lại là người Slavơ.”
Krauss không phản ứng gì khi bị ám chỉ đến nguồn gốc dân tộc mình. Nhìn cái xác lần nữa. “Tôi sẽ hỏi han về chuyện này, Willi. Tôi sẽ cử người của tôi liên hệ với đám điệp viên A trong khu này.”
Kohl đáp, “Tôi thấy được khuyến khích với ý nghĩ sử dụng những người đưa tin của Phát xít vào việc này. Họ rất giỏi làm việc đó. Và họ cũng rất đông đảo nữa.”
“Đúng vậy.”
Chúa phù hộ ông ta. Janssen sốt ruột nhìn đồng hồ đeo tay, nhăn nhó rồi nói, “Chúng ta trễ buổi họp lắm rồi, thưa sếp.”
“Phải, phải, đúng rồi.” Kohl vừa dợm bước ra đầu ngõ, nhưng dừng chân và gọi Krauss, “Một câu hỏi nữa thôi?”
“Gì thế, Willi?”
“Bộ trưởng Không quân Göring thường đội mũ kiểu gì?”
“Anh đang hỏi…?” Krauss nhíu mày.
“Göring. Mũ kiểu gì?”
“Ồ, tôi không biết,” anh ta đáp, nhìn như kiểu bị tác động mạnh, như thể đây là kiểu kiến thức tay sĩ quan Gestapo nào cũng phải biết. “Mà sao thế?”
“Thôi quên đi.”
“Hail Hitler.”
“Chào.”
Khi hai người vội vã bước lại chiếc DKW, Kohl nói không ra hơi. “Trao cuộn phim cho một trong các sĩ quan Cảnh sát đô thị, bảo cậu ta chạy thật nhanh về trụ sở. Tôi muốn có ảnh ngay lập tức.”
“Rõ, thưa sếp.” Tay thanh niên quay lại trao cuộn phim cho một sĩ quan, hướng dẫn cậu ta rồi đuổi theo Kohl, ông đang gọi một tay cảnh sát. “Khi người của nhân viên điều tra cái chết bất thường đến đây, bảo họ rằng tôi muốn có báo cáo khám nghiệm pháp y càng sớm càng tốt. Tôi muốn biết về những căn bệnh người bạn của chúng ta đây có thể mắc phải. Đặc biệt là bệnh lậu và bệnh lao phổi. Và tiến triển của bệnh. Cả những thứ trong dạ dày anh ta nữa. Những hình xăm, xương gẫy và cả sẹo phẫu thuật nữa.”
“Rõ, thưa sếp.”
“Nhớ bảo họ là khẩn cấp đấy.”
Sự bận rộn của các nhân viên điều tra những cái chết bất thường những ngày này khiến cho có thể phải mất từ tám đến mười tiếng để đưa thi thể đến nơi, công tác khám nghiệm sẽ phải mất vài ngày.
Kohl nhăn nhó vì đau khi ông lao vào chiếc DKW, lớp lông cừu trong đôi giày đã thay đổi. “Đường nhanh nhất đến Khu Vườn Mùa Hạ là đường nào? Mà thôi kệ đi, chúng ta sẽ tìm ra được thôi.” Ông nhìn quanh. “Ngay đó!” ông hét lên, chỉ tay về một quầy báo. “Đi mua từng tờ báo mà họ bán.”
“Rõ, thưa sếp, nhưng tại sao?”
Willi Kohl buông mình xuống ghế tài xế, ấn nút bộ phận đánh lửa. Giọng ông không ra hơi nhưng vẫn cố cho thấy sự nóng vội. “Bởi vì chúng ta cần ảnh Göring đội mũ. Sao gì nữa?”
Sudetenland: Một vùng của Tiệp Khắc.